CẢNH 3 Chuyến Tàu Tuyến Địa Phương Weehawken - Newburgh-Thứ Bảy, Ngày 10 Tháng 10-12 Giờ 20 Sáng
Họ tách ra thành hai nhóm: Jeanne, Lord và gã Imperiale hào hoa ngồi phía trước toa, đang cùng nhau chuyện trò vui vẻ; DeWitt, Lane, Brooks và Ahearn chọn chỗ gần giữa toa, nơi ghế ngồi đối diện với nhau.
Tàu vẫn chưa rời ga Weehawken. Vị luật sư đang chăm chú nhìn DeWitt bằng ánh mắt thẳng thắn giờ quay sang Drury Lane ngồi phía đối diện, ông chợt cất tiếng: “Ngài Lane à, điều ngài nói tối nay ấy mà, ngài biết đấy, đã khiến tôi quan tâm rất nhiều… Ngài nói về ‘những năm dài vô tận’ được gói gọn chỉ trong giây phút - giây phút một kẻ ngồi trước tòa chờ đợi lời phán quyết hoặc sẽ trao ông ta án tử hoặc đưa ông ta ra khỏi phòng xử án với cuộc đời hoàn toàn mới mẻ. Những năm dài vô tận! Cụm từ tuyệt diệu đấy, ngài Lane…”
“Một cụm từ chính xác,” DeWitt tiếp lời,
“Ngài nghĩ thế sao?” Brooks đảo mắt nhìn vẻ mặt điềm tĩnh của DeWitt. “Nó làm tôi nhớ đến cái thời gian nói trong một câu chuyện tôi đọc ở đâu đó - tôi nghĩ là của Ambrose Bierce (73)* thì phải. Quả thực là một câu chuyện rất lạ, nó kể về một người sắp bị treo cổ. Trong… à, trong khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi gãy cổ người này bỗng thấy lại từng chi tiết đời mình tái hiện trong não. Ngài Lane ạ, ý tưởng ‘những năm dài vô tận’ của ngài xuất hiện cả trong văn chương; và tôi tin chắc nhiều văn sĩ khác cũng đề cập đến ý này.”
“Tôi nghĩ mình biết câu chuyện này,” Lane đáp lời. Ngồi cạnh Brooks, DeWitt gật đầu. “Toàn bộ vấn đề về thời gian nói ở đây là tương đối, theo như các nhà khoa học đề cập vài năm gần đây. Những giấc mơ, chẳng hạn, xét về nhận thức thì dường như đã choán lấy não bộ trong suốt thời gian tĩnh lặng của ban đêm, song trên thực tế theo một số nhà tâm lý học thì giấc mơ chỉ chiếm lĩnh vào khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc ranh giới giữa tiềm thức trong giấc ngủ và ý thức khi vừa tỉnh mà thôi.”
“Tôi cũng có nghe về điều đó,” Ahearn nói. Gã đang ngồi đối diện với DeWitt và Brooks, ghế ngồi hướng mặt ra phía trước.
“Điều tôi thực sự đang muốn hỏi ở đây,” Brooks nói - ông lại nhìn DeWitt - “Là cách hiện tượng tinh thần đặc biệt này ứng vào ông, John ạ. Tôi không khỏi thắc mắc - mà tôi đoán nhiều người chúng ta ở đây cũng thế - rằng chính xác thì ông đã nghĩ gì vào cái khoảnh khắc ngay trước lúc lời phán quyết được đưa ra hôm nay.”
“Có lẽ,” Drury Lane nhẹ nhàng, “có lẽ ngài DeWitt không nói thì hơn.”
“Ngược lại.” Mắt gã môi giới sáng ngời; gương mặt gã trở nên hoạt bát. “Giây phút ấy với tôi là một trong những trải nghiệm lạ lùng nhất trong đời. Một trải nghiệm mà theo tôi, đã xác nhận cả nguyên tắc của Bierce lẫn lý thuyết giấc mơ mà ngài Lane đây vừa đề cập.”
“Anh không có ý nói là toàn bộ đời mình vụt lóe lên trong trí óc vào thời khắc ấy chứ?” Ahearn chừng như vô cùng hoài nghi.
“Ồ, không. Điều gì đó hết sức hiếm hoi, hết sức kỳ lạ…” DeWitt ngả người vào lưng ghế nệm màu lục rồi nói nhanh. “Một trường hợp về nhân dạng. Cách đây khoảng chín năm, tôi được mời tham gia nhiệm vụ bồi thẩm đoàn ở một phiên tòa xét xử tội cố sát tại New York này. Bị cáo là một gã đàn ông tàn phế đã già có thân hình to lớn nặng nề, bị kết tội đâm chết một người phụ nữ trong một ngôi nhà trọ rẻ tiền. Đây là vụ án cố sát cấp một - công tố viên đã chứng minh một cách thuyết phục rằng vụ cố sát đã được tính toán từ trước một cách có chủ ý - và gã này đã phạm tội rành rành. Suốt phiên tòa xử ngắn ngủi và cả lúc ở phòng bồi thẩm đoàn sau đó khi chúng tôi tranh cãi về số phận ông ta, tôi luôn bị ám ảnh với cảm giác rằng tôi đã gặp qua người bị cáo này đâu đó trước đây. Như bao người khác thường làm ở hoàn cảnh như thế, tôi lục lọi trí nhớ hòng tìm cách nhớ ra nhân dạng của gã cho đến khi cảm thấy mệt lử, nhưng đã không tài nào nhớ ra được gã là ai hoặc tôi đã từng gặp gã ở đâu và khi nào.”
Sau tiếng xì hơi, tiếng rít ken két kéo căng mối nối và tiếng lăn bánh xành xạch, đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh, DeWitt nói to thêm một chút. “Nói tóm lại, tôi đồng tình theo ý kiến chung rằng gã này đã phạm tội trên cơ sở các chứng cứ đưa ra và bỏ phiếu kết tội, chúng tôi đưa lời phán quyết ra trước tòa, người đàn ông bị kết án và xử tử. Sau đó tôi hoàn toàn quên bẵng đi sự kiện này.”
Đoàn tàu nghiến trên đường ray lăn bánh khỏi nhà ga. Không ai nói gì đang lúc DeWitt ngừng lại và liếm môi. “Giờ mới là phần kỳ lạ của câu chuyện. Theo hồi ức, chắc chắn suốt chín năm sau đó tôi chưa từng một lần nghĩ lại về gã đàn ông hoặc phiên tòa hôm ấy. Nhưng hôm nay, khi tòa yêu cầu chủ tịch bồi thẩm đoàn ra phán quyết - cái phán quyết sống còn - vào cái khoảng thời gian vô cùng nhỏ nằm giữa âm tiết cuối của câu hỏi chính thức và từ đầu tiên của câu trả lời chính thức của vị chủ tịch bồi thẩm đoàn - bỗng đâu khuôn mặt gã đàn ông bị xử tử ấy đội đất trồi lên rồi đu đưa trước con mắt nội tâm trong tôi; cùng lúc ấy tôi cũng thình lình giải đáp được bài toán gã là ai và mình đã gặp gã ở đâu - quý vị lưu ý là đã chín năm sau, kể từ lần cuối tôi bận tâm về chuyện này đấy.”
“Thế gã là ai?” Brooks tò mò hỏi.
DeWitt mỉm cười. “Tôi bảo là nó rất kỳ lạ đúng không… Cách đây hai mươi năm hoặc gần như thế, khi ấy tôi còn mải lang thang đây đó ở Nam Mỹ, tình cờ tôi ở vào một nơi gọi là Barinas thuộc miền quê Zamora của Venezuela. Đêm nọ, lúc đang trên đường về chỗ trọ ngang qua một con hẻm tối tăm, tôi nghe thấy có tiếng ẩu đả dữ dội vọng ra. Thời ấy tôi còn trẻ và liều lĩnh hơn tôi bây giờ, tôi dám nói vậy. Có súng ngắn mang theo trong người, tôi rút súng chạy vào hẻm thì thấy hai gã du côn rách rưới đang tấn công một người da trắng, một gã đang vung một thanh dao rựa lên đầu nạn nhân. Tôi nổ súng, phát đạn bắn chỉ thiên nhưng cũng khiến hai gã cướp đường cảnh giác, là tôi đoán thế, và bỏ chạy, bỏ lại trên mặt đất người đàn ông da trắng khắp người đã có đến vài nhát dao. Đang lúc tôi tiến về phía ông ta, bụng thầm nghĩ người này đã bị thương nặng, thì ông ta vùng đứng dậy, phủi lấy chiếc quần vải bông lấm bụi và bê bết máu, miệng lầm bầm câu cảm ơn, rồi lê chân khập khiễng vào đêm tối. Tôi thoáng nhìn thấy được gương mặt của ông ta. Và người này, cuộc sống do tôi ra tay cứu lấy cách đây hai mươi năm, chính là người mà hơn mười năm sau cũng là tôi góp tay đưa lên ghế điện, số mệnh sao thật khéo an bài?”
