MÀN I - CẢNH 1 Lâu Đài Hamlet - Chủ Nhật, Ngày 17 Tháng Tư - 12:30 A.M
Khởi thủy, thanh tra Thumm mơ màng, Chúa tạo ra thiên đường và trần thế, Con người đã làm một việc thật vĩ đại nữa, đặc biệt khi con người tới sông Hudson, cách trung tâm thành phố vài cây, ở quận Westchester.
Viên thanh tra cừ khôi này hiếm khi có tâm trạng đức hạnh hay duy mỹ, từ lúc ngài thấy cần thiết phải mang lên đôi vai rộng của mình sức nặng đặc biệt của trách nhiệm người cảnh sát, nhưng ngay cả với một ngài thanh tra đầy những ý nghĩ trần tục, vẫn không thể nào duy trì sự vô tình thêm nữa trước vẻ đẹp xung quanh.
Chiếc xe của viên thanh tra đang lê qua một con đường hẹp hút gió, thẳng tắp, như đường lên thiên đàng, với cảnh tượng huyền ảo rối rắm hơn cả những bức tường có lỗ thành lũy, tháp nhọn bao quanh bằng cỏ cây hoa lá, được che phủ bên trên bằng mây trắng xanh, và để tương phản là một tia nước nhỏ của sông Hudson, với những gợn sóng xanh biếc trộn lẫn với các đốm trắng của thuyền bè bé tí ở xa đằng dưới. Không khí mà viên thanh tra hít sâu vào hai lá phổi được rắc thêm mùi gỗ và thông lá kim, hoa và bụi thơm, mặt trời buổi trưa đang chiếu rực rỡ, bỗng làn gió nhẹ tháng Tư mang hơi lạnh luồn qua mái tóc hoa râm của ngài. Thật vui mừng khi vẫn còn sống, viên thanh tra phản ứng đầy dứt khoát khi ngài ta điều khiển xe trước một khúc quành bất ngờ trên đường, có tội hay vô tội. Đây không phải chuyến viếng thăm lần đầu tới lâu đài Hamlet, nơi trú ngụ lạ thường của Drury Lane, viên thanh tra nghĩ, và cứ mỗi lần tới đó thì cái nơi chết tiệt ấy lại càng trở nên thân thiết hơn.
Ngài thanh tra cho xe dừng lại trước cây cầu nhỏ quen thuộc, tiền đồn án ngữ vùng đất của Drury Lane, và vẫy tay như trẻ con với người đứng gác, một ông già nhỏ thó hồng hào cười tươi rói đang làm động tác vuốt tóc chào lịch sự. “Chào bác! Thumm kêu to. “Hôm nay ngài Lane có nhà không nhỉ?”
“Dạ có, thưa ngài,” người gác cầu đáp lời. “Có, thưa ngài. Cứ rẽ phải rồi đi tiếp, ngài thanh tra. Ngài Drury bảo ngài luôn được tiếp đón. Chính lối đó ạ!” Ông ta chạy tới chỗ cây cầu, kéo mạnh cánh cửa kẽo kẹt ra đằng sau và ra hiệu cho chiếc xe của viên thanh tra băng qua mặt cầu bằng ván gỗ vừa cổ vừa lạ.
Viên thanh tra thở phào nhẹ nhõm và nhấn chân ga. Một ngày đẹp trời chết tiệt, ơn trời! Khung cảnh thật thân quen - con đường rải sỏi tuyệt mỹ, bụi cây hoang xanh mướt, và đột nhiên, như trong một giấc mơ lạ thường, một khoảng rừng trống hiện lên trước tòa lâu đài. Không chỉ nằm cao chót vót trên vách đá dốc cheo leo cách sông Hudson cả trăm mét, tòa lâu đài còn là đỉnh cao ước nguyện của ngài Drury Lane.
Ý tưởng về nó đã bị các nhà phê bình hiện đại chỉ trích, kiến trúc của nó bị đám chim non em chã từ Viện công nghệ Massachusetts chê bai, những kẻ có hàng đống bản vẽ với cấu trúc tháp nhọn bằng thép cao vút và những thành trì bằng bê tông vững chắc. Người tạo ra nó bị chế giễu là “Khốt ta bít,” “Đi sau thời đại,” “Gã hề nửa mùa,” -cái biệt danh cuối là do một thanh niên nghiêm túc từ một ngôi trường mới về phê bình kịch nghệ đặt cho, người mà bất kỳ nhà soạn kịch nào sống trước thời Eugene O’Neill và bất kỳ diễn viên nào sinh trước Leslie Howard đều chỉ là hạng “vớ vẩn,” “tầm phào,” “cổ lỗ,” và “không đáng nói.”
Nào đã hết, với những khu vườn nhiều cây trồng, những cây thủy tùng được lựa cẩn thận, một ngôi làng thời nữ hoàng Elizabeth với nhà có mái hiên, đường sỏi, vỉa hè, cầu kéo có hào bao quanh, và trên tất cả là sự kỳ vĩ của kiến trúc đá tảng tạo nên chính tòa lâu đài. Nó là một miếng thịt mỡ của kiến trúc thế kỷ 16, một miếng bánh thời phong kiến Anh, và chút gia vị từ Shakespeare… sự bài trí quen thuộc cho một quý ông già ẩn cư giữa những kỷ vật thời trai trẻ. Cái thời mà ngay cả những tay phê bình khó tính nhất cũng không thể phủ nhận, cái thời đã được hào phóng hiến dâng cho sự bất diệt của kịch nghệ, hiến dâng thứ như tài năng thiên phú cho sự nghiệp trong cái nhà hát đã mang đến cho ông một gia tài lớn, danh tiếng lớn, và một niềm hạnh phúc cá nhân vô bờ.
