CẢNH 2 Giường Ngủ Của Louisa. - Chủ Nhật, Ngày 5 Tháng Sáu - 10:00 A.M
Có thể thấy rằng ngay từ đầu vụ việc nhà Hatter đã diễn ra theo cách nhẹ nhàng. Chẳng hề liên quan đến chuyện án mạng cứ nối tiếp án mạng, một mớ những sự kiện, những tin tức gây chấn động. Nó diễn ra thật chậm rãi, với nhịp điệu gần như khoan thai và bởi sự việc quá chậm nên người ta không thấy xót thương gì cả, như cuộc diễu hành của Jagannath .
Theo đó, việc tiến triển chậm chạp của sự kiện này dường như đặc biệt có ý nghĩa, dù tại thời điểm ấy chẳng ai, gồm cả Drury Lane, có thể đoán được khoảng cách đến sự thật. Vụ mất tích của York Hatter vào tháng Mười hai, việc phát hiện ra thi thể vào tháng Hai, chuyện mưu sát cô con gái mù câm điếc vào tháng Tư, và thêm nữa, chỉ chưa đầy hai tháng sau, vào một sáng Chủ nhật nắng đẹp tháng Sáu…
Lane, ẩn mình lánh đời trong tòa lâu đài bên sông Hudson, đã quên mất vụ việc của nhà Hatter và chuyến viếng thăm của Thumm. Những bài báo cứ mất dần hứng thú với vụ hạ độc kia, cho đến khi cuối cùng toàn bộ vụ việc biến khỏi mục tin tức. Dù thanh tra Thumm đã nỗ lực hết sức, chẳng có thêm điều gì được hé lộ, chẳng thể quy kết ai là kẻ đầu độc dù chỉ là chút đỉnh. Cơn háo hức lắng xuống, cảnh sát cũng chìm theo. Cho đến ngày mồng năm tháng Sáu.
Drury Lane biết chuyện qua điện thoại. Ông đang nằm giãn mình trên bức tường lỗ rỗng của lâu đài, sưởi nắng cho cơ thể, thì ông già Quacey chạy bổ lên cầu thang xoắn của tòa tháp, khuôn mặt của người lùn tái đi vì cố sức. “Thanh tra Thumm!” ông ta thở khò khè. “Đang chờ điện thoại, ngài Drury! Ngài… ngài…”
Lane bật dậy ngay. “Có chuyện gì, Quacey?”
“Ngài ấy bảo là…” Quacey tiếp tục hổn hển, “vừa có chuyện tại nhà Hatter!”
Lane trườn mình ra phía trước và ngồi xổm trên mái vòm dốc. “Vậy là cuối cùng cũng có chuyện,” ông ta chậm rãi nói. “Khi nào? Là ai? Thumm bảo thế nào?”
Quacey lắc cái trán nhễ nhại. “Ngài ấy chẳng bảo gì. Ngài ấy đang rất kích động, viên thanh tra ấy. Ngài ấy gào lên với tôi. Tôi chưa từng hộc tốc đến thế suốt…”
“Quacey!” Lane đứng dậy. “Nói nhanh đi.”
“Vâng, ngài Drury. Nếu ngài muốn biết tường tận, ngài ấy bảo, hãy tới nhà Hatter ngay lập tức. Phố Washington Square North. Mọi thứ đang chờ ngài đến. Nhưng nhanh lên, ngài ấy nói!”
Lane liền lập tức lao xuống cầu thang xoắn.
Hai tiếng sau, được dẫn đường bởi một thanh niên trẻ miệng không ngớt cười mà Lane gọi là Dromio - ông thường gọi vui bạn hữu bằng tên nhân vật của Shakespeare - thì chiếc limousine Lincoln đen bóng của Lane đã lách qua được dòng xe đông đúc phía dưới đại lộ Thứ Năm. Khi họ lướt qua dòng xe ở phố Thứ Tám, Lane có thể trông thấy một đám đông từ đằng xa đang bu quanh công viên Washington Square, bị cảnh sát hò hét và làm tắc lối vào bên dưới cổng vòm chính. Hai xe môtô cảnh sát dừng Dromio lại. “Không được qua!” một người hét lên. “Quay đầu đi vòng!”