“Đáng là một nơi trong văn hóa dân gian bất hủ.” Ngài Drury Lane cất tiếng sau một hồi im lặng.
Đoàn tàu đi vào màn đêm tối mịt, đây đó lấm chấm ánh đèn điện của vùng ngoại ô Weehawken.
“Nhưng phần kỳ lạ của câu chuyện,” DeWitt tiếp, “là ở chỗ bỗng dưng tôi lại giải đáp điều bí ẩn trêu ngươi này giữa lúc mạng sống của chính tôi đang lâm nguy! Lưu ý là tôi chỉ thấy qua gương mặt người đàn ông này duy nhất một lần mà thôi, mà lại là cách đây rất nhiều năm.”
“Một trong những câu chuyện lạ lùng nhất tôi từng nghe qua đấy,” Brooks nói.
“Trí nhớ con người vào khoảnh khắc trước khi chết có khả năng làm nên những điều còn kỳ lạ hơn nữa,” Lane nói. “Cách đây tám tháng tôi đọc trên báo một mẩu tin từ thành phố Vienne thuật lại tường tận một vụ án mạng ở đấy. Là như thế này: Người ta phát hiện một người bị bắn chết tại một phòng khách sạn, cảnh sát thành Vienne dễ dàng nhận ra người không mấy quan trọng hoạt động trong thế giới ngầm, trước đây cũng từng làm chỉ điểm cho cảnh sát. Động cơ phạm tội rõ ràng là báo thù, có lẽ do một tên tội phạm nào đấy từng bị gã này mật báo ra pháp luật khiến hắn phải khốn đốn. Bài báo tường thuật rằng nạn nhân sống trong khách sạn ấy nhiều tháng liền và hiếm khi chường mặt ra khỏi phòng, kể cả bữa ăn cũng được mang đến tận nơi, rõ ràng gã đang trốn tránh kẻ nào đó. Tại lúc phát hiện gã bị giết, người ta thấy đồ ăn thức uống từ bữa ăn cuối cùng của gã vung vãi đầy bàn. Gã bị bắn lúc đang đứng cách bàn chừng bảy bộ; đấy là một phát súng chí mạng nhưng không làm nạn nhân chết ngay, cảnh sát quả quyết điều này nhờ quan sát vệt máu kéo từ đấy qua tấm thảm rồi đến chân bàn nơi gã được tìm thấy nằm chết ở tư thế sõng soài. Có một tình huống rất khác thường, đó là bát đựng đường trên bàn bị lật úp, đường cát đổ tung tóe đầy mặt khăn trải bàn, và có cả một nắm đường còn trong lòng bàn tay nắm chặt của người chết.”
“Hay nhỉ,” DeWitt lẩm bẩm.
“Giải thích dường như khá đơn giản, hắn bị bắn ở nơi cách chiếc bàn bảy bộ, cố lết đến chỗ chiếc bàn rồi bằng nghị lực phi thường đã gượng đứng dậy đủ để vốc lấy một nắm đường trước khi ngã khuỵu xuống sàn chết hẳn. Nhưng tại sao? Vốc đường có ý nghĩa gì? Lý giải thế nào về hành vi tuyệt vọng cuối cùng này của một kẻ đang hấp hối? Cảnh sát thành Vienne bị bó tay, mẩu tin kết luận như vậy.” Ngài Drury Lane mỉm cười với những người chăm chú lắng nghe. “Lời giải cho những câu hỏi kích thích sự tò mò này lóe lên trong tâm trí và tôi liền viết thư gửi cho thành Vienne. Vài tuần sau tôi nhận được phúc đáp từ ngài Giám đốc cảnh sát ở đó nói rằng, trước khi thư của tôi đến tay họ thì thủ phạm gây án cũng đã bị bắt giữ, nhưng họ nói thêm rằng giải pháp của tôi ghi trong thư đã làm rõ tình tiết giữa người chết và vốc đường - chi tiết mà đến cả sau khi bắt được kẻ sát nhân rồi cảnh sát vẫn không thể lý giải được.”
“Vậy lời giải của ngài là gì?” Ahearn hỏi. “Dựa vào những chi tiết ít ỏi như thế riêng tôi không tài nào nghĩ ra một lý giải khả dĩ nào cả.”
“Tôi cũng thế,” Brooks nói.
Miệng của DeWitt mím lại thành một hình thù khác thường; nét mặt gã cau lại.
“Thế ông thì sao, ngài DeWitt?” Lane lại mỉm cười hỏi.
“Tôi e mình không thấy được ý nghĩa riêng ở chỗ vốc đường,” gã môi giới trầm ngâm. “Song có một điều chừng như hoàn toàn rõ ràng. Đấy là, người đàn ông hấp hối ấy đang để lại một manh mối về nhân dạng kẻ giết ông ấy.”
“Tuyệt vời!” Lane reo lên. “Chính xác là điểm này, ngài DeWitt. Quan sát rất khá. Phải chăng đường, chất đường, là manh mối? Đấy là, giả thử ta đưa vấn đề đến tận hàm ý khôi hài nhất của nó, phải chăng nạn nhân có ý nói rằng kẻ giết ông ta là người hảo ngọt? Mặt khác, liệu nó ám chỉ rằng tên sát nhân là người mắc chứng tiểu đường? Cường điệu, tất nhiên. Tôi đã không tin điều này; vì manh mối rõ ràng được lưu lại để gợi ý cho cảnh sát, và dường như rằng kẻ hấp hối muốn để lại một manh mối mà dựa vào đó cảnh sát có thể điều tra dễ dàng hơn. Mặt khác, đường còn có thể mang nghĩa gì nữa - về tự nhiên thì đường cát nhìn tựa thứ gì? À, đó là một chất kết tinh màu trắng… Vì thế tôi viết cho ngài giám đốc cảnh sát thành Vienne rằng đường chưa hẳn ám chỉ kẻ sát nhân là người mắc chứng tiểu đường, lý giải khả dĩ hơn đấy là tên sát nhân là kẻ nghiện cocaine.”
Mọi đôi mắt đều đổ dồn vào Lane. DeWitt mỉm cười, tay nhè nhẹ vỗ đùi. “Cocaine, tất nhiên rồi! Một chất bột kết tinh màu trắng!”
“Người bị bắt,” Lane tiếp, “là kẻ nghiện cocaine, đấy là những gì tin tức lá cải của chúng ta phấn khởi thông báo. Người liên lạc thư từ với tôi đã viết như vậy kèm theo nhiều lời bay bướm bày tỏ sự thán phục, tuy nhiên với tôi thì giải đáp này chừng như chỉ là một lý giải sơ đẳng. Điều khiến tôi chú ý đây là tâm lý của nạn nhân, theo lý thì vào giây phút ấy gã không thể còn giữ được một trí tuệ thông thường. Đâu đó bên trong não bộ gã đã lóe lên một sự nhanh trí, gã đã lưu lại manh mối duy nhất về nhân dạng của kẻ sát nhân mà gã nghĩ ra vào đúng khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi chết. Các ngài thấy đấy - vào khoảnh khắc duy nhất, như thần ấy trước khi lìa đời, không có giới hạn nào về tầm tư duy mà trí óc con người không thể vươn đến.”
“Hoàn toàn đúng vậy, không có giới hạn nào cả,” DeWitt nói. “Đấy là một câu chuyện lý thú, ngài Lane ạ. Dù ngài cho rằng sự suy luận chỉ là sơ đẳng, tôi thì lại thấy toàn bộ việc này là bằng chứng về tài năng nhận diện bản chất bên dưới sự vật một cách khác thường của ngài.”
“Nếu có mặt tại Vienne, ắt ngài ấy đã giúp cảnh sát ở đó tránh bớt khá nhiều rắc rối,” Ahearn xen vào.
Ga Bắc Bergen đã lùi sâu vào đêm tối.
Lane thở dài. “Tôi vốn thường nghĩ rằng toàn bộ vấn đề tội ác và trừng phạt sẽ trở nên đơn giản, nếu con người đứng trước kẻ cố sát tiềm tàng đều có thể để lại một dấu hiệu, dù mơ hồ đến thế nào chăng nữa, về nhân dạng của kẻ thủ ác.”