Và đây là nơi cư ngụ của ngài Drury Lane, ông hoàng đã thoái vị của sân khấu. Kệ cho đám đông xô bồ thành thị kia đánh giá thế nào, thanh tra Thumm tự rút ra quan điểm riêng. Một ông già khác mở cánh cửa sắt nặng nề trên bức tường đá cao bao quanh lâu đài, đây chính là sự yên bình và nó thật đẹp, nó là sự giải thoát cho bầu không khí quay cuồng của New York.
Thumm nhấn phanh đột ngột, và chiếc xe kít lên dừng lại. Cách bên trái viên thanh tra sáu mét là một cảnh tượng đáng kinh ngạc. Một vườn hoa tulip với bồn nước bằng đá có hình nàng tiên cá Ariel đang mỉm cười… nhưng chính con người với bàn tay xương xẩu rám nắng đang té nước trong bồn mới thu hút ông. Suốt quãng thời gian quen biết Drury Lane và người hầu của ông ta, viên thanh tra chưa từng mất đi cái cảm giác huyền ảo lạ kỳ khi trông thấy vị thần lùn già này. Ông ta nhỏ thó, da rám nắng, nhăn nheo, hói đầu, râu mọc rậm, và trên lưng của người lùn là một cái bướu gù lên - con người đáng kinh ngạc này mang tạp dề da, một hình ảnh thợ rèn hài hước. Con người gù lưng cổ lỗ đó nhìn lên, cặp mắt nhỏ tinh tường sáng lên. “Xin chào, Quacey!” viên thanh tra la lớn. “Ông đang làm gì thế?”
Quacey, người gắn bó mật thiết với quá khứ của Drury Lane - người làm tóc và trang điểm suốt bốn chục năm - đặt đôi bàn tay nhỏ bé lên cặp môi cong mỏng. “Tôi đang quan sát con cá vàng,” ông ta đĩnh đạc nói, bằng chất giọng khò khè cụt lủn của người cao tuổi. “Ngài là người lạ ở đây, thanh tra Thumm!”
Thumm bước ra khỏi xe và vươn hai cánh tay ra. “Tôi cũng đoán thế. Tình hình ông già thế nào?”
Bàn tay của Quacey phóng ra như một con rắn và rụt ra khỏi mặt nước với một thứ nhỏ bé giãy giụa. “Màu sắc đẹp thật,” ông ta nhận xét, khẽ chép đôi môi mỏng. “Ông bảo ngài Drury ư? Khỏe, rất khỏe.”
Ông ta đột nhiên mở lời, và tỏ ra buồn phiền. “Ông già ư? Ngài ấy còn trẻ hơn cả anh, thanh tra Thumm à, và anh biết điều đó. Ngài ấy mới sáu mươi, ngài Drury, nhưng có thể bỏ xa anh như… như một con thỏ, và ngài ấy bơi sáu kilômét trong hồ nước lạnh đằng sau kia mỗi sáng. Anh có làm vậy được không?”
“Chà, chắc là không,” viên thanh tra trả lời với một nụ cười, cẩn thận bước men theo luống hoa tulip. “Ông ấy đâu?”
Con cá vàng mất đi dũng khí, và đột nhiên nó ngừng không quẫy nữa. Với vẻ gần như tiếc nuối, người lưng gù ném nó trở lại dòng nước. “Đằng sau đám cây thủy lạp. Họ đang cắt tỉa chúng. Một người duy mỹ tuyệt vời, ý tôi là ngài Drury. Những người làm vườn yêu thích…”
Nhưng viên thanh tra, cười khoái chí, đã bước vượt lên trên ông già - không quên tiện tay chạm vào cái bướu kỳ cục kia, với Thumm đó là một người thợ xuất chúng. Quacey cười ha hả và nhúng cả hai bàn tay như vuốt chim săn mồi vào làn nước.
Thumm đến chỗ một cây thủy lạp bị cắt cụt có tính toán, đằng sau nó là một đống vụn và vết khía do công việc, cùng với giọng nói thâm trầm dễ chịu của Lane, một chất giọng không thường thấy. Thumm bước tới và cười tươi với một người cao gầy mặc quần nhung bao quanh với một đám thợ làm vườn. “Ngài Drury Lane đây rồi, bằng da bằng thịt,” viên thanh tra thốt lên, chìa bàn tay hộ pháp ra. “Chà chà! Ngài không thể già đi chút nào sao?”
“Thanh tra!” Lane reo lên bằng giọng vui mừng. “Một bất ngờ thú vị. Trời ạ, tôi rất mừng được gặp ngài!” Ông buông cái kéo nặng xuống và bắt chặt tay Thumm. “Sao ngài tìm được tôi? Mọi người thường tha thẩn quanh lâu đài Hamlet hàng giờ trước khi tìm thấy gia chủ là tôi.”
“Quacey,” viên thanh tra đáp, ngồi vội xuống thảm cỏ rực rỡ. “A… a.. a! Cảm giác thật tuyệt! Ông ta đang ở chỗ vòi phun.”
“Tra tấn con cá vàng, tôi biết thừa,” Lane cười khẩy.
Ông gập người lại như một cái lò xo và ngồi xuống bên cạnh viên thanh tra, “Thanh tra, ngài đang nặng nề hơn đấy,” ông phê bình, khi nhìn vào chỗ bụng phệ của Thumm. “Ngài nên tập luyện thêm. Từ lần trước ta gặp nhau ngài phải tăng thêm dăm ký rồi đấy.”
“Ngài nói chuẩn không cần chỉnh,” Thumm làu bàu. “Xin lỗi vì tôi không thể khen trả như thế. Ngài trông phong độ tuyệt vời luôn.”