Một sĩ quan mập ú, mặt đỏ chạy tới. “Xe của ngài Lane phải không? Thanh tra Thumm bảo cho họ qua. Nào, các cậu. Lệnh đấy.” Dromio cho xe bò quanh góc đường dẫn vào khu Waverly Place, bỏ lại toàn bộ khu phía bắc phần công viên giữa đại lộ Thứ Năm và phố Macdougal. Những lối đi bộ của công viên cắt qua con phố đang kẹt cứng người xem, phóng viên và dân quay phim đang chạy như kiến vỡ tổ. Cảnh sát và đám mật vụ nặng nề ở khắp nơi.
Khi thấy nơi xuất phát của cảnh nhốn nháo xáo động, Dromio liền dừng xe lại trước chỗ đó. Một kiến trúc như khối hộp cao ba tầng xây bằng gạch đỏ tươi, một ngôi nhà cũ với phong cách cổ xưa - di tích từ thời còn đường xe ngựa, với những ô cửa sổ rộng che màn kín, một đường viền trang trí trên gờ mái, và bậc tam cấp bằng đá trắng với tay vịn sắt hai bên, và ở đầu mỗi bên, chỗ chân thềm, là hai con sư tử bằng gang đã chuyển xanh theo thời gian. Đám thanh tra đứng chen nhau trên bậc tam cấp. Án ngữ lối vào là cánh cửa ô trắng to tướng mở toang, để lộ ra một khu tiền sảnh nhỏ.
Lane xuống khỏi chiếc xe với vẻ u sầu. Ông mặc bộ complet bằng vải lanh mát, đội mũ vành, đi giày trắng, và cầm theo một cây gậy mây. Ông quan sát thềm nhà, thở dài, và bắt đầu bước lên những bậc đá. Một người ló ra khỏi tiền sảnh. “Ngài Lane đúng không ạ? Mời đi lối này. Thanh tra Thumm đang đợi ngài.”
Viên thanh tra - với khuôn mặt hiện rõ sắc đỏ cáu gắt - gặp Lane trong nhà. Một nơi tĩnh lặng: một đại sảnh dài lạnh ngắt, rộng và sâu, các cửa bên đều đóng cả. Ở trung tâm hành lang là một cầu thang kiểu cũ bằng gỗ dẫn lên lầu trên. Và, đối lập với con phố ồn ã, bên trong căn nhà im ắng như một lăng mộ. Chẳng có ai hết - ngay cả cảnh sát cũng không, như tới giờ Lane nhận thấy.
“Chà,” Thumm cất giọng bi kịch, “đã có chuyện.” Viên thanh tra có vẻ ngập ngừng chẳng nói nên lời trong giây lát, “đã có chuyện” như đại diện cho giới hạn tột đỉnh của ngôn từ.
“Louisa Campion ư?” Lane hỏi. Một câu hỏi dường như vô nghĩa. Còn có thể là ai khác ngoài Louisa Campion đây, khi hai tháng trước đó cô ta bị mưu sát?
Thanh tra Thumm thốt lên: “Không.”
Vẻ ngạc nhiên của Lane suýt biến thành lố bịch. “Không phải Louisa Campion!” ông thốt lên. “Vậy là ai…?”
“Bà mẹ già. Bị sát hại!”
Người nọ nhìn người kia trong hành lang lạnh ngắt, mắt giao nhau, và chẳng tìm được niềm an ủi nào trên khuôn mặt người kia. “Phu nhân Hatter,” Lane nhắc lại lần thứ ba. “Lạ thật, thanh tra à. Như thể có người cố ý muốn sát hại cả nhà Hatter, chứ không chỉ một người cụ thể.”
Thumm di chuyển vội vã về phía cầu thang. “Ngài nghĩ vậy sao?”
“Tôi chỉ vừa bật ra ý nghĩ đó thôi,” Lane đáp lời khô khốc. “Rõ là ngài không đồng tình với tôi.”
Họ bắt đầu sóng đôi leo lên cầu thang. Viên thanh tra bước đi nặng nhọc, như thể đang bị đau. “Tôi cũng chẳng phản đối ý kiến đó. Chỉ là tôi vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo vụ việc ra sao.”
“Là chất độc à?”