“Dù mơ hồ đến thế nào chăng nữa sao?” Brooks hỏi.
“Tất nhiên rồi, ngài Brooks, thà có dấu hiệu vẫn hơn, chẳng phải thế sao?”
Một gã cao lớn lực lưỡng, mũ kéo sụp tận mắt, mặt mày xanh xao trắng bệch, bước vào từ phía đầu toa. Hắn khệnh khạng đến chỗ bốn người đang trò chuyện rồi nặng nề tựa lưng vào chiếc ghế bọc vải kẻ ô màu xanh, người đu đưa theo nhịp lắc lư của con tàu, trừng mắt nhìn thẳng vào John DeWitt.
Lane ngừng nói, ngước mắt nhìn hắn vẻ bực mình, nhưng DeWitt đã cất lời bằng giọng khó chịu: “Collins,” nghe vậy người kịch sĩ liền chăm chú nhìn vào gã đàn ông. Brooks tiếp lời: “Ông say rồi đấy, Collins. ông muốn gì?”
“Không thèm nói chuyện với ông, quân vô lương,” Collins lè nhè, đôi mắt của hắn ngầu đỏ và điên dại; chúng chòng chọc một cách khó khăn vào DeWitt. “DeWitt,” hắn cố làm ra vẻ lịch sự, “tôi muốn nói chuyện riêng với ông.” Nói rồi hắn đẩy mũ lên, gắng xoay xở cho ra một nụ cười xởi lởi nhưng cái hắn làm được chỉ là một vẻ cười giả tạo đến buồn nôn. DeWitt nhìn hắn bằng ánh mắt nửa thương hại nửa chán ghét.
Đôi mắt xám của Drury Lane dõi theo câu chuyện của hai người, đảo qua đảo lại liên tục từ bộ mặt nặng trình trịch của Collins sang vẻ nhăn nhó tế nhị của DeWitt.
“Nghe này Collins,” DeWitt nói bằng giọng từ tốn hơn. “Tôi đã bảo đi bảo lại với anh rằng tôi không thể làm được bất cứ điều gì cho anh về vấn đề ấy. Anh thừa biết lý do mà, và anh trở nên vô lối quá rồi đấy. Chả lẽ anh không thấy mình đang chen giữa hội tôi sao? Hãy cư xử phải phép và đi khỏi đây.”
Khóe miệng Collins xệ xuống, đôi mắt đỏ kè của hắn đờ ra và ngân ngấn nước. “Hãy nghe tôi, DeWitt,” hắn hạ giọng, “anh nhất định phải để tôi nói chuyện với anh. Anh không biết điều này có nghĩa thế nào với tôi đâu. Nó là… nó là vấn đề sống hoặc chết.” DeWitt lưỡng lự; những người còn lại vờ nhìn đi nơi khác. Hình ảnh gã đàn ông này cùng bộ dạng hèn mọn không che đậy của gã khiến ai nấy không khỏi bối rối. Collins hối hả, chộp lấy tia hy vọng mong manh hứa hẹn bởi cử chỉ ngập ngừng của DeWitt. “Tôi xin hứa, tôi thề sẽ không làm phiền anh nữa nếu anh để tôi nói chuyện riêng cùng anh - chỉ lần này mà thôi. Làm ơn đi, DeWitt, hãy làm ơn!”
DeWitt đưa mắt ra điều lạnh nhạt nhìn hắn. “Anh nói đúng thế chứ, Collins? Anh sẽ không quấy rầy tôi nữa đấy chứ? Sẽ không đeo bám tôi kiểu này nữa chứ?”
“Đúng vậy! Anh hãy tin lời tôi!” Niềm hy vọng cháy bùng trong đôi mắt đỏ ngầu ấy thật rùng rợn. DeWitt buông tiếng thở dài, nói lời cáo lỗi rồi cùng gã bước dọc lối đi về phía đuôi toa tàu. DeWitt đầu cúi xuống, Collins nói liên hồi, dồn dập, khoa tay múa chân, van lơn khẩn khoản, mắt nhìn chăm chú vào gương mặt ngoảnh ra hướng khác của DeWitt. Bỗng nhiên DeWitt bỏ Collins đứng giữa lối đi, rồi quay lại chỗ ba người bạn đồng hành của mình.
Gã môi giới cho tay vào túi áo gilê ở ngực trái lấy ra những chiếc vé rời gã đã mua tại nhà ga, để lại trong túi cuốn sổ vé mới. Gã đưa những chiếc vé này cho Ahearn. ”Frank, anh cầm chút nữa đưa cho người soát vé,“ gã nói. ”Tôi không chắc mình sẽ mất bao thời gian với gã phiền toái này, phần tôi họ sẽ thu sau.”
Ahearn gật đầu và DeWitt bước trở về phía đuôi toa tàu nơi Collins đang đứng chờ trong dáng vẻ ủ rũ. Hắn cố làm ra bộ tươi tỉnh khi DeWitt tiến đến gần, rồi hắn lại bắt đầu van nài. Họ bước qua ngưỡng cửa ra sàn lên xuống phía sau, vẫn còn loáng thoáng thấy bóng họ trong chốc lát, rồi ba người lại thấy Collins và DeWitt đã sang đến sàn lên xuống phía trước của toa chót tối tăm, rồi khuất tầm nhìn.
Brooks nói: “Có một gã nghịch lửa khiến ngón tay bị bỏng nặng. Gã này đã hết thời rồi. DeWitt phải là kẻ khờ mới giúp gã.”
“Vẫn còn muốn DeWitt bù đắp cho sự cố vấn tai hại của Longstreet, tôi nghĩ thế,” Ahearn nhận xét. “Tôi cũng chả lấy làm ngạc nhiên nếu John hạ giọng, các ngài biết đấy? Anh ấy đang lúc phấn chấn và rất có thể đền bù cho sự ngu xuẩn của Longstreet hoàn toàn chỉ vì niềm vui của cuộc sống.”
Drury Lane không nói gì; ông quay đầu nhìn về phía sàn lên xuống cuối toa nhưng hai người đã khuất tầm mắt.
Lúc này người soát vé bước vào từ cửa đầu toa bắt đầu thu vé để bấm lỗ, và mọi người quay lại, giây phút căng thẳng đã qua đi. Khi người soát vé đến nhóm của Lord, anh chỉ về phía nhóm ba người đang ngồi giữa toa tỏ ý họ đang cầm giúp vé. Anh nhìn quanh dường như ngạc nhiên vì sự vắng mặt của DeWitt. Người soát vé bước đến, Ahearn đưa anh ta sáu tấm vé rời, giải thích là còn một người nữa vừa ra ngoài một lát và sẽ sớm trở lại.
“Được thôi,” người soát vé vừa nói vừa bấm lỗ các chiếc vé rồi nhét chúng vào một trong những chiếc hộp đựng vé trên đầu ghế Ahearn đang ngồi, rồi ông ta tiếp tục đi dọc theo toa xe.
Ba người trao đổi vài ba câu chuyện rời rạc. Lát sau, cuộc nói chuyện nhạt dần, Ahearn cáo lỗi rồi đứng dậy, tay đút túi bắt đầu đi đi lại lại dọc lối đi. Lane và Brooks quay sang thảo luận về những lá chúc thư. Lane kể lại một vụ kỳ lạ ông tình cờ gặp phải cách đây nhiều năm nhân chuyến lưu diễn kịch Shakespeare vòng quanh Lục địa; Brooks cũng kể ra nhiều trường hợp chúc thư viết lập lờ đa nghĩa làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về pháp lý.
Đoàn tàu tiếp tục xinh xịch lăn bánh. Đã hai lần Lane ngoái đầu nhìn kỹ ra phía sau; nhưng đều không thấy cả DeWitt lẫn Collins đâu. Giữa hai chân mày người kịch sĩ xuất hiện một vết nhăn rất nhỏ. Ông tỏ vẻ trầm ngâm sau khi dứt câu chuyện cùng Brooks; rồi ông mỉm cười, khẽ lắc đầu như xua đi điều gì đó dớ dẩn trong ý nghĩ, rồi quay sang tiếp tục cuộc thảo luận.
Đoàn tàu chạy chậm dần rồi đỗ ở ga Bogota, một vùng ngoại ô của Hackensack. Lane đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Tàu lại bắt đầu chuyển bánh, rãnh nhăn giữa hai mắt của ông lại xuất hiện, lần này sâu hơn. Ông nhìn đồng hồ đeo tay, kim chỉ 12 giờ 36 phút, Brooks chăm chú nhìn ông với vẻ mặt bối rối.
