← Quay lại trang sách

CẢNH 11 Lâu Đài Hamlet-Thứ Ba, Ngày 13 Tháng 10-10 Giờ 30 Sáng

Quacey đứng bên chỗ đặt máy điện thoại đặt trong xưởng chế tạo tóc giả của lão ở lâu đài Hamlet. Ngài Drury Lane thì ngả người thoải mái trên một chiếc ghế gần bên. Những tấm mành tối ở các cửa sổ đã được vén lên để những tia nắng yếu ớt len lỏi rọi vào.

Lão già lụ khụ đang nói chuyện bằng thanh âm kót két của mình. “Nhưng thưa ngài Bruno, đấy là những gì ngài Lane dặn. Vâng, thưa ngài… Vâng, đêm nay, vào lúc mười một giờ, ngài sẽ đón ngài Lane tại đây, có thanh tra Thumm và một toán cảnh sát theo cùng nữa nhé… Làm ơn đợi lát nào.” Quacey áp ống nói vào bộ ngực teo thắt xương xẩu của lão. “Ngài Drury này, ngài Bruno hỏi là người theo cùng có phải mang thường phục hay không, và để làm gì thế, là ngài ấy hỏi vậy đấy.”

“Lão hãy bảo cùng ngài công tố viên,” Lane dài giọng. “Rằng nhân viên theo cùng đừng mang đồng phục, và mục đích đây là một cuộc dạo chơi vào khu New Jersey. Hãy bảo ngài ấy ta sẽ bắt tàu Bờ Tây đi Tây Englewood cho một công việc quan trọng nhất gắn liền đến vụ án.”

Quacey chớp mắt rồi làm theo lệnh.

11 giờ đêm.

Giữa toán cảnh sát tập trung tại thư phòng của lâu đài Hamlet, thanh tra Thumm, có lẽ do bởi mối quen biết giờ đã sâu sắc hơn của mình, đang là người duy nhất tỏ ra hoàn toàn thoải mái. Ngài Drury Lane vẫn chưa thấy đâu, còn ngài công tố viên Bruno thì ngồi lọt thỏm trong một chiếc ghế cổ với dáng vẻ bồn chồn, cáu kỉnh.

Thân hình nhỏ bé tròn trịa của Falstaff cúi xuống chào rồi tự di chuyển đến đánh thức sự chú ý của Bruno. “Gì thế?”

“Ngài Drury Lane cáo lỗi, thưa ngài. Ngài ấy nhắn bảo các ngài đợi một lát thôi ạ.”

Bruno gật đầu chẳng lấy gì làm nhiệt tình, riêng Thumm thì tủm tỉm cười một mình.

Đang khi chờ đợi, ánh mắt mọi người tò mò dạo quanh gian phòng rộng thênh thang. Trần nhà nhìn cao ngất, và hết ba mặt tường đều ốp giá sách chạy dài từ sàn lên đến trần, tất cả đều xếp kín dễ đến hàng ngàn bộ sách. Đây đó là những chiếc thang thư viện đứng kẹp vào những ngăn giá sách ở trên cao. Chạy quanh hết phòng có một ban công kiểu cổ trông thật lạ mắt, ở hai đầu là hai nhịp thang uốn lượn với những bậc thang bằng sắt dẫn lên ban công, khảm chìm vào đấy có những tấm biển đồng phân mục sách. Chiếc bàn hình bán nguyệt được kê ở một góc phòng hẳn là nơi bất khả xâm phạm của vị thủ thư đặc biệt nào đấy, mặc dù chỗ ngồi nơi chiếc bàn lúc này đang để trống. Bày biện trên vách tường thứ tư có vài thứ khiến người xem phải tò mò; Bruno sốt ruột nhổm người ra khỏi ghế rồi bắt đầu cất bước dạo quanh. Ông nhìn ra một tấm bản đồ cổ đánh véc-ni cứng cáp mặt ốp kính nằm chính giữa vách tường thứ tư; dòng ghi chú đóng khung hoa trang trí ở góc dưới bên trái cho biết đấy là bản đồ thế giới năm 1501. Một bộ sưu tập trang phục thời Elizabeth, mỗi thứ đặt vào một chiếc hộp riêng, xếp thành hàng áp vào tường…

Ai nấy đều quay đầu lại khi cánh cửa thư phòng đột ngột mở ra và cái hình dáng nhăn nheo khô đét của Quacey lách vào. Lão đứng giữ cánh cửa rộng mở, bộ mặt già nua héo hắt của lão đang toe toét cười chừng như thú lắm.

Rảo bước qua ô cửa tò vò là một gã đàn ông vóc người cao lớn vạm vỡ, gương mặt đỏ lừ đang giương mắt nhìn họ vẻ kênh kiệu. Gã có một chiếc cằm oai phong, nhưng hai bên má đã hơi xệ và quanh đôi mắt là những dấu hiệu một thời truy hoan phóng đãng không thể lẫn vào đâu. Gã mặc bộ comple bằng vải tuýt - là bộ đồ vải tuýt sợi thô với chiếc quần rộng bảnh bao và chiếc áo khoác ngắn. Tay gã thọc vào đôi túi không nắp, mắt quắc lên nhìn họ trừng trừng.

Vẻ bề ngoài của gã gây ấn tượng mạnh mẽ ngay tức khắc. Công tố viên Bruno đứng như chôn chân xuống sàn, ông chớp mắt lia lịa chừng như không thể tin được vào cái thông tin mà những đầu dây thần kinh lấp lóa truyền về bộ não. Thế nhưng nếu như Bruno tỏ ra giật mình thì thanh tra Thumm lại bị tác động theo cách tinh tế hơn và sâu sắc hơn. Bộ hàm cứng cáp của ông run run như mồm của một đứa bé; nó thõng xuống và hơi rung lên. Đôi mắt của ông, thường khi cứng rắn và lạnh lùng, giờ ánh lên sự kinh hoảng như phát sốt. Ông cứ hết nhắm vào lại mở ra liên hồi, sắc hồng trên gương mặt hầu như biến thành màu tái nhợt.

“Lạy Đức mẹ Chúa trời,” ông khàn khàn thốt lên. “Har… Har… Harley Longstreet!”

Những người khác không dám động đậy cả tay chân. Cái bóng ma ở khung cửa phá vỡ sự im lặng bằng một chuỗi cười khe khẽ đủ để tặng mỗi người một luồng ớn lạnh dọc sống lưng.

“‘Ôi, ai tin được sự độc ác lọc lừa lại nấp kín trong hình hài đẹp đẽ dường kia!’” Harley Longstreet cất lời bằng chất giọng trầm ấm tuyệt vời của ngài Drury Lane.