“Không. Chí ít cũng không có vẻ như thế. Nhưng ngài có thể tự xem.”
Họ dừng lại tại đầu cầu thang. Lane quét ánh mắt sắc bén. Họ đang đứng trên một hành lang dài. Cửa ở mỗi bên đều đóng kín, và trước mỗi ô cửa đều có một cảnh sát đứng canh.
“Đây là các phòng ngủ, phải không thanh tra?”
Thumm xác nhận và bắt đầu đi men theo hàng tay vịn gỗ đầu cầu thang. Viên thanh tra dừng lại ngay sau đó, tỏ vẻ căng thẳng, đụng nhau với Lane đi đằng sau. Một viên cảnh sát béo lùn đứng tựa vào cửa ở góc phía tây bắc hành lang đột nhiên hô to: “Ôi!” và lảo đảo ngả người ra sau khi cánh cửa sau lưng anh ta bị mở mạnh.
Viên thanh tra thở phào. “Lại là đám nhãi ranh đó nữa,” ngài càu nhàu. “Hogan, trời ạ, anh không thấy là lũ chuột đó đang ở trong phòng sao?”
“Có, thưa ngài,” Hogan thở hổn hển, cảm thấy bối rối. Một cậu nhóc nhỏ thó, đang la hét ầm ĩ, lao mình qua giữa đôi chân mập ú của anh ta và trườn xuống sảnh với một quyết tâm ra trò.
Hogan vừa lấy lại thăng bằng thì lại bị quấy rầy bởi một cậu nhóc còn nhỏ hơn nữa, chỉ vừa chập chững biết đi, chạy lon ton giữa cặp chân đầy mời gọi, cũng hân hoan bắt chước la hét như cậu anh trai. Viên cảnh sát chồm người ra trước, theo sau là một phụ nữ mang vẻ ưu phiền đang gắt lên: “Jackie! Billy! Cái bọn này, các con biết là không được phép thế!”
“Martha Hatter?” Lane thì thầm. Cô ta là một phụ nữ khá đẹp, nhưng đã có nếp nhăn quanh mắt và không còn vẻ khỏe khoắn tươi vui. Thumm gật đầu, mải dõi theo màn đuổi bắt.
Hogan đã tóm gọn được Jackie, cậu nhóc mười ba tuổi, từ tiếng la của Jackie, thì có vẻ cậu ta đang muốn xem xem có chuyện gì xảy ra, cậu nhóc hét lên và đá vào chân viên cảnh sát, khiến anh ta lúng túng trong đau đớn. Martha Hatter đã bắt kịp cậu con thứ đang bắt chước người anh, đá liên hồi vu vơ nhưng đầy uy lực vào mắt cá chân của Hogan. Trong cảnh hỗn loạn của tay, chân, mặt mũi và tóc tai rối bù, cả bốn người họ đều biến vào trong căn phòng. Từ tiếng la vang lên sau cánh cửa, có thể thấy cục diện cuộc chiến đã hoàn toàn đổi hướng.
“Và đây,” Thumm cất giọng cay đắng, “chính là minh họa cho tổ hợp gia đình quái đản này. Lũ quỷ nhỏ khiến cho mọi người lộn cả ruột lên… Chỗ này đây, ngài Lane.”
Đối diện đầu cầu thang là một cánh cửa, cách góc hành lang về phía đông chưa đầy hai mét. Cánh cửa đang khép hờ. Thumm mở nó đủ rộng để đi vào và đứng qua một bên. Lane dừng lại trước ngưỡng cửa, đôi mắt ánh lên vẻ tìm kiếm bóng người. Căn phòng hầu như trống trải: chỉ có một chiếc giường. Có hai cửa sổ lồi ra đối diện cánh cửa trước, trông ra ngoài khu vườn nằm hướng bắc, hay đằng sau của tòa nhà. Cánh cửa ở bức tường phía đông gần cửa sổ dẫn đến một buồng tắm riêng biệt, Thumm giải thích. Ô cửa hành lang mà Lane và Thumm đang đứng nằm bên trái của bức tường phòng ngủ, còn ở bên phải, Lane để ý thấy có một buồng để đồ dài và sâu, điều đó giải thích tại sao hành lang lại hẹp lại ở phía ngoài đầu cầu thang, vì buồng để đồ đã chiếm thêm diện tích dọc theo phần còn lại của hành lang về hướng đông, nơi có một căn phòng khác.