Ngài thanh tra quan sát người bạn đồng hành với vẻ dường như là thiện ý. Lane là người cao và gầy, còn tràn đầy sinh lực nữa. Dù bộ râu bạc trắng đã mọc rậm quanh cổ, ông ấy dường như chỉ mới tứ tuần chứ không phải đã sáu mươi: nét mặt cổ điển nghiêm nghị của ông không hề có chút nếp nhăn và vẫn tươi trẻ. Trong cặp mắt xanh xám, vừa sắc vừa sâu, dĩ nhiên là chẳng có chút tuổi già nào. Sau chiếc áo trắng với cổ áo mềm là một cần cổ cứng cáp, vạm vỡ và cường tráng. Khuôn mặt ông, với vẻ trầm tĩnh bất động mà vẫn đủ khả năng bất ngờ chuyển trạng thái, là khuôn mặt của một người đang ở đỉnh cao phong độ. Ngay cả giọng nói của ông, mạnh mẽ, đầy uy lực, lại vừa sắc nhọn như mũi kiếm cho những biểu đạt cần thiết - chất giọng như rót mật vào tai đám đông thính giả - cũng khiến ta nhầm tưởng về những năm tháng hơi phiêu lãng. Nhìn chung thì ông để lại ấn tượng về một nhân vật lạ thường.
“Có gì đó,” Drury Lane nháy mắt nhận xét, “gì đó không hoàn toàn là chuyện xã giao khiến ngài phải đi xa từ tận thành phố đến đây, thanh tra à. Suy luận cơ bản thôi, từ khi ngài chẳng thèm thăm hỏi tôi suốt mùa đông - thực ra thì, từ lúc đỉnh điểm của cái vụ Longstreet * . Có chuyện gì khiến đầu óc các ngài phải vướng bận à?” Cặp mắt xuyên thấu của ông dán vào đôi môi của viên thanh tra. Người nghệ sĩ này bị điếc nặng, đó chính là nguyên nhân buộc ông phải giải nghệ sân khấu. Với khả năng lạ thường trong việc thích ứng với hoàn cảnh mới, ông đã nhanh chóng tự học được kỹ năng đọc môi, ông thành thạo nó tới mức hầu như ai giao tiếp với ông đều không nghĩ ông bị điếc.
Thumm tỏ vẻ ngập ngừng. “Tôi không nên nói ra. Tôi không nên xác nhận gì cả, ngài Lane… Nhưng đúng là có chút chuyện đang diễn ra ở New York khiến chúng tôi mệt đầu. Tôi nghĩ ngài sẽ muốn thử xem qua, đại loại thế.”
“Một tội ác,” người nghệ sĩ trầm tư. “Không phải vụ nhà Hatter đấy chứ?”
Viên thanh tra tươi tỉnh. “Vậy là ngài đã đọc vụ đó trên báo! Vâng, chính là cái nhà Hatter Điên loạn ấy. Âm mưu hạ độc người con gái cả của bà già đó - Louisa Campion.”
“Cô ta bị câm, điếc và mù.” Lane nghiêm nghị. “Cô ta khiến tôi quan tâm đặc biệt đấy, ngài thanh tra. Một ví dụ điển hình cho khả năng của con người trong việc vượt qua những bất lợi về thể chất… Và, tất nhiên, các ngài đã không thành công.”
“Vâng,” viên thanh tra tỏ vẻ bực dọc, tiện tay vặt một nắm cỏ trên mặt đất. Khung cảnh tươi đẹp này dường như đột nhiên không còn được Thumm để mắt tới. “Bó tay hoàn toàn. Chẳng biết mò mẫm ra sao nữa.”
Lane sắc sảo nhìn viên thanh tra. “Tôi đã đọc mọi thông tin trên các báo,” ông nói, “dù có thể những chi tiết bị cắt xén và toàn bộ câu chuyện chưa được kể. Dù sao thì tôi biết chút ít về gia đình này, vụ hạ độc món cocktail, đứa cháu suýt chết vì tham ăn - tất cả bề nổi của sự thật.” Ông đứng phắt dậy. “Ngài đã dùng bữa trưa chưa, thanh tra?”
Thumm cào cào cặp hàm xanh. “Chà… tôi cũng chưa đói lắm…”
“Vớ vẩn!” Lane chộp lấy cánh tay lực lưỡng của Thumm và lôi dậy. Viên thanh tra ngạc nhiên khi thấy mình gần như bị nhấc lên khỏi thảm cỏ. “Theo tôi và đừng làm bộ thế. Chúng ta sẽ ăn gì đó và thảo luận vấn đề của ngài khi cùng uống cạn bia lạnh. Ngài vẫn thích uống bia mà, nhỉ?”
Thumm lê chân đi và trông có vẻ khát. “Tôi chẳng nói mình thích, nhưng tôi cũng chẳng nói không…”
“Tôi nghĩ vậy. Các ngài đều giống nhau. Thận trọng nhưng thích thì nhích. Nhiều khả năng cũng sẽ thuyết phục được Falstaff, người quản gia nhỏ của tôi, để phục vụ chút rượu, xem nào, Martel Ba sao…”
“Không!” viên thanh tra phấn khởi đáp lời. “Giờ ư, trời ạ, chúng ta đang bàn chuyện mà, ngài Lane!”