Bỗng Lane đứng bật dậy, đột ngột đến nỗi Brooks thốt lên một tiếng kinh ngạc. “Thứ lỗi cho tôi, ngài Brooks,” ông nói nhanh. “Có lẽ tinh thần của tôi không được tốt, song tôi không sao dứt khỏi được cảm giác khó chịu lạ thường về sự vắng mặt của ngài DeWitt. Tôi cần đến đó xem sao.”
“Ngài cho là có gì không ổn sao?” Brooks tỏ vẻ lo sợ, ông cũng đứng dậy, rảo bước dọc lối đi cùng Lane.
“Tôi đang rất mong là không phải vậy.” Họ bước ngang qua Ahearn lúc này cũng đang nhịp bước một cách bồn chồn.
“Có gì không ổn sao, các ngài?” Gã hỏi.
“Ngài Lane cho là có gì đấy khác lạ về sự vắng mặt của DeWitt,” người luật sư ngắt lời. “Đi thôi, Ahearn.”
Lane dẫn đầu, họ đi qua cửa sau của toa xe và đột ngột dừng lại. Không có ai ở sàn lên xuống. Họ bước qua khuỷu nối hai đầu toa; cũng không có ai ở sàn lên xuống của toa chót nằm ở phía bên kia.
Họ đưa mắt nhìn nhau, “Ủa, họ có thể biến đi quái quỷ đâu mới được chứ?” Ahearn thốt lên. “Tôi có thấy ai trong hai người bọn họ quay trở lại đâu, ngài thấy chứ?”
“Tôi không chú ý lắm,” Brooks đáp, “nhưng tôi không cho là họ có quay lại.”
Lane chẳng hề mảy may để ý đến hai người, ông bước đến chỗ ô kính trên một cánh cửa ghé mắt nhìn ra miền đồng quê tối đen đang lao hối hả. Rồi ông quay trở lại và kiểm tra cánh cửa của toa tàu phía sau vừa mù mờ vừa gần như không thể phân biệt. Qua ô kính ông đưa mắt chăm chú nhìn vào bên trong; đây hẳn là một toa phụ đưa về ga cuối tuyến, Newburgh, để sẵn sàng khởi hành ngược lại Weehawken vào giờ cao điểm sáng sớm hôm sau. Ông mím môi rồi cất tiếng rõ mồn một: “Tôi vào bên trong một lát. Ngài Brooks, làm ơn giữ hộ cánh cửa mở ra nhé, trong này rất thiếu ánh sáng.”
Ông nắm lấy quả đấm cửa ấn vào, cánh cửa chuyển động khá dễ dàng, cửa không khóa. Trong một chốc ba người đứng đấy nheo mắt để quen với không gian tối đen như mực, họ gần như hoàn toàn không thấy gì. Lane đột ngột quay đầu, hít mạnh một hơi…
Bên trái của cánh cửa là một ô có vách ba bên - một bên là vách mặt trước của toa tàu, đối diện là bức vách nơi băng ghế đầu tiên phía ngoài tựa lưng vào; mặt hướng ra bên ngoài là cửa sổ toa tàu, mặt hướng vào bên trong nơi Lane đứng là không gian trống. Bên trong ngăn buồng có hai băng ghế đôi đối diện nhau giống như các ô ghế ngồi khác trong toa. Trên chiếc ghế hướng về phía đầu tàu có một người đang ngồi sát cửa sổ, đầu cúi gục xuống ngực. Đấy là hình dáng của John DeWitt.
Lane nheo mắt lại để nhìn rõ hơn trong đêm tối; gã môi giới dường như đang ngủ. Brooks và Ahearn chen vào từ phía sau, Lane lách vào chỗ trống giữa hai băng ghế rồi khẽ chạm vào vai DeWitt. Không có tiếng trả lời. “DeWitt!” ông vừa nói bằng giọng nghe lạnh buốt vừa lắc lắc thân hình im lặng, vẫn không có tiếng trả lời. Nhưng lần này chiếc đầu của DeWitt hơi lăn qua để lộ đôi mắt, rồi lại lăn về trạng thái bất động…
Đôi mắt, ngay cả trong bóng tối mờ mờ, là đôi mắt trống rỗng của một xác chết.
Lane khom xuống đưa tay sờ soạng lên ngực người đàn ông.
Ông đứng thẳng người, xoa các ngón tay vào nhau rồi quay ra lối đi. Ahearn vừa lật bật như cầy sấy vừa chăm chăm nhìn vào thân hình lờ mờ bất động. Brooks cất giọng run rẩy: “Ông ấy… ông ấy chết rồi.”
“Có máu dính vào tay tôi,” Lane nói. “Ngài Brooks, làm ơn giữ cánh cửa đừng để đóng lại; ta cần ánh sáng ít ra cho đến lúc có thể gọi ai đó mở đúng công tắc đèn.” Ông bước qua Ahearn và Brooks ra đến chỗ sàn lên xuống rồi quay lại nghiêm giọng: “Cả hai người, làm ơn đừng chạm vào ông ta nhé.” Không ai trả lời; họ đứng sát vào nhau theo bản năng; ánh mắt kinh hoảng vẫn như bị thôi miên vào người chết.
Ngước nhìn lên chỗ cao quá đầu, Lane thấy được vị trí cái cần tìm - dây phát tín hiệu khẩn cấp. Ông đưa cánh tay dài với lên giật liên hồi, sau tiếng va nhau và tiếng phanh rít lên ken két, đoàn tàu trượt, giật, rùng, rồi dừng hẳn. Ahearn và Brooks bám vào nhau để khỏi bị ngã.
Lane bước qua khuỷu nối mở cánh cửa vào toa có ánh sáng đèn là nơi họ đã ngồi. Ông đứng yên lặng trong chốc lát. Lúc này Imperiale đang ngồi lơ mơ gà gật một mình, Lord và Jeanne ngồi sát đến mức hai mái đầu gần như chạm hẳn vào nhau. Trong toa còn có nhiều hành khách khác, đa phần đều đang chợp mắt hoặc đọc sách. Cánh cửa ở đầu bên kia toa xe bật mở và hai nhân viên tàu chạy ngược theo lối đi về phía Lane. Ngay lập tức, đám hành khách người tỉnh giấc kẻ buông tờ tạp chí đọc dở trên tay, ai nấy dự cảm có điều gì đấy không ổn. Jeanne và Lord giật mình ngước mắt nhìn; Imperiale đứng dậy gương mặt tỏ vẻ thắc mắc.
Hai nhân viên tàu hối hả chạy đến. “Người nào giật dây khẩn cấp thế hử?” Người đầu tiên la lên, đó là một lão già quạu cọ. “Mà có chuyện gì thế?”
Lane nhỏ giọng: “Này bác nhân viên, đã có một vụ tai nạn nghiêm trọng. Hãy trở lại chỗ này cùng tôi.” Jeanne, Lord và Imperiale chạy về phía họ; những hành khách khác vây quanh, bắt đầu hỏi những câu ngơ ngác. “Không, làm ơn, tiểu thư DeWitt, tốt hơn cô đừng theo chúng tôi làm gì. Ngài Lord, hãy đưa tiểu thư DeWitt trở về chỗ ngồi. Ngài Imperiale, có lẽ ngài cũng nên ở lại đây.” Ông đưa ánh mắt ngụ ý với Lord; chàng thanh niên tái mặt, anh ta quay sang khoác lấy tay cô gái ngơ ngác rồi kéo cô đi qua đám người trở lại chỗ ngồi. Người soát vé thứ hai, một người đàn ông cao lớn nặng nề, bắt đầu chen lấn qua đám hành khách đang tụ tập. “Làm ơn trở về chỗ ngồi đi nào. Không hỏi. Quay về chỗ ngay…”
Lane, cùng hai nhân viên tàu đi kèm, quay trở lại toa tàu phía sau. Brooks và Ahearn vẫn đứng ngây ra như hóa đá, họ vẫn đang chằm chằm nhìn vào xác DeWitt. Một trong hai nhân viên tàu nhấn một nút công tắc trên vách và toa tàu đang mờ tối bỗng trở nên sáng sủa rõ ràng nhờ ánh đèn bật lên. Cả ba người vào bên trong toa xe, đẩy Brooks và Ahearn về phía trước rồi người soát vé cao lớn khép cửa lại.