Từ nơi đang đứng, Lane có thể thấy hai chiếc giường - một cặp giường giống nhau - được đặt đầu quay về phía bức tường phải, và phân cách với nhau bằng một cái bàn đầu giường lớn đặt cách mỗi bên khoảng nửa mét. Chiếc giường gần cửa hơn có một cây đèn ngủ nhỏ, được gắn vào thành giường, còn chiếc giường kia không gắn đèn. Ở bức tường bên trái, phía trung tâm và đối diện với hai chiếc giường là một lò sưởi lớn bằng đá kiểu cũ, dường như đã lâu không dùng dù bộ đồ lò vẫn được xếp trên cái giá bên cạnh. Những quan sát trên là theo bản năng và tức thời. Sau khi quan sát nhanh để biết đồ đạc cơ bản được bố trí thế nào, Lane dời mắt về phía hai chiếc giường.
“Lò sưởi lạnh như cá chết,” Thumm lầm bầm, dựa người vào mặt bên lò. “Nhìn được mọi thứ. Trông bà ta đẹp chưa kìa!”
Trên chiếc giường gần cửa - chiếc giường có gắn đèn - là phu nhân Hatter đang nằm. Bình luận chua cay của Thumm là thừa thãi, đang nằm vặn vẹo giữa tấm ga trải giường sọc màu, cặp mắt vô hồn vẫn mở to, khuôn mặt đờ đẫn, gân nổi lên và tái đi, người đàn bà già nua đó là sinh thể thiếu sức sống nhất có thể mường tượng ra được. Có vài dấu vết đặc biệt dị thường trên trán bà ta - những vết máu dính vào mái tóc rối hoa râm.
Lane quan sát chúng, lộ vẻ bối rối, rồi chuyển sự chú ý sang chiếc giường còn lại. Nó trống không, có một chồng ga giường sạch để ở trên. “Giường của Louisa Campion?”
Thumm gật đầu. “Giường của cô gái mù câm điếc đó, nhưng cô ta đã được chuyển ra chỗ khác. Cô ta được tìm thấy trên sàn sáng sớm nay, bất tỉnh.”
Đôi mày bạc óng của Lane nhướng lên. “Bị tấn công ư?”
“Tôi không nghĩ thế. Tôi sẽ kể đầu đuôi sau. Cô ta đang ở phòng bên - phòng của bà y tá Smith. Cô ta đang được chăm sóc.”
“Nhưng cô Campion ổn cả đúng không?”
Thumm nhếch mép cười chua chát. “Hay thật nhỉ? Ngài đoán là thảo nào cũng có kẻ trong ngôi nhà ngày tìm đến cô ta, dựa trên sự việc mấy lần trước. Nhưng cô ta lại ổn, còn bà mẹ lại thành nạn nhân.”
Có tiếng bước chân ở hành lang phía sau, và cả hai người đều quay phắt lại. Khuôn mặt Lane sáng bừng lên.
“Ngài Bruno! Thật hân hạnh.”
Họ bắt tay nồng ấm. Walter Bruno, công tố viên của hạt New York, là một người tráng kiện với khuôn mặt khổ hạnh, cao tầm thước và đeo kính không vành. Ngài ấy có vẻ mỏi mệt. “Rất vui được gặp, ngài Lane. Dường như chúng ta chỉ được gặp nhau khi có ai đó xuống địa ngục.”
“Lỗi tại ngài hết. Như thanh tra Thumm, cả mùa đông mà ngài chẳng thăm hỏi gì tôi. Ngài tới đây lâu chưa?”
“Nửa tiếng rồi. Ngài nghĩ sao về vụ này?”
“Chưa có gì cả.” Cặp mắt người nghệ sĩ tiếp tục lang thang trong căn phòng chết. “Chính xác thì chuyện gì đã xảy ra?”
