← Quay lại trang sách

CẢNH 7 Tại Phòng Dành Riêng-Ở Nhà Đậu Xe Điện-Thứ Sáu, Ngày 4 Tháng 9-8 Giờ 05 Tối

Theo tường thuật của thanh tra Thumm thì các sự kiện sau đó nối tiếp nhau diễn ra nhanh chóng sau khi những hành khách khác trên xe điện được cho về.

Lúc ấy, thanh tra Thumm quay lại gian phòng dành riêng nơi nhóm người đi chung với Longstreet đang khổ sở chờ đợi. Louis Imperiale, ra dáng một quý ông, nhác thấy Thumm lập tức đứng dậy cúi chào rất chỉn chu, hai gót chân rập vào nhau theo lối nhà binh trông hết sức lố bịch.

“Ngài thanh tra kính mến,” gã uốn giọng cố sao cho dễ thương nhất, “xin vui lòng thứ lỗi cho sự suy đoán của tôi, nhưng tôi chắc rằng mọi người ở đây đều đang có ít nhiều nhu cầu về thực phẩm, dù chúng tôi có lẽ chả thiết gì lắm chuyên ăn uống lúc này. Liệu ông có cho rằng ta nên dự phòng gì đó chăng, ít nhất là cho các quý bà quý cô đây?” (22)*

Thumm nhìn quanh. Bà DeWitt vẫn cứng đờ như pho tượng trên báng ghế, mắt lim dim. Tiểu thư Jeanne DeWitt đang tựa vào bờ vai rộng của Lord, cả hai đều nhợt nhạt. DeWitt và Ahearn nhỏ giọng chuyện trò rời rạc. Pollux ngồi cúi người về phía trước, tay kẹp giữa gối, đang thì thầm nhỏ to cùng Cherry Browne, vẻ mặt khăng khăng cùng hàm răng nghiến chặt của ả đã hủy hoại sạch sẽ những gì gọi là vết tích của sự xinh xắn. Michael Collins thì úp mặt vào hai bàn tay.

“Được thôi, ngài Imperiale. Dick, chạy xuống lầu kiếm nhanh gì đó cho mọi người đây nhé.”

Một thám tử cầm lấy tờ giấy bạc từ tay Imperiale và rời khỏi phòng. Gã người Thụy Sĩ trở lại băng ghế với vẻ mặt tự đắc của một người đàn ông vừa hoàn thành mỹ mãn sứ mệnh của mình.

“A, bác sĩ, kết luận sao?”

Bác sĩ Schilling đang đứng trước tấm màn che và mặc lại áo khoác vào người, chiếc mũ vải bèo nhèo của ông vắt ngang qua chỏm đầu nhẵn thín trông thật kỳ khôi. Ông khẽ cong đầu ngón tay ra hiệu cho thanh tra Thumm bước đến, và hai người cùng ra phía sau bức màn cạnh cái xác. Ngồi trên băng ghế cạnh đó là một trong hai viên bác sĩ trực xe cứu thương, lúc này anh ta đang cắm cúi điền vào mẫu báo cáo còn người kia thì vừa giũa móng tay vừa huýt sáo khe khẽ.

“Thế đấy, thưa sếp,” bác sĩ Schilling vui vẻ bắt đầu, “quả là một công việc hấp dẫn, rất hấp dẫn. Chết vì liệt cơ hô hấp, nhưng đó là một chi tiết.” Bàn tay trái ông ta vung vẩy, ông đưa bàn tay trái lên còn bàn tay phải bắt đầu đếm: “Thứ nhất, chất độc.” Ông hất đầu về phía chiếc ghế, nơi thứ vũ khí đang nằm chỏng chơ vẻ vô tội gần đôi chân cứng đờ của Longstreet, “số đầu kim gắn trên nút bần tổng cộng là năm mươi ba. Đầu kim và lỗ kim đều được tẩm nicotine, nicotine dạng đậm đặc.”

“Tôi nghĩ mình ngửi thấy mùi thuốc lá”, thanh tra Thumm lẩm bẩm.

“Đúng thế. Sản phẩm lúc ban đầu là một chất lỏng không màu không mùi. Nhưng nếu hòa với nước hoặc để bay hơi nó sẽ chuyển sang màu nâu sẫm và ta có thể ngửi thấy mùi thuốc lá đặc trưng. Không nghi ngờ gì chất độc verdammte đã trực tiếp gây ra cái chết của nạn nhân. Tuy nhiên, vẫn cần phải giải phẫu để đảm bảo không còn nguyên nhân nào khác. Chất độc đi vào người nạn nhân bằng phương pháp trực tiếp: hai mươi mốt nốt kim châm vào bàn tay và ngón tay, chất độc lập tức ngấm vào máu. Theo hiểu biết của tôi, nạn nhân không sống được đến vài phút. Điều này có nghĩa là nạn nhân là một người nghiện thuốc lá nặng. Có khả năng chịu được thuốc lá bất thường”

“Thứ hai, bản thân vũ khí.” Ông bác sĩ lại gập tiếp một ngón tay chuối mắm. “Một giải thưởng đặt trong bảo tàng của cảnh sát, ngài thanh tra. Rất tầm thường, rất đơn giản, rất độc đáo và cực độc! sản phẩm của một bộ óc mưu trí tài tình.”