Người nhân viên nhỏ con hơn và già hơn lách vào gian buồng cúi xuống, chiếc đồng hồ vàng nặng trịch đưa qua đưa lại từ sợi xích mắc trên áo gilê của lão ta. Ngón tay già nua của lão chỉ vào ngực trái của người chết. “Lỗ đạn bắn!” Lão thốt lên. “Án mạng…”
Lão thẳng người lên chằm chằm nhìn Lane. Lane nhỏ giọng: “Này bác, tôi khuyến cáo bác đừng nên chạm vào bất cứ thứ gì.” Ông lấy từ trong ví một tấm thiếp chìa cho người nhân viên. “Tôi đang hành động với tư cách cố vấn điều tra ở một số vụ án mạng thời gian qua,” ông nói. “Tôi cho rằng mình có thẩm quyền ở vấn đề này.”
Người nhân viên già ngờ vực nhìn đi nhìn lại tấm thiếp. Lão giở mũ, gãi gãi mái tóc bạc, rồi trả lời. “Hừ, tôi chả biết,” lão nói giọng pha chút bực tức. “Làm sao tôi biết đây không phải mẹo câu giờ? Tôi là trưởng tàu chính ở đây, và theo luật thì tôi chịu trách nhiệm về đoàn tàu này vào mọi lúc và ở bất cứ trường hợp khẩn cấp nào…”
“Hãy nghe đây,” Brooks xen vào, “đây là ngài Drury Lane, và ông ấy đang hỗ trợ về các vụ án mạng Longstreet và Wood. Bác đọc báo chắc cũng đã biết những vụ này.”
”Ô!” lão già gãi gãi chiếc cằm.
“Thế bác biết người chết này là ai không?” Brooks nói tiếp, giọng ông vang lên rành mạch. “Đó là John DeWitt, đối tác của Longstreet!”
“Ông nói sao,” viên trưởng tàu thốt lên, lão nhìn gương mặt tranh tối tranh sáng của DeWitt vẻ nửa tin nửa ngờ. Thế rồi mắt lão sáng lên. “Nhớ ra rồi, hèn nào tôi cứ thấy ông ấy trông quen quen. Đã đi trên đoàn tàu này lâu rồi. Tốt rồi, ngài Lane, tôi đoán ngài là sếp ở đây. Ngài muốn chúng tôi làm gì nào?”
Suốt cuộc nói chuyện Lane đứng lặng yên không nói gì, nhưng vẻ sốt ruột thì ánh lên trong đôi mắt. Ông liền nói luôn: “Đóng hết tất cả cửa đi, cửa sổ và canh giữ, ngay lập tức. Chỉ thị lái tàu đưa đoàn tàu này đến ga gần nhất…”
“Đó là Teaneck, ga đỗ tiếp theo của tuyến,” người nhân viên cao lớn xen vào.
“Bất kể là ga gì,” Lane nói tiếp, “Hãy cho tàu chạy nhanh nhất có thể. Hãy tìm cách gọi ngay cảnh sát New York - thanh tra Thumm, hoặc tại trụ sở hoặc tại nhà - cả công tố viên Bruno của hạt New York, nếu được.”
“Sẽ bảo trưởng ga làm vậy,” viên trưởng tàu đăm chiêu.
“Đúng thế. Và hãy xin lệnh, bất cứ lệnh nào cần thiết, để đưa đoàn tàu này ra khỏi đường ray chính đi vào một đường tránh tàu tại Teaneck. Này bác trưởng tàu, bác tên gì?”
“Người ta gọi tôi là Pop Bottomley,” lão già nghiêm trang. “Rõ rồi, ngài Lane.”
“Nếu đã hiểu cả rồi, Bottomley,” Lane nói. “Vậy làm ơn thu xếp những việc này ngay tức khắc.”
Hai người ra đến cửa, Bottomley bảo cấp dưới của mình: “Giờ tôi đi xuống bảo lái tàu, phần cậu sẽ lo mấy cánh cửa. Hiểu chứ, Ed?”
“Hẳn rồi.”
Họ chạy ra khỏi toa, len lỏi qua đám đông hành khách ở các toa khác đang bâu lại quanh những cánh cửa.
Họ đi rồi, bên trong giờ im lặng như tờ. Ahearn đột nhiên mất cả hơi sức phải tựa vào cánh cửa buồng toilet ở phía bên kia lối đi. Brooks thì tựa lưng vào cửa toa tàu. Lane rầu rĩ nhìn đi nhìn lại xác chết của John DeWitt.
Ông nói mà không quay đầu lại. “Ahearn, với tư cách bạn thân nhất của DeWitt, nhiệm vụ khó khăn của anh bây giờ là mang tin đến cho con gái ông ấy.”
Ahearn đờ người, liếm môi, nhưng không một lời lẳng lặng ra khỏi toa.
Brooks lại tựa người vào cửa, Lane thì đứng như một anh lính canh bên cạnh người chết. Không ai nói một lời, không ai buồn cử động. Từ những toa phía trước vọng lại tiếng kêu thét yếu ớt.
Họ vẫn đứng im lìm trong tư thế ấy được vài phút thì đoàn tàu rùng lên suốt chiều dài thân tàu bằng thép nặng nề của nó, rồi bắt đầu nhúc nhích.
Ngoài trời vẫn tối đen như mực.
MỘT ĐOẠN ĐƯỜNG TRÁNH TÀU Ở GA TEANECK
Lát sau
Cả đoàn tàu, đèn bật sáng, nằm như một con sâu bất lực trong bóng tối của đoạn đường tránh rỉ sét gần ga Teaneck. Riêng nhà ga thì rộn ràng với những bóng người hối hả. Một chiếc ô tô gầm rú lao ra từ đêm tối, đột ngột dừng lại bên đường tàu sau cú phanh gấp, những hình người to lớn dềnh dàng lập tức phóng ra và đâm bổ về phía đoàn tàu đang nằm bất động.
Những người mới đến này là Thumm, Bruno, bác sĩ Schilling và một tổ nhân viên thám tử.
Họ vội vàng vừa đi qua một tốp người - kỹ thuật viên, người lái tàu, nhân viên nhà ga - vừa nhỏ to bàn bạc bên ngoài đoàn tàu đang chong đèn sáng rực. Một người đưa cao chiếc đèn bão và thanh tra Thumm cùng những người khác thì hối hả đi đến cửa sau đang đóng kín của toa sau cùng. Thumm nện mạnh lên cửa bằng nắm tay cứng như sắt của mình; có tiếng kêu nho nhỏ: “Họ đây rồi!” phát ra đâu đó từ bên trong và trưởng tàu Bottomley kéo ngược cánh cửa, sập mạnh vào cái chốt giữ trên vách. Lão dỡ tấm bửng sàn lên xuống để lộ ra một cầu thang nhỏ bằng sắt.
“Cảnh sát?”
“Cái xác đâu?” Họ nối gót viên thanh tra leo lên bậc cấp.
“Lối này. Toa đằng sau.”
Họ ùa vào toa sau. Lane vẫn ở nguyên chỗ cũ. Ánh mắt của mọi người lập tức đổ dồn vào người chết. Đứng gần đó là một viên cảnh sát sở tại, viên trưởng ga Teaneck và một nhân viên tàu.
“Án mạng à?” Thumm nhìn Lane. “Chuyện này đã xảy ra thế quái nào vậy hở ngài Lane?”
Lane hơi cử động. “Tôi sẽ không bao giờ tha thứ chính mình, ngài thanh tra ạ… Một tội ác táo tợn. Một tội ác táo tợn.” Nét mặt như tạc tượng của ông già hẳn đi.
Bác sĩ Schilling, chiếc mũ vải hất ngược về phía sau, áo choàng mở ra, quỳ thụp xuống bên cạnh cái xác.
“Chạm vào ông ấy rồi sao?” Ông vừa lầm bầm vừa đưa mấy ngón tay kiểm tra người chết.
“Lane. Này, ngài Lane,” Bruno nói giọng ngờ vực. “Bác sĩ Schilling đang nói với ông đấy.”
Lane đáp máy móc: “Tôi lắc ông ấy. Đầu ông ấy lăn sang một bên, rồi lại trở về tư thế cũ. Tôi cúi xuống sờ vào chỗ tim, máu đã vấy vào bàn tay tôi. Ngoài ra thì chưa có ngón tay nào khác động vào ông ấy.”