Ngài Drury Lane tản bộ dọc theo vỉa hè cong cong và nở nụ cười thầm khi thấy cặp mắt bắt đầu trở nên ngỡ ngàng của vị khách. Sau khi đi qua đám cây cối, họ tiến tới ngôi làng cổ bao quanh lâu đài. Những mái ngói thấp đỏ và con đường rải sỏi, những lối đi hẹp, mái nhọn và hiên đầu hồi, tất cả đều hết sức quyến rũ. Viên thanh tra ngỡ ngàng đến ngây người. Chỉ khi trông thấy một đám đàn ông, phụ nữ mặc quần áo của thế kỷ XX thì ngài mới bắt đầu bình thường trở lại. Dù đã ghé lâu đài Hamlet không ít lần, nhưng đây là lần đầu tiên Thumm tới ngôi làng này. Họ dừng chân trước một kiến trúc thấp màu nâu với cửa sổ có chấn song và có biển gỗ treo bên ngoài. “Ngài đã nghe về quán Mermaid Tavern, nơi gặp gỡ của Shakespeare, Ben Jonson, Raleigh, Francis Beaumont và những người khác chưa?”
“Hình như tôi biết đấy,” viên thanh tra tỏ vẻ kinh ngạc, “ở London, quán rượu này là nơi lũ choai choai rủ rê tới ăn nhậu đập phá.”
“Chính xác. Ở phố Bread, Cheapside - gần phố Friday. Và còn hàng tá tên tuổi kỳ lạ ngài có thể nhận ra khi đến đó vào các Chủ nhật. Đây,” Drury Lane tiếp tục, với một động tác khom người lịch sự, “là bản sao hoàn chỉnh nhất của quán rượu bất diệt đó, thưa thanh tra. Cùng vào thôi.”
Thanh tra Thumm cười tươi. Căn phòng với trần bằng xà dầm đầy những khói thuốc, tiếng huyên náo và mùi rượu bia nồng nặc. Viên thanh tra gật gù tán thưởng. “Nếu đây là kiểu giải trí của các chàng trai từ vài trăm năm trước, thì ngài Lane ạ, tôi tới luôn. Được đấy!”
Một người dáng thấp bụng phệ với nước da đỏ au, với tạp dề trắng tinh quấn chặt quanh eo, hối hả lao đến chào mừng họ.
“Ngài còn nhớ Falstaff, nhà vô địch Falstaff không?” Lane hỏi, vỗ vào mái đầu hói của mình.
“Nhớ chứ!”
Falstaff khom người và cười tươi. “Vại đầy chứ, ngài Drury?”
“Đầy, và thêm một vại cho thanh tra Thumm, cùng một chai brandy, và thêm đồ nhắm ngon. Tới đây nào, thanh tra.” Ông dẫn lối qua căn phòng đông đúc, gật đầu và mỉm cười với đám thực khách ồn ã. Họ tìm thấy một góc bàn trống và tự ngồi xuống một băng ghế dài. Falstaff, với tư cách chủ quán hơn bao giờ hết, đôn đốc việc chuẩn bị món khai vị bữa trưa và tự mình đưa lên phục vụ. Viên thanh tra thở dài một hơi và vục cả chiếc mũi to vào vại bia đầy bọt.
“Giờ thì, thanh tra,” người nghệ sĩ nói, khi Thumm đang mải nhai miếng ngon cuối và cạn nốt chỗ rượu trong chai, “kể cho tôi chút gì đó về vấn đề của các ngài đi.”
“Có một sự rắc rối,” viên thanh tra phàn nàn. “Chẳng có gì nhiều để kể đâu. Nếu ngài đã đọc báo thì cũng biết gần bằng tôi rồi. Ngài cũng biết chuyện ông chồng bà già đó tự tử vài tháng trước rồi phải không?”
“Biết. Tất nhiên là đầy tin về vụ mất tích của York Hatter trên các mặt báo rồi. Kể tôi nghe tình hình khi ngài tới hiện trường vụ kia xem nào.”
“Được thôi,” Thumm đáp lời, ngả người ra sau tựa vào lưng ghế cao, “điều đầu tiên tôi làm là muốn xác định thời điểm khi chất Strychnine được đưa vào món cocktail. Đầu bếp và quản gia, bà Arbuckle, đã đặt chiếc ly trên bàn phòng ăn lúc 2 giờ 25 chiều, và tầm năm đến mười phút sau, tôi ước chừng như thế, thì bà Hatter cùng cô con gái mù câm điếc bước vào và thấy Jackie, đứa cháu tinh nghịch đang uống trộm thứ cocktail làm riêng kia. Chẳng có thông tin gì nhiều phải không?”
“Không,” Lane đáp lời. “Từ hoàn cảnh có liên quan, mà tôi tin là các ngài đã thông tin cho cánh báo chí, những ai đã có cơ hội hạ độc vào đồ uống. Ngài đã thẩm vấn cậu nhóc để xác định thời điểm nó lẻn vào phòng ăn chưa?”
“Rồi, nhưng trẻ con mà. Biết trông đợi gì đây? Nó nói nó lẻn vào phòng ngay trước khi bà nội và bác Louisa bước vào. Và chúng tôi không thể xác định được ai có thể lẻn vào đó trước thằng nhóc.”
“Tôi hiểu. Đứa trẻ đã hồi phục rồi nhỉ?”
Thanh tra Thumm khịt mũi. “Ổn rồi. cần thêm chút độc nữa để giết nó. Đúng là trẻ con! Hạng trẻ ranh làm người ta muốn tức chết. Tất nhiên là nó không muốn uống trộm chỗ cocktail - không, tất nhiên rồi! Nó chẳng biết sao lại muốn uống nó. Nó bảo: ‘Bà nội Emily dọa cháu sợ, thế là cháu nuốt luôn.’ Kiểu như thế. Tiếc là nó không nuốt thêm tí nữa.”
“Tôi cược là ngài không phải cậu ấm cô chiêu gì khi còn nhỏ, thanh tra à,” Lane khẽ cười. “Vậy suốt quãng thời gian mà nhiều khả năng món cocktail bị hạ độc, mọi người đang làm gì ở đâu? Thông tin báo chí không rõ ràng.”