“Thứ ba, nguồn gốc của chất độc”, ông gập ngón thứ ba, “Thumm thân mến, tôi không ghen tị với bạn tí nào đâu. Trừ khi chất độc này được lưu trữ ở những nơi hợp pháp, còn lại thì không thể lần ra được. Nicotine nguyên chất thì khó mua, nếu tôi là kẻ gây án tôi chả mua nó ở nơi bán hóa chất làm gì. Tất nhiên có thể chưng cất nó từ một lượng cực lớn thuốc lá, thông thường có chứa nicotine ở tỉ lệ bốn phần trăm. Nhưng biết tìm đâu ra một cái máy chưng cất nicotine? Cách đơn giản nhất là mua một thùng thuốc trừ sâu.” Bác sĩ Schilling nói tên một loại thuốc trừ sâu dạng lỏng, “và thế là ta có nicotine mà không phiền toái gì lắm. Loại thuốc này chứa đến ba mươi lăm phần trăm nicotine rồi, chỉ cần chờ nó bay hơi, ta sẽ có chất kết dính như chất được tìm thấy ở đầu kim.”

“Tôi cũng sẽ cử người đến những nơi lưu trữ hợp pháp,” Thumm nói, “Chất độc này phát tác sau bao lâu, ông Đốc?”

Bác sĩ Schilling cong môi, “Thông thường chỉ mất vài giây, nếu chất nicotine không đậm đặc, và Longstreet là người nghiện thuốc lá nặng, nên chỉ mất ba phút hoặc hơn một chút.”

“Tôi đoán vậy là do chất nicotine, phải không, còn gì nữa không?”

“Tớ nói thật, tớ cũng không phải loại lá ngọc cành vàng gì đâu, nhưng gã này bốc mùi quá rồi. Phù! Tớ sẽ cho cậu biết sau khi khám nghiệm tử thi vào ngày mai. Không còn gì ở đây nữa, ngài thanh tra; mấy cậu này sẽ đưa gã đi. Xe đang chờ bên ngoài.”

Thanh tra Thumm lại cẩn thận gói cái nút bần gắn kim châm bằng bao thuốc lá và giấy báo và quay sang nhóm của Longstreet. Ông đưa cái gói cho trung sĩ Duffy và đứng tránh sang bên để hai bác sĩ tập sự mang cái cáng phủ chăn đi ra, theo sau là ông đốc Schilling đang hết sức tươi tỉnh.

Không khí lại im phăng phắc khi cái xác được chuyển đi.

Người thám tử cấp dưới có vẻ không khó khăn gì trong việc bổ sung thực phẩm: nhóm người đang mở gói sandwich và chậm chạp nhai, nhấm nháp café đựng trong cốc.

Thumm quay sang DeWitt, “Là bạn hợp doanh của Longstreet, ông hẳn có thể cho tôi biết thói quen của ông ấy, ông DeWitt. Người bán vé thường nhìn thấy ông ấy đi xe điện. Ông thấy điều này thế nào?”

“Về mặt thói quen thì Longstreet đặc biệt có nếp có nang.” DeWitt chua cay, “Ví dụ, thời gian rời văn phòng. Nói thật thì ông ấy không thích làm việc lâu hay làm việc khó; hầu hết các vấn đề hóc búa ông ấy đưa cho tôi. Trụ sở chính của chúng tôi ở phố Wall, nhưng chúng tôi có thói quen sang văn phòng chi nhánh ở Quảng trường Thời Đại sau khi phố Wall đóng cửa, rồi từ đó về Tây Englewood. Longstreet thường rời văn phòng vào cùng một giờ, trước sáu giờ một chút. Ông ấy luôn bắt cùng một chuyến tàu bên phía Jersey. Tôi đồ rằng vì chính thói quen này nên ông ấy giục chúng tôi rời khỏi khách sạn hôm nay để bắt chuyến tàu đó. Vì thế chúng tôi lại lên chính cái chuyến xe điện đó.”

“Theo tôi hiểu thì các ông bắt chuyến xe điện này khá thường xuyên.”

“Vâng. Khi tôi ở lại muộn ở văn phòng, tôi thường trở về Tây Englewood cùng Longstreet.”