Thế rồi họ im lặng, chăm chú nhìn bác sĩ Schilling. Viên bác sĩ pháp y hít ngửi lỗ đạn bắn, nắm lấy áo ngoài giật mạnh. Viên đạn xuyên áo ngoài, qua túi để khăn tay ở ngực trái đi thẳng vào tim. Chiếc áo ngoài mở phanh ra sau một âm thanh rách dính nho nhỏ. “Xuyên gọn lỏn qua áo ngoài, áo gilê, áo sơmi, áo lót và tim. Vết thương gọn ghẽ, thế đấy.” Bác sĩ Schilling tuyên bố. Có ít máu vương trên y phục; lỗ thủng trên từng mảnh vải áo đều có vòng tròn màu đỏ loang ướt át bao quanh. “Chết được chừng một giờ, tôi cho là vậy,” viên bác sĩ pháp y nói tiếp. Ông nhìn vào đồng hồ đeo tay, rồi ông sờ vào cơ tay và cơ chân của người chết, cố sức bẻ gập khớp đầu gối một cách kỳ cục. “Đúng thế, chết vào khoảng 12 giờ 30, có lẽ sớm hơn vài phút, không thể nói chính xác.”
Họ nhìn chòng chọc vào gương mặt đông cứng của DeWitt, một vẻ mặt kinh khủng và dị dạng làm rúm ró và vặn vẹo đến từng đường nét. Vẻ mặt này không khó để lý giải - nó là sự khiếp sợ tột cùng, nỗi kinh hãi đến độ vặn ngược hai mắt trợn trừng, kéo căng những thớ thịt nổi lên dọc quai hàm, tiêm vào từng đường cơ một loại độc tố xua tan dũng khí…
Bác sĩ Schilling kêu lên một tiếng nhỏ. Ai nấy dứt tia mắt ra khỏi gương mặt đã chết trong khiếp đảm và hướng về bàn tay trái của tử thi, lúc này được vị bác sĩ cầm lấy đưa lên để họ xem. “Hãy nhìn mấy ngón tay ấy,” bác sĩ Schilling nói. Họ chú mục nhìn vào. Ngón giữa của bàn tay móc tréo vào ngón trỏ thành một dấu hiệu kỳ quái, còn ngón cái và hai ngón còn lại thì quặp vào bên trong nằm chết cứng.
“Cái quái…” Thumm gầm gừ. Bruno cúi thấp hơn, mắt ông trố lên như muốn lồi hẳn ra ngoài. “Chúa ơi!” Ông la lên, “mình có điên không đây, hay có nhìn thấy không đây, hay là cái gì đây? Tại sao…” ông phá ra cười, “không thể nào. Không thể. Đây đâu phải châu Âu thời Trung cổ… Đây là dấu làm phép chống lại mắt của loài quỷ dữ!”
Mọi người nín lặng. Thumm khẽ nói: “Quỷ sứ thật, cứ như truyện trinh thám không bằng. Tôi dám cá mười ăn một có con ma Ba Tàu nanh dài đang nấp trong toa lét ấy.” Chả ai cười cả. Bác sĩ Schilling nói: “Gì thì gì, nó bị cố định mất rồi.” Ông nắm lấy hai ngón tay xếp chồng ráng sức banh ra đến đỏ mặt tía tai rồi nhún vai. “Tình trạng chết cứng. Đơ như gỗ ấy. Có lẽ DeWitt chớm bị tiểu đường nhưng ông ấy không biết. Dù sao thì, nó lý giải sự nhanh chóng bắt đầu của trạng thái cứng đờ…” Ông ngước nhìn, hai mắt hấp háy. “Thumm, giả thử ông tréo ngón vào nhau như vậy xem.”
Giống hệt đám người máy, ai nấy chòng chọc nhìn vào viên thanh tra. Không nói lời nào, ông đưa bàn tay phải lên ráng vặn vẹo móc ngón giữa vào ngón trỏ.
“Ép mạnh xuống, Thumm,” Bác sĩ Schilling nói. “Giữ chặt vào, kiểu như bàn tay của DeWitt ấy. Nào, cứ giữ thế vài giây xem…” Viên thanh tra dùng sức ép xuống, mặt ông hơi đỏ lên. “Hơi đau, đúng không Thumm?” Vị bác sĩ pháp y tỉnh bơ. “Một trong những trò vui nhất tôi từng thí nghiệm đấy. Mấy ngón tay chết này kết chặt đến nỗi chúng hết rời ra kể cả sau khi chết.”
“Tôi không chấp nhận được cái lý giải con mắt quỷ dữ ấy,” Thumm vừa buông giọng lạnh lùng vừa tháo mấy ngón tay. “Nghe như chuyện sách vở, nhảm nhí quá thể. Sao hả… họ cười cho đấy!”
“Vậy thì lý giải kiểu khác xem,” Bruno nói.
“Hừm,” Thumm gầm gừ, “thôi được. Có lẽ cái gã gây ra việc này đã tự mình cố định ngón tay của DeWitt.”
“Dớ dẩn,” Bruno nạt. “Nói thế nghe còn tệ hơn cả lý vừa rồi nữa. Hà cớ gì tên giết người làm thế?”
“Hừ, để rồi xem,” Thumm nói. ”Để rồi xem… Ngài nghĩ sao, ngài Lane?”
“Có cần phải tìm kiếm một jettatore (74)* không đây?” Lane giật mình. “Tôi cho rằng,” ông tỏ ra chán chường vô hạn, ”John DeWitt đã quá xem trọng một nhận xét bất cẩn của tôi hồi tối này.”
Thumm bắt đầu nằng nặc đòi nói rõ thì im bặt khi thấy bác sĩ Schilling gượng đứng dậy.
“Thế đấy, tôi chỉ làm được có vậy,” viên bác sĩ nói. “Một điều chắc chắn là ông ấy đã chết ngay tức thì.”
Lane như choàng tỉnh, ông chộp lấy cánh tay của viên bác sĩ pháp y. “Bác sĩ, ông chắc chứ - chết ngay tức thì sao?”
“Ja. Chắc như đinh đóng cột. Viên đạn có lẽ từ cỡ nòng 38 đã xuyên thủng tâm thất phải. Bằng việc khám nghiệm bên ngoài, ngẫu nhiên phát hiện đấy cũng là vết thương duy nhất.”
“Đầu ông ấy không sao chứ? Không có dấu hiệu bạo lực nào khác chứ - không có vết bầm ở đâu chứ?”
“Không hề. Ông ấy bị giết bằng một viên đạn đi vào ngăn bơm máu, chỉ có thế. Tin tôi đi! Nhiêu đấy đã nhiều lắm rồi. Lâu lắm rồi tôi mới thấy cái lỗ tròn trĩnh đến vậy đấy.”
“Bác sĩ Schilling, nói khác đi là không thể có chuyện DeWitt đang lúc giãy chết đã xoắn ngón tay vào nhau như thế đấy chứ?”
“Nghe này,” giọng Bác sĩ Schilling hơi khó chịu. “Tôi vừa bảo ông ấy đã chết ngay tức thì, đúng không? Mơ thế nào lại có chuyện giãy chết ở đây? Viên đạn xuyên tâm thất rồi - pít! Chết. Như tắt đèn. Thế thôi. Người chứ phải chuột đâu, hả. Không hề.”
Lane không cười, ông quay sang thanh tra Thumm. “Ngài thanh tra, tôi hiểu rằng ý kiến của vị bác sĩ bẳn tính của chúng ta ở đây đã giải tỏa một vấn đề hết sức đáng chú ý.”
“Thì đã sao? Cứ cho là ông ấy chết ngay tại chỗ không một tiếng rên đi? Tôi đã thấy hàng trăm cái xác của người chết ngay rồi. Có gì mới đâu.”
“Ở đây có điều mới đấy, ngài thanh tra ạ,” Lane nói. Bruno liếc nhìn ra ý hỏi, nhưng Lane không nói gì thêm.
Thumm lắc đầu. Ông lấn qua bác sĩ Schilling, khom xuống người chết rồi bắt đầu thong thả lục soát y phục. Lane đổi vị trí để có thể thấy được cả mặt Thumm lẫn thi hài người chết. “Cái gì đây?” Thumm khẽ nói, ông vừa tìm thấy ở túi ngực bên trong của chiếc áo khoác DeWitt đang mặc vài lá thư cũ, một cuốn sổ séc, một cây bút máy, một bảng thời khóa biểu và hai cuốn sổ vé tàu lửa.
Lane lạnh lùng: “Đó là cuốn sổ vé năm mươi chuyến đã hết hạn đang lúc ông ấy bị giam giữ, và một cuốn sổ mới ông ấy đã mua hồi tối nay trước khi chúng tôi cùng lên tàu.”