“À, vâng, lộn xộn lắm, ngài biết đấy. Viên thuyền trưởng, Trivett - ông ta ở ngay phòng bên cạnh, là thư viện, để đọc báo. Nhưng ông ta bảo chẳng nghe thấy gì hết. Còn Jill Hatter, cô ta ở trong phòng trên gác, sắp thức dậy, trên giường. Lúc hai rưỡi chiều, xin nhắc lại!”
“Hẳn là cô gái trẻ đã đi chơi đêm,” Lane nhận xét cộc lốc, “trong một cuộc vẫn được gọi là cuộc rượu triền miên, tôi đoán thế. Như một kẻ vô luân. Thế còn những người khác?”
Thumm đưa ly rượu brandy lên nhìn với vẻ buồn rầu. “Còn cái cô Louisa - người lạ lùng - vẫn thường ngủ trưa một chút. Cô ta và mẹ nằm cùng một giường trên gác. Đại khái là bà Hatter, người vừa ra vườn để chuốc phiền cho ai đó, đã lên phòng đánh thức Louisa, và gần tới hai rưỡi thì họ xuống lầu cùng nhau, đi tới chỗ món cocktail. Còn tay hám gái, Conrad - cha của đứa trẻ - thì cứ quanh quẩn khắp hành lang khu phía đông tòa nhà và hút thuốc. Anh ta khai rằng bị đau đầu - phần nhiều do say rượu - và muốn được hít thở. Còn cô con gái chuyên viết thơ, Barbara Hatter - một nhân vật quan trọng, tôi hiểu, và mang vẻ con người nhất trong đám người kia, ngài Lane ạ, chỉ là một cô gái đẹp có đầu óc - cô ta đang viết lách trong phòng trên gác. Bà Smith, y tá của Louisa, thì có phòng ngủ ngay cạnh buồng của Louisa, trông được xuống hành lang phía đông - cô ta khai đang ở trong phòng mình và đọc báo Chủ nhật.”
“Còn những người khác?”
“Linh tinh cả. Bà quản gia Arbuckle thì ở sau bếp, dọn rửa sau bữa trưa với cô hầu Virginia. Ông chồng George Arbuckle thì ở trong gara đằng sau và lau chùi xe. Chỉ thế thôi. Khá là vô vọng, phải không?”
Lane gật đầu, cặp mắt ông dán chặt vào đôi môi của viên thanh tra. “Vị thuyền trưởng một chân Trivett,” ông nói. “Một nhân vật thú vị. Ông ta khớp vào chỗ nào của câu đố đây, hả thanh tra? Ông ta làm gì trong tòa nhà đó lúc hai rưỡi Chủ nhật?”
“Ô, ông ta,” Thumm lẩm bẩm. “Ông ta là một cựu thuyền trưởng, sống cạnh gia đình Hatter khá nhiều năm rồi - mua chỗ đó khi ông ta nghỉ hưu. Chúng tôi đã điều tra ông ta, đừng lo. Giàu sụ ra - ông ta đã đi biển với con tàu chở hàng của mình suốt ba chục năm. Bị buộc phải nghỉ hưu sau một trận bão tồi tệ trên biển Nam Đại Tây Dương. Biển cả nổi sóng và đánh văng ông ta xuống nước - một chân bị va đập vào nhiều chỗ. Viên thuyền phó khiến cái chân ấy bị nhiễm trùng, và khi cập cảng thì họ buộc phải cắt bỏ. Đó quả là một ông già biển cả.”
“Nhưng ngài chưa trả lời câu hỏi của tôi, thanh tra,” Lane nhẹ nhàng nói. “Sao ông ta lại hiện diện trong nhà họ?”
“Tha cho tôi đi được không?” Thumm làu bàu.
“Vậy mạn phép. Tôi đang cảm thấy thư thái thì ngài nhắc tôi về vụ việc này… Trivett luôn lui tới nhà Hatter. Họ bảo ông ta là người bạn thực sự duy nhất của York Hatter - hai ông già đơn độc kết thân với nhau, tôi đoán là, bởi họ có chung nỗi cô đơn. Trivett cũng bị sốc vì vụ mất tích và tự tử của York Hatter, tôi hiểu. Nhưng ông ta không hề ngừng viếng thăm. Ngài thấy đấy, ông ta như ánh nắng chiếu vào Louisa Campion - có lẽ bởi cô ta là một người dịu dàng bị khuyết tật nặng chẳng biết phàn nàn, còn ông ta thì bị mất một chân. Nhiều khả năng. Những khiếm khuyết thân thể mang người ta lại gần nhau. Vậy là vị thuyền trưởng tốt bụng chỉ đơn thuần là đến để thăm hỏi Louisa Campion?
“Đó là tấm vé vào cửa. Tìm đến cô ta mỗi ngày. Họ đã đủ thân thiết, và ngay cả bà mẹ cũng tán thành - thậm chí là quá mừng vì có người chịu để ý tới một người câm điếc - Chúa mới biết sao những người khác không làm thế. Ông ta tới vào tầm hai giờ chiều, bà Arbuckle bảo rằng Louisa đang ngủ trên gác, và ông ta vào thư viện ngồi chờ. Làm thế nào họ giao tiếp được, thanh tra? Rốt cục thì đó vẫn là một phụ nữ tội nghiệp không thể nghe, nhìn hay nói chuyện.”
“À, họ hẳn đã tìm ra cách nào đó,” viên thanh tra đáp. “Cô ta không bị điếc cho đến khi mười tám tuổi, và trước thời điểm đó cô ta đã được học nhiều thứ. Dù sao thì chủ yếu vẫn là thuyền trưởng Trivett ngồi và nắm tay cô ta. Cô ta cũng khá thích ông ta.”