Thanh tra Thumm thở dài. “Vì sao hai ông không dùng xe riêng trong giờ làm việc?”

DeWitt mỉm cười dứt khoát: “Do giao thông hỗn độn của New York này thôi. Chúng tôi có xe chờ ở ga Englewood.”

“Thế về các mặt khác Longstreet có chuẩn chỉnh như vậy không?”

“Rất nguyên tắc, thưa ngài thanh tra, về các thứ nhỏ nhặt; dù trong đời sống riêng tư ông ấy khá liều lĩnh và không đáng tin cậy lắm. Nhưng ông ấy luôn đọc cùng một tờ báo, tham khảo báo cáo cổ phiếu trên báo trên đường ra bến phà, như tôi đã nói với ông. Mặc cùng loại quần áo trong ngày làm việc, hút một loại xì gà, một loại thuốc lá, ông ấy nghiện nặng, vâng, trong các chi tiết khác thì ông ấy có thói quen ít thay đổi, kể cả”, DeWitt lạnh lùng nói, “thói quen đến văn phòng vào buổi trưa.”

Thumm thờ ơ nhìn DeWitt, châm một điếu thuốc nữa, rồi hỏi: “Ông ấy phải đeo kính khi đọc à?”

“Phải, chỉ khi đọc gần. Ông ấy ưa làm đỏm, nên cho là đôi kính sẽ làm hỏng vẻ bô trai, lúc nào bỏ được là bỏ, dù không có kính nhiều lúc cũng khá bất tiện cho ông ấy. Ông ấy bắt buộc phải đeo lúc đọc thôi, kể cả trong nhà hay bên ngoài.”

Thumm thân thiện đặt bàn tay lên đôi vai mảnh của DeWitt. “Chúng ta thẳng thắn với nhau nhé, ngài DeWitt. Ông đã nghe cô Browne buộc tội ông giết Longstreet đấy! Tất nhiên đó là điều vô lý. Nhưng cô ấy nói đi nói lại là ông ghét ông ấy thậm tệ, phải không?”

DeWitt chợt làm một cử chỉ, bàn tay to bè của Thumm đè lên vai người môi giới chứng khoán nhưng không hiểu sao lại rụt về. DeWitt lạnh lùng nói: “Tôi không liên quan gì đến vụ ám sát ông bạn làm ăn của tôi, nếu đó là ý kiến thẳng thắn của ông.”

Thumm điềm đạm nhìn chằm chằm thật lâu vào đôi mắt không gợn chút gì của DeWitt. Rồi ông nhún vai quay sang những người khác trong phòng. Xin mời mọi người đây đúng chín giờ sáng mai vui lòng gặp tôi ở văn phòng DeWitt & Longstreet tại Quảng Trường Thời Đại để tiếp tục thẩm vấn. Không trường hợp nào ngoại lệ, thưa quý ông quý bà.”

Mọi người mệt mỏi đứng dậy lê chân ra phía cửa. “Xin lưu gót,” viên thanh tra nói tiếp. “Cố nhiên tôi lấy làm tiếc, nhưng quý vị ai cũng phải xong thủ tục khám người trước đã. Duffy, hãy mời một nữ cảnh sát cho các quý bà quý cô đây.”

Đám người ai nấy đều há hốc, DeWitt cất giọng giận dữ phản đối. Thumm mỉm cười. “Chắc hẳn không vị nào ở đây có gì giấu giếm đấy chứ?”

Cái thủ tục được tiến hành ở phòng khách lớn cách đây vài phút giờ được lặp lại dưới con mắt quan sát của Thumm. Cánh đàn ông thì khó chịu, cánh phụ nữ thì đỏ mặt giận dữ. Phu nhân DeWitt phá tan sự câm lặng của bà suốt mấy giờ liền bằng câu chửi đổng bằng tiếng Tây Ban Nha nhằm vào bộ ngực vạm vỡ của viên thanh tra. Ông nhướng mày rồi phất tay ra hiệu cho viên nữ cảnh sát dứt khoát vào việc.

“Tên, địa chỉ,” giọng đều đều của Jonas vang lên khi họ bắt đầu nối đuôi nhau ra cửa sau khi khám xét xong.

Duffy trông méo xệch vì thất vọng. “Chả có gì cả sếp ạ. Chả có tí bóng dáng của kim châm, nút bần hay bất cứ thứ gì đáng nghi cả.”

Thumm đứng chôn chân giữa phòng, hết bặm môi lại quay sang nhíu mày, rồi cất giọng gay gắt. “Xét phòng.”

Gian phòng được rà soát kỹ càng.

Khi thanh tra Thumm rời khỏi nhà đậu xe điện cùng đám học việc của mình, cặp chân mày của ông vẫn còn nhăn tít.