Viên thanh tra làu bàu lật qua những trang bấm lỗ của cuốn sổ vé cũ, trang nào trang ấy đều đã cuốn góc. Trên mặt bìa và bên trong có vô số nét nguệch ngoạc không đâu; một số vẽ theo hình dấu bấm lỗ; số khác vẽ theo những chữ in - chỗ nào cũng có những hình vuông hình tròn, một biểu thị chính xác về trạng thái tâm lý của DeWitt. Phần lớn các tấm vé đã được xé đi. ông lại quay sang kiểm tra cuốn sổ vé mới, cuốn sổ còn nguyên vẹn, chưa bấm lỗ, như Lane đã nói là DeWitt vừa mua ở ga.
“Ai là trưởng tàu ở đây?” Thumm hỏi.
Lão già trong bộ đồng phục trưởng tàu màu xanh mực trả lời: “Là tôi đây. Tên Pop Bottomley, là trưởng tàu chính của tuyến này. Ngài muốn biết gì nào?”
“Có nhận ra người này không?”
“À…” Bottomley dài giọng, “trước khi ngài đến tôi có bảo ngài Lane đây rằng mặt ông ấy trông hơi quen, giờ thì tôi nhớ ra ông ấy thi thoảng đi tàu này đã mấy năm nay, dường như là vậy. Tây Englewood, đúng không nhỉ?”
“Bác có thấy ông ấy trên tàu tối nay không?”
“Không thấy, ông ấy không ngồi ở đầu tôi soát vé. Cậu thấy ông ấy chứ, Ed?”
“Tối nay thì không, tôi không thấy,” gã nhân viên tàu dáng người to khỏe rụt rè trả lời. Tôi biết ông ấy, vậy đó, nhưng tối nay thì tôi không thấy. Lúc tôi vào toa từ trên xuống có một nhóm người ở đấy, rồi một người, dáng cao lớn, trao tôi sáu tấm vé cho cả đoàn, bảo rằng còn một người ra ngoài một lát. Sau đó không hề thấy ông ấy đâu nữa.”
“Anh không tìm ông ấy hả?”
“Ơ, tôi làm gì biết ông ấy ở đâu, đoán là ông ấy đi vệ sinh thế thôi, đâu nghĩ gì đến cái toa tối này, chả ai vào đây làm gì cả.”
“Anh bảo anh biết DeWitt à?”
“Đấy là tên ông ấy sao? À, ông ấy đi tàu này khá thường, có quen mặt ông ấy, thế đấy.”
“Thường là thường thế nào?”
Ed nhấc chiếc mũ lưỡi trai rồi vỗ vỗ lên cái đầu hói ra điều cố nhớ. “Tôi không biết, sếp à. Không nhớ bao nhiêu lần, chắc là lúc có lúc không vậy thôi.”
Pop Bottomley chen cái thân hình nhỏ thó lanh lẹ của lão ra đằng trước. “Tôi đoán mình có thể trả lời việc này, thưa ngài. Ngài thấy đấy, anh bạn đây cùng tôi phụ trách tuyến tàu khuya này hàng đêm, nên bọn tôi nói được ông này đi trên tàu đây bao nhiêu lần. Nào, đưa tôi mượn cuốn sổ vé cũ ấy một lát.” Lão chộp lấy cuốn sổ quăn góc từ hai ngón tay của Thumm, mở ra rồi chìa trước mặt Thumm. Những người khác xúm lại ghé mắt qua vai viên thanh tra. “Đây, thấy chưa,” Bottomley nói với vẻ nhiệt tình thái quá vừa chỉ vào những đường răng cưa đã xé vé, “cứ mỗi chuyến chúng tôi đều xé vé rồi bấm lỗ cả vé lẫn cuống vé cho chắc ăn. Ngài chỉ việc cộng mấy cái dấu khoanh tròn lại - dấu đó là lỗ của tôi; thấy chưa? - rồi cộng mấy cái dấu gạch chéo lại - đó là của cậu Ed Thompson đây - là ngài biết ông ấy đã đi tàu này bao nhiêu chuyến, vì tuyến này chỉ có bọn tôi đây mà thôi. Thấy chưa?”
Thumm ngắm nghía cuốn sổ cũ. “Nhìn xinh nhỉ, bốn mươi lỗ cả thảy. Bốn mươi lỗ mà hết nửa là đi New York - lỗ khác nhau, hả?”
“Đúng rồi,” lão Bottomley đáp. “Là những chuyến tàu sáng - soát vé khác khác, mỗi người một kiểu lỗ khác nhau.”
“Rõ rồi,” Thumm tiếp, “trừ ra còn hai mươi chuyến trở về Tây Englewood ban đêm. Trong hai mươi…” ông đếm nhanh, “xem nào, mười ba lỗ là bác và ông bạn cùng làm với bác bấm. Vậy là mười ba lần. Nghĩa là ông ấy đi tàu này thường xuyên hơn chuyến tàu về thường ngày vào khoảng sáu giờ…”
“Thám tử đại tài, là tôi đây,” lão già nhe răng cười. “Vậy là ngài hiểu rồi nhé. Lỗ bấm không biết nói dối!” Nói rồi lão híp mắt.
Bruno cau mày. “Tôi dám cá là tên sát nhân biết DeWitt có thói quen đi trên chuyến muộn này thường xuyên hơn là chuyến tàu về giờ tan tầm.”
“Có lẽ thế.” Thanh tra Thumm xoay đôi vai to bè ra phía sau. “Giờ thì, có vài điều ta làm rõ xem nào. Ngài Lane, chính xác chuyện gì xảy ra hồi đêm nay thế? Thế nào mà DeWitt lại vào toa này?”
Drury Lane lắc đầu. “Chuyện gì thực sự xảy ra thì tôi không biết. Có điều sau khi tàu rời Weehawken không lâu thì Michael Collins…”
“Collins á!” Thumm la lên. Bruno nghiêng người tới. “Chúa ơi, Collins có dính chuyện này sao? Sao nãy giờ ông không nói?”
“Làm ơn đi ngài thanh tra. Bình tĩnh tí nào… Collins hoặc đã chuồn hoặc vẫn còn đâu đây. Ngay khi chúng tôi phát hiện xác của DeWitt, bác trưởng tàu và nhân viên đã lo đảm bảo không ai rời được đoàn tàu, mà dù gã có đi khỏi đây từ trước khi cái xác bị phát hiện thì gã cũng không thoát.”
Thumm gầm gừ, và Lane bằng giọng đều đều kể lại chuyện đã xảy ra trong toa khi Collins van nài DeWitt để được nói chuyện riêng lần chót.
“Rồi họ vào bên trong toa này à?” Thumm gặng hỏi.
“Tôi không nói gì đại loại thế, ngài thanh tra,” Lane đốp chát. “Ngài đang cho là thế đấy. Có thể đúng vậy, nhưng chúng tôi chỉ thấy hai người bước qua sàn lên xuống phía sau rồi đứng ở sàn lên xuống phía trước của toa này.”
“Hừm, ta sẽ sớm biết ngay thôi.” Thumm ra lệnh cho một số thám tử tản đi tìm kiếm gã đàn ông đã biến mất.
“Anh muốn để cái xác ở đây sao, Thumm?” Bác sĩ Schilling hỏi.
“Để ông ấy vậy đi,” Thumm làu bàu. “Ta ra đằng trước hỏi vài câu xem nào.”
Họ kéo nhau ra khỏi toa tàu chết chóc, để lai một thám tử canh giữ cạnh người chết.
Jeanne DeWitt thu mình trên một chiếc ghế đang nức nở trên vai Lord. Ahearn, Imperiale, Brooks đờ cả ra, ai nấy đều ngơ ngác bàng hoàng.
Mọi hành khách khác đã được hộ tống ra khỏi toa tàu, họ được dồn sang toa phía trước.
Bác sĩ Schilling lặng lẽ bước dọc lối đi, ông đưa mắt nhìn xuống cô gái đang khóc than yếu ớt. Không nói lời nào, ông mở chiếc túi y tế bên mình, lấy ra một cái lọ nhỏ, bảo Lord đi lấy một tách nước, rồi kề miệng lọ vào lỗ mũi run run của cô gái. Cô há miệng, nheo mắt, run rẩy, khi Lord mang nước đến, nàng như một đứa trẻ đang cơn khát vội vàng uống lấy uống để. Viên bác sĩ vỗ về lên đầu cô gái rồi ép nàng uống vào thứ gì đấy. Lát sau, cô gái bình tâm lại, nhắm nghiền mắt rồi lả đi, đầu kê vào lòng của Lord.