“Khổ thân họ! Giờ thì thanh tra, về phần chất độc Strychnine . Ngài đã thử xác minh nguồn gốc của nó chưa?”
Thumm cười chua chát. “Thật không may. Chúng tôi tóm lấy đầu mối này ngay từ đầu. Tất nhiên rồi. Nhưng đó là đường cụt. Ông thấy đấy, York Hatter chưa bao giờ quên đi niềm yêu thích hóa học - đam mê cháy bỏng từ khi còn là một chuyên viên nghiên cứu hóa chất thời trai trẻ, tôi hiểu là như thế. Ông ta có bố trí một phòng thí nghiệm trong buồng ngủ. Thường dành ra cả ngày trong đó.”
“Lối thoát cá nhân khỏi cuộc sống đáng ghét. Hẳn là vậy. Và chất Strychnine đến từ phòng thí nghiệm đó?”
Thumm nhún vai. “Tôi đoán thế. Ngay cả ở đó, chúng tôi cũng gặp rắc rối. Kể từ khi ông chồng qua đời, bà ta đã cho khóa chặt phòng thí nghiệm đó lại. Nghiêm cấm lui tới, không ai được phép đi vào. Một kiểu lăng mộ tưởng nhớ, đại loại thế. Bà ta muốn giữ nó y nguyên như lúc York Hatter bỏ đi - đặc biệt là hai tháng trước đây khi cái xác được tìm thấy và ông ta được xác định là đã chết. Thấy không? Chỉ có một chìa khóa, và bà ta lúc nào cũng mang theo nó. Không còn lối vào nào khác - mọi cửa sổ đều có song sắt. Ngay khi biết về căn phòng thí nghiệm đó, tôi đã chạy lên đó xem xét, và…”
“Ngài có chìa khóa từ bà Hatter ư?”
“Vâng.”
“Bà ta luôn giữ nó suốt thời gian qua, ngài chắc chứ?”
“Đấy là bà ta bảo thế. Dù sao, chúng tôi cũng tìm thấy những viên thuốc chứa Strychnine trong một cái lọ trên đống giá để đồ mà Hatter đã dựng lên. Nên chúng tôi đoán chất độc đến từ cái lọ đó - thật dễ để cho một viên vào món cocktail so với việc mang theo một nhúm bột hay chất lỏng. Nhưng làm cách nào mà có kẻ vào được trong đó?”
Lane chưa vội trả lời ngay. Ông ngoắc ngón tay dài, rắn chắc, màu xám về phía Falstaff. “Rót thêm bia… Một câu hỏi hoa mỹ, thanh tra à. Cửa sổ có song sắt - Hatter hẳn đã quá muốn bảo vệ con đường trốn thoát của mình - cửa thì khóa, và chiếc chìa duy nhất luôn nằm trong tay bà Hatter. Hừm… Không cần thiết phải có một sự giải thích cầu kỳ. Có những thứ như là sáp in hình mà.”
“Hẳn rồi,” Thumm lầm bầm, “và chúng tôi lại không nghĩ đến thứ đó sao. Tôi có chỉ ra ba khả năng khả thi, ngài Lane à. Khả năng đầu tiên: kẻ hạ độc đã đánh cắp chất Strychnine từ phòng thí nghiệm trước khi York Hatter biến mất, khi căn phòng để mở và ai cũng vào được, hắn cất giữ chất độc cho đến hôm Chủ nhật rồi…”
“Mưu trí đấy,” Lane nhận xét. “Tiếp đi thanh tra.”
“Thứ hai, ai đó đã dùng sáp để sao chìa khóa, như ngài gợi ý, làm một chiếc chìa tự chế, và tiếp cận được phòng thí nghiệm để lấy chất độc ngay trước vụ mưu sát.”
“Hoặc là trước từ lâu rồi, phải không thanh tra?”
“Còn khả năng thứ ba, chất độc được đưa vào từ một nguồn bên ngoài.” Thumm nhận lấy vại bia đầy ắp bọt từ tay Falstaff, và uống cạn nó cho thỏa cơn khát. “Ngon lắm,” Thumm nói bằng giọng líu ríu. “Ý tôi là bia. Chúng tôi đã làm mọi việc có thể làm. Giả thuyết về chiếc chìa khóa - có vẻ khả thi - công cuộc tổng rà soát mọi thợ khóa và cửa hàng ngũ kim… không phát hiện ra gì cả. Nguồn chất độc bên ngoài - chúng tôi đang tiến hành điều tra, tới nay vẫn chưa có tiến triển nào. Và tình hình tới hôm nay là thế.”
Lane trầm ngâm gõ tay lên mặt bàn. Quán đang vãn khách dần, họ gần như chỉ còn lại một mình. “Và ngài đã nảy ra ý nghĩ,” ông nói sau một hồi im lặng, “là món cocktail có thể bị hạ độc trước khi bà Arbuckle mang nó vào phòng ăn?”
“Trời đất ạ, ngài Lane,” Thumm lẩm bẩm, “ngài nghĩ tôi là ai chứ? Tất nhiên tôi nghĩ đến chuyện đó. Khám xét căn bếp, nhưng chẳng có dấu vết gì của chất Strychnine hay kẻ hạ độc. Tuy nhiên, quả là bà Arbuckle đã để thức uống trên bàn bếp trong vài phút và đi đến chỗ kho đồ ăn lấy gì đó. Cô hầu Virginia đã vào phòng khách một phút trước để dọn dẹp. Nên ai đó có thể lẻn vào bếp và hạ độc vào đồ uống trong khi bà Arbuckle không để ý.”