Vị công tố viên dựa người vào lò sưởi. “Tôi vừa thấy cô Campion. Thật đáng thương. Cái xác được tìm thấy lúc sáu giờ sáng bởi bà Smith - bà ta ở ngay phòng bên, trông được cả ra khu vườn đằng sau và lối đi hướng đông…”
“Vị trí đắc địa, phải không, ngài Bruno?” Lane khẽ nói.
Bruno nhún vai. “Có thể sẽ quan trọng. Dù sao thì Louisa cũng là người dậy khá sớm, và bà Smith thường dậy lúc sáu giờ để đến đây và xem xem Louisa có cần gì không. Bà ta phát hiện ra bà Hatter chính xác như lúc bây giờ ngài thấy, trên giường, nhưng Louisa thì nằm trên sàn, đại thể là giữa chỗ giường và lò sưởi, đầu hướng về phía cái lò và đôi chân nằm giữa chỗ trống của hai giường. Đây, để tôi chỉ cho ngài.” Ngài ấy định bước vào phòng, nhưng Lane đã đưa tay ra ngăn lại.
“Tôi nghĩ tôi hình dung được,” ông nói. “Tôi còn nghĩ là, chúng ta càng hạn chế bước chân lên sàn càng tốt. Mời tiếp tục.”
Bruno nhìn ông vẻ hiếu kỳ. “Ô, Ý ngài là những vết chân! Bà Smith đã ngay lập tức nhận ra bà chủ đã chết, nên nghĩ là Louisa cũng chết theo rồi. Thế là bà ta la lên, phụ nữ ấy mà, và đánh thức Barbara cùng Conrad Hatter. Họ chạy xộc vào, biết ngay tình hình, và chưa chạm vào thứ gì hết…”
“Ngài chắc chắn vậy chứ?”
“Vâng, họ đều khai như thế, nên chúng tôi phải tin họ thôi. Không chạm vào thứ gì nhưng họ vẫn biết bà mẹ đã chết. Còn cô ta vẫn nằm trơ đó, Louisa ấy, tuy nhiên họ đã nhận ra cô ta chỉ bị bất tỉnh thôi, liền đem cô ta qua phòng bà Smith. Conrad gọi điện cho Merriam, bác sĩ của gia đình, và cảnh sát, chẳng có ai nữa được phép vào đây.”
“Merriam tuyên bố bà Hatter đã chết, rồi họ vào phòng bà y tá,” Thumm tiếp lời, “để chăm sóc con người câm điếc ấy. Ông ta vẫn ở đó. Chúng tôi vẫn chưa thể trò chuyện với cô ta được.”
Lane gật đầu trầm tư. “Vậy chính xác thì cô Campion được tìm thấy trong tình trạng thế nào? Có thể kể chi tiết hơn nữa được không, ngài Bruno?”
“Lúc đó cô ta đang nằm sõng sượt, mặt úp xuống. Bác sĩ bảo cô ta bị ngất. Có vết va chạm trên trán, nên giả thuyết của bác sĩ Merriam là khi ngất trán cô ta đã bị đập thẳng xuống sàn. Cô ta giờ đã tỉnh, nhưng vẫn còn hơi choáng váng, vấn đề là liệu cô ta có biết chuyện xảy ra với bà mẹ không, vì Merriam chưa cho phép chúng ta thông báo gì hết.”
“Cái xác đã được khám nghiệm chưa?”
“Ngoại trừ lần xem xét qua loa của bác sĩ Merriam, tôi hiểu là,” Bruno nói và Thumm gật đầu, “vẫn chưa. Chúng tôi đang đợi bên pháp y. Schilling vốn có tiếng là lề mề.”
Lane thở dài. Rồi ông quyết định xem xét căn phòng lần nữa, lần này là nhìn xuống. Cặp mắt ông dán vào tấm thảm xanh xù xì phủ toàn bộ sàn phòng. Từ vị trí đứng ông thấy có nhiều vết bột lốm đốm màu trắng của gót và mũi giày, nằm cách xa nhau. Có vẻ chúng xuất phát từ một chỗ nằm giữa hai chiếc giường, dù đứng ở đây thì Lane không nhìn thấy. Những dấu mũi giày hướng về phía cửa chính, và được in dấu rõ nét trên nền thuần một màu xanh của tấm thảm, ở ngay đằng sau chân giường người chết, khuất khỏi tầm nhìn từ phía cửa.