Thumm ngồi phịch vào một trong những chiếc ghế bọc vải nhung màu xanh lục rồi xoải chân. Bruno im lặng đưa mắt nhìn, thế rồi ông gật đầu ra hiệu với Brooks và Ahearn, hai người này mệt mỏi đứng dậy, vẻ mặt cả hai đều tỏ ra nhợt nhạt và căng thẳng. Trả lời những câu hỏi của vị công tố viên, Brooks tóm tắt thuật lại buổi tiệc mừng tại khách sạn, trên đường đi đến Weehawken, chờ đợi tại nhà ga, lên tàu, sự xuất hiện của Collins.
“DeWitt thì thế nào?” Bruno hỏi. “Có vui vẻ gì không?”
“Vui hơn bao giờ hết.”
“Trước giờ chưa hề thấy ông ấy vui đến thế,” Ahearn nhỏ giọng xen vào. “Phiên tòa, sự hồi hộp - và rồi lời phán quyết… Vừa khi tôi nghĩ rằng ông ấy đã được cứu thoát khỏi ghế điện …” Nói đến đây gã rùng mình.
Vẻ giận dữ thoáng hiện lên mặt vị luật sư. “Hẳn là bằng chứng tai hại nhất về sự vô tội của DeWitt đấy, ngài Bruno. Giá ông đừng bắt giữ ông ấy vì sự buộc tội lố bịch thì có lẽ hôm nay ông ấy vẫn còn sống đấy!”
Bruno nín lặng. Thế rồi…“Bà DeWitt đâu?”
“Bà ấy không dự tiệc,” Ahearn đáp cộc lốc.
“Đây là tin tốt cho bà ấy đây,” Brooks nói.
“Ý ông là sao?”
“Bà ấy hết ly dị được rồi,” Brooks trả lời khô khan.
Vị công tố viên và Thumm đưa mắt nhìn nhau. “Nghĩa là bà ấy không đi trên chuyến tàu này?” Bruno hỏi.
“Theo tôi biết thì không.” Brooks ngoảnh mặt đi. Ahearn lắc đầu, Bruno đưa mắt hỏi Lane, ông nhún vai.
Ngay lúc này một thám tử xuất hiện báo không tìm ra Collins ở bất cứ đâu.
“Này! Quỷ tha mấy anh nhân viên tàu đâu cả rồi?” Thumm vẫy những người vận đồng phục màu xanh mực về phía mình. “Bottomley, bác có thấy một gã người Ai Len cao lớn mặt đỏ không - nhớ xem có soát vé gã tối nay không?”
“Gã ấy,” Lane lặng lẽ xen vào, “đội chiếc mũ dạ sụp tận mắt bằng vẻ ngang tàng, áo bành tô vải tuýt, tướng hơi say xỉn.”
Lão Bottomley lắc đầu. “Nhớ là tôi không soát vé người đó. Cậu thì sao, Ed?”
Người nhân viên lắc đầu.
Thumm bật dậy. Ông sấn sổ bước đến toa phía trước và bắt đầu dội câu hỏi vào vài người hành khách đã ngồi cùng toa với nhóm của DeWitt. Không ai nhớ ra Collins hay bất cứ gì về hành tung của gã. Thumm quay về rồi lại ngồi xuống. “Ai đó nhớ xem, Collins có trở lại qua toa này không?”
Lane nói: “Tôi chắc chắn là không, ngài thanh tra, rất có thể hắn chuồn khỏi đây từ một trong hai sàn lên xuống ở đằng sau toa này, không khó gì để mở một cánh cửa ở đó rồi nhảy ra ngoài. Tôi chắc rằng, từ lúc DeWitt và Collins biến mất đến lúc tấn bi kịch này được phát hiện, đoàn tàu đã dừng đâu đó.”
Thumm bảo người trưởng tàu già đưa xem bảng kế hoạch giờ tàu. So sánh giữa các mục thời gian biểu, ông kết luận có khả năng Collins đã lỉnh đi nhân lúc đoàn tàu dừng lại ở ga Little Ferry, hoặc Ridgefield Park, hoặc Westview hay thậm chí là Bogota.
“Được rồi,” ông vừa nói vừa quay sang một phụ tá của mình. “Mang theo hai nhân viên lần ngược trở lại tuyến đường đi qua các ga này, hãy tìm kiếm dấu vết của Collins, hắn nhất định đã thoát ra từ một trong những ga đó và bỏ lại sau lưng dấu hiệu gì đó, gọi điện thoại về ga Teaneck báo cho tôi.”
“Rõ”
“Còn nữa, khó có chuyện hắn có thể bắt tàu khác trở về New York vào giờ đó, vậy nên đừng quên hỏi han những lái xe taxi quanh các ga đó xem sao.”
Viên thám tử rời đi.
“Còn các ông,” Thumm quay lại hai người nhân viên trên tàu, “ráng nhớ xem. Có hành khách nào xuống tàu ở các ga Little Ferry, Ridgefield Park, Westview, hay Bogota không?”
Hai người lập tức trả lời ga nào cũng có khách xuống tàu, nhưng không ai nhớ được bao nhiêu người hoặc nhân dạng ra sao.
“Nếu bọn tôi thấy họ,” Pop Bottomley dài giọng, “đâu chừng cũng nhận ra được vài người, nhưng sẽ không biết tên tuổi dù đó là hành khách thường xuyên chăng nữa.”
“Cũng sẽ không biết thêm gì khác,” Thompson nói thêm.
Bruno nói: “Thumm này, tên sát nhân cũng như Collins vẫn có thể xuống tàu ở ga nào đó mà không bị ai thấy. Hắn chỉ việc đợi tàu đỗ lại ở nhà ga, mở cánh cửa xoay về phía đường tàu, nhảy ra rồi khép lại sau lưng từ bên dưới, ai cũng làm được thế cả. Xét cho cùng cả đoàn tàu này chỉ có hai nhân viên và họ đâu thể theo dõi hết từng người đi ra.”
“Tất nhiên. Ai cũng làm được thế cả.” Thumm càu nhàu, “Giá mà tôi bắt gặp một vụ án mạng mà kẻ thủ ác bị phát hiện là đang đứng bên cái xác với khẩu súng đang còn trên tay nhỉ… Mà khẩu súng quái quỷ đó thì ở đâu chứ? Duffy! Có tìm thấy khẩu súng ngắn nào ở toa đằng sau không?”
Viên trung sĩ lắc đầu.
“Lục soát tất tật xem. Biết đâu tên sát nhân đã vứt lại khẩu súng đâu đó trên tàu.”
“Ngài thanh tra,” Lane nói, “thiết nghĩ ngài nên cho người tìm kiếm dọc tuyến đường tàu vừa đi qua xem, cũng có thể tên giết người đã ném súng ra khỏi tàu và rơi đâu đó dọc đường ray cũng nên.”
“Cũng phải. Này Duffy, cả việc ấy nữa nhé.”
Viên trung sĩ nện gót bước đi.
“Giờ,” Thumm tiếp, tay mệt mỏi đưa lên vuốt trán, “giờ là công việc chả sung sướng gì.” Ông trừng trừng nhìn vào sáu người trong nhóm DeWitt. “Imperiale! Mời ông bước lên đây nào?”
Gã người Thụy Sĩ đứng dậy lê bước tiến đến. Nét mệt mỏi đậm vết thâm quầng lên hai mắt của gã, cả hàm râu kiểu Van Dyke của gã cũng bèo xà bèo xèo.
“Vấn đề hình thức,” Thumm nói đầy vẻ châm chọc. “Ông đang làm gì với chuyến đi này thế? Ông đang ngồi đâu thế?”
“Tôi ngồi với tiểu thư DeWitt và ngài Lord một lúc; thế rồi, thấy rằng họ không muốn bị quấy rầy, tôi cáo từ rồi ra nơi khác. Có lẽ tôi đã thiếp đi. Chuyện kế tiếp tôi nhớ là, ngài Lane đang đứng ở ngưỡng cửa và hai người trực tàu chạy ngang qua chỗ tôi.”
“Thiếp đi à?”
Imperiale nhướng mày. “Vâng,” gã rắn giọng. “Ông ngờ vực lời tôi sao? Qua phà và ngồi tàu khiến tôi nhức đầu.”
“Ồ, tất nhiên rồi,” Thumm cười cợt. “Vậy nên ông đâu thể nói chúng tôi biết những người khác lúc ấy làm gì, đúng không?”
“Rất tiếc. Lúc ấy tôi ngủ mất rồi.”
Thumm bỏ gã người Thụy Sĩ bước đến chỗ chiếc ghế