“Tôi bắt đầu đánh giá cao sự rắc rối của ngài rồi đấy,” Lane nói với một nụ cười rầu rĩ. “Và để bổ sung thêm, thanh tra à. Không còn ai khác trong tòa nhà vào chiều Chủ nhật đó ư?”
“Tôi chẳng phát hiện ra thêm ai nữa cả. Nhưng cửa trước không hề khóa, và bất kỳ ai cũng có thể lẻn vào mà không bị phát hiện. Việc chuẩn bị món cocktail hằng ngày trong gian bếp lúc hai rưỡi chiều thì nhà Hatter ai cũng biết hết.”
“Tôi hiểu là có người trong đám gia nhân đã không ở trong nhà khi vụ việc xảy ra - Edgar Perry, gia sư riêng cho hai đứa con của Conrad Hatter. Ngài đã kiểm tra anh ta chưa?”
“Chắc chắn rồi. Perry được nghỉ Chủ nhật đó, và sáng hôm ấy anh ta khai mình bận đi dạo, qua công viên Central - dành cả ngày cho bản thân. Không về nhà tới khi chiều muộn, khi tôi ghé qua đó trước.”
“Vậy anh ta phản ứng thế nào khi biết tin về vụ hạ độc?”
“Có vẻ kinh ngạc và, tôi nghĩ, khá là lo lắng khi biết tin đó. Không thể đưa ra lời giải thích nào.”
“Dường như chúng ta,” Drury Lane nhận xét, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt như tượng, một cái cau mày hiện ra giữa cặp mắt, “đang bị đẩy sâu vào một màn sương mù. Và động cơ? Mấu chốt của sự việc có thể nằm ở đó.”
Thanh tra Thumm cứ thế rên lên, như một người tráng kiện rống lên thể hiện sức mạnh. “Bất kỳ người nào trong số họ cũng có động cơ hết. Gia đình Hatter là một đám người dở hơi - điên có tổ chức, sung sức có đào tạo, ngoại trừ cái nàng thơ Barbara, mà ngay cô ta cũng gàn dở theo cách riêng, gàn dở bằng thơ ca. Ngài thấy đấy, bà Hatter dành cả đời để bao bọc cho đứa con gái mù câm điếc. Trông nom cô ta như một bà mẹ hổ. Ngủ chung phòng, tự tay cho ăn, giúp mặc đồ - dành cả đời để khiến Louisa thoải mái nhất có thể. Việc làm duy nhất khiến mụ hồ ly tinh đó trông như con người.”
“Và, tất nhiên, những đứa con khác sẽ ghen tị,” Lane lầm bầm với đôi mắt sáng chợt lóe lên. “Họ sẽ ghen tị. Sự mãnh liệt, hoang dại cộng với bản năng bạo lực không bị chi phối bởi bất kỳ sự suy xét đạo đức nào… Đúng thế. Tôi bắt đầu nhìn ra những khả năng rồi.”
“Tôi đã theo dõi họ suốt cả tuần,” viên thanh tra chen vào. “Sự chú tâm của bà mẹ dành cho Louisa kiên định đến mức những đứa con khác phát phiền và tị nạnh. Không phải chuyện hiền hòa thân thiện và con yêu mẹ, mẹ thân mến đâu!” Viên thanh tra mỉm cười tinh quái. “Tôi không nghĩ đó là tình yêu thương. Chỉ là sự kiêu căng và có phần ngang ngạnh. Hơn thế, xin nhắc là còn liên quan đến chuyện Louisa không phải chị ruột của họ, thưa ngài Lane, mà chỉ là chị em cùng mẹ khác cha.”
“Có sự khác biệt đáng kể ở đây,” Lane đồng tình.
“Nó làm mọi chuyện thay đổi hẳn. Như Jill, đứa con út chẳng hạn, chẳng có ân oán gì với Louisa, tuyên bố sự có mặt của cô chị khiến ngôi nhà như có tang và không có người bạn nào của cô ta thích đến đó, vì Louisa khiến mọi người không thoải mái với những biểu hiện kỳ dị. Biểu hiện kỳ dị! Cô chị biết làm sao đây, nhưng Jill chẳng buồn bận tâm chút nào. Không phải cô ta. Giá mà cô ta là con gái tôi.”
Bàn tay Thumm vỗ bốp xuống bắp đùi mình. “Conrad cũng có suy nghĩ tương tự - luôn cãi nhau với bà mẹ nhằm đưa Louisa tới một tổ chức nào đó cho khuất mắt. Bảo rằng cô chị khiến họ không thể có cuộc sống bình thường được. Bình thường cơ đấy!” viên thanh tra cười nhạo. “Kiểu sống bình thường của hắn là có rượu để sẵn dưới bàn và có gái vây quanh.”
“Còn Barbara Hatter?”
“Đó lại là một câu chuyện khác nữa.” Dường như Thumm có cảm tình với cô thi sĩ này, nên viên thanh tra nhấm nháp vại bia, liếm mép, rồi trả lời bằng giọng trầm ấm sau cái nhìn tò mò của Lane: “Điều tôi muốn nói - cô ta là một cô gái tốt, ngài Lane ạ. Tinh tế. Tôi không bảo cô ta yêu quý người chị, nhưng từ những gì tôi thấy thì Barbara xót thương cho người chị, cố giúp cô ta có chút niềm vui sống - điều mà ta mong một phụ nữ chân chính có trái tim sẽ thực hiện.”
“Cô Hatter này rõ là đã chinh phục được ngài.” Lane đứng dậy. “Theo tôi nào, thanh tra, ra hít chút khí trời.”
Thumm cố đứng dậy, tháo lỏng thắt lưng, và từ quán rượu bước ra con đường nhỏ lạ kỳ. Họ quay trở lại chỗ khu vườn. Lane đắm chìm trong suy tư, cặp mắt ông u uất và miệng ông mím lại.
Thumm bước theo sau với vẻ buồn bã. “Conrad và vợ anh ta không hòa hợp lắm, tôi nhận ra…” Lane cuối cùng cũng lên tiếng, thả mình xuống một băng ghế đẽo thô. “Ngồi xuống đi, thanh tra.”
Thumm nghe theo, vẻ yếu ớt, như một người đã chán việc suy nghĩ. “Họ không hợp. Như chó với mèo ấy. Cô vợ bảo rằng cô ta sẽ đem hai đứa nhỏ đi khỏi ‘căn nhà đáng sợ này’ ngay khi cô ta có thể - bất ngờ ở chỗ cô ta nói thật luôn… Tôi biết thêm chút thông tin thú vị về cô ta từ bà Smith, Y tá của Louisa. Vài tuần trước Martha và bà mẹ chồng đã có ẩu đả. Hình như bà ta đã đánh lũ trẻ và thế là Martha tức điên lên. Gọi bà mẹ chồng là ‘đồ quỷ cái’ nguyền rủa bà ta là người chuyên chọc gậy bánh xe, và bảo rằng giá mà bà ta chết đi cho rồi - ngài biết phụ nữ phản ứng thế nào khi họ bị kích động rồi đấy. Đại loại là, nó biến thành một cuộc đấu bứt tóc. Bà Smith đưa lũ trẻ ra khỏi phòng - ai cũng sợ cứng người… Martha thì hiền như cừu, ngài hiểu chứ, nhưng khi điên lên thì ghê gớm lắm. Tôi thấy tội nghiệp cô ta, phải sống với một hội điên. Tôi sẽ không để con cái mình lớn lên trong một môi trường như thế, thực lòng mà nói.”
“Còn bà Hatter là một phụ nữ giàu có,” Lane trầm ngâm, như thể ông chưa hiểu hết ý câu chuyện của Thumm. “Có thể tiền là động cơ đằng sau…” Với mỗi khoảnh khắc trôi qua, ông lại trở nên âu sầu hơn.
Họ ngồi trong yên lặng. Không gian trở lạnh, từ ngôi làng nhỏ vang lên tiếng cười to. Viên thanh tra khoanh tay trước ngực, quan sát khuôn mặt Lane. Thứ mà ngài thấy rõ ràng không thỏa mãn, nên ngài cất tiếng: “Vậy, kết luận thế nào đây, ngài Lane? Có manh mối gì không?”
Drury Lane thở dài, khẽ cười, rồi lắc đầu. “Tiếc là tôi đâu phải siêu nhân, thanh tra à.”
“Ý ngài là?”
“Là tôi chưa có ý niệm mơ hồ nào cho câu trả lời. Ai đã bỏ độc vào đồ uống? Không có giả thuyết nào khả dĩ cả. Sự thật, sự thật - không đủ cho một giả thuyết xác đáng.”
Thumm lộ vẻ buồn bã. Ngài đã vừa mong vừa lo cái cảnh này. “Có gợi ý gì chăng?”
Lane nhún vai. “Chỉ có một cảnh báo. Một kẻ hạ độc sẽ luôn là kẻ hạ độc. Không nghi ngờ gì, chắc chắn sẽ có lần mưu sát khác nhằm vào Louisa Campion. Tất nhiên là chưa diễn ra ngay đâu. Nhưng một ngày nào đó, khi kẻ hạ độc nghĩ rằng hắn an toàn…”
“Chúng tôi sẽ làm tất cả có thể để ngăn ngừa điều đó,” viên thanh tra đáp bằng giọng không quá tự tin.
Người nghệ sĩ già đột nhiên vươn thân hình gầy guộc đứng dậy, và Thumm ngắm nhìn với vẻ kinh ngạc. Khuôn mặt Lane vẫn trơ trơ - dấu hiệu không thể sai của việc ông đang mải suy nghĩ. “Thanh tra. Tôi hiểu là bác sĩ Merriam đã lấy mẫu chất độc từ chỗ cocktail bị đổ trên sàn phòng ăn đúng không?” Thumm gật đầu, tò mò dõi theo. “Và bên pháp y đã phân tích mẫu đó phải không?”
Viên thanh tra nhẹ người. “À,” ngài trả lời. “Vâng, chính bác sĩ Schilling đã xét nghiệm trong phòng thí nghiệm thành phố.”
“Đích thân bác sĩ Schilling đã thông báo kết quả phân tích ư?”
“Này, này!” viên thanh tra đáp. “Ngài nghĩ sao vậy? Chẳng có gì kỳ bí ở đây cả, ngài Lane. Chính ông ấy đã báo cáo kết quả.”
“Thế ông ấy có bảo lượng thuốc độc trong cocktail là đủ liều gây chết người không?”
Viên thanh tra khịt mũi. “Gây chết? Dám cá rằng là đủ. Bác sĩ bảo chỗ thuốc độc trong đồ uống đủ để giết cả tá người luôn.”
Một khoảnh khắc trôi qua, khuôn mặt Lane lấy lại nét dễ chịu thường ngày, và khẽ thêm nét thất vọng, còn viên thanh tra đọc được vẻ hụt hẫng trong cặp mắt xanh xám. “Và tôi chỉ có thể quyên chút phần thưởng nhỏ nhoi cho chuyến hành trình dài nóng nực của ngài, thanh tra ạ!” Drury Lane lên tiếng, “là các anh phải theo dõi nhà Hatter Điên loạn thật sát sao.”