Lane bước vào phòng, đi quanh chỗ có dấu chân. Ông dừng lại ngay trước khu vực giữa hai giường để quan sát thật kĩ. Những vết giày, giờ ông đã thấy, bắt nguồn từ một đám bột trắng bị vung vãi ra giữa hai chiếc giường. Nguồn gốc của chỗ bột đó ngay lập tức bị phát hiện. Có một chiếc hộp các tông lớn hình tròn chứa bột phấn trắng, giờ đã trống không, nằm cạnh chân giường của Louisa Campion - bột phấn rôm, theo như nhãn ghi trên hộp. Toàn bộ phần thảm nằm giữa hai chiếc giường bị phủ bởi thứ bột này.
Cẩn thận tránh chạm vào dấu chân và bột phấn, Lane len vào giữa hai chiếc giường để tìm vị trí quan sát tốt hơn cái bàn đầu giường và sàn nhà. Có thể thấy ngay là hộp phấn từng được đặt ngay rìa bàn đầu giường, bởi có những vết trắng và màng bụi trên mặt bàn, và một vòng tròn của bột phấn cho biết vị trí chiếc hộp trước khi nó rơi xuống sàn. Cách vòng tròn đó vài phân là một vết lõm còn mới toanh trên phần mặt bàn gỗ, như thể có một vật sắc đã chạm mạnh vào đó.
“Theo tôi thì,” Lane nhận xét, “chiếc hộp đã không được đậy kín, và phần nắp bị rơi ra khi hộp bị đổ.” Ông cúi xuống chỗ mặt sàn dưới chân bàn và nhặt nắp hộp lên. “Các ngài thấy cả chứ?” Thumm và Bruno khẽ gật đầu. Trên phần đầu gần phía rãnh xoắn có vài vệt mảnh song song. Những vệt màu đỏ. Lane tò mò quan sát chúng.
“Là máu,” viên thanh tra thốt lên.
Nơi xuất hiện những vệt máu là phần phía trên nắp đã bị biến dạng, như thể thứ để lại những vệt máu kia đã bị tác động mạnh rồi bị va vào rìa của nắp hộp. Lane gật đầu đồng tình. “Không nghi ngờ gì nữa, thưa các ngài,” ông nói. “Hiển nhiên là chiếc hộp đã bay khỏi bàn sau một cú va chạm mạnh, mà hãy còn lưu lại vết tích trên mặt bàn và cái nắp, rồi rơi xuống chỗ thảm gần chân giường của cô Campion, khiến cho chỗ bột vung vãi ra sau mất nắp.” Ông đặt cái nắp hộp về vị trí cũ, mắt không ngừng quan sát. Có quá nhiều thứ để nhìn nhận.
Ông chọn việc xem xét chỗ dấu chân trước. Ở chỗ mà bột rơi dày nhất, có một đống vết cách nhau chừng mười phân, theo hướng bàn chân thì dẫn từ đầu giường người chết đi song song với thành giường về phía bức tường lò sưởi. Ở ngay cạnh rìa khu vực bột rơi vãi là hai vết mũi giày rõ nét in đậm bột phấn, từ vị trí quan sát này thì chúng xoay dần về phía phía chân giường và hướng về phía cửa, các vết ở phần gót và mũi giày sau đó hiện lên rõ ràng, còn độ rộng của bước chân, tính từ khoảng cách giữa dấu chân, có thể thấy là được kéo dài ra đáng kể. “Về cơ bản chứng tỏ rằng,” Lane lầm bầm, “kẻ để lại dấu chân kia đã bắt đầu chạy lúc đi vòng quanh giường. Vết bước chạy chỉ xuất hiện trên phần thảm không rắc bột - do phần đế giày của kẻ bỏ chạy bị dính bột. Khá mờ nhạt, thanh tra à,” Lane vừa nhận xét vừa nhìn lên, “tôi dám bảo rằng các ngài đã gặp may đấy. Đó chính là dấu chân của hung thủ.”
”Có thể chúng ta ăn may, và cũng có thể là không,” Thumm lầm bầm. “Sao mà tôi chẳng thích những dấu vết này nhé. Thật quá dễ dàng! Dù sao thì chúng ta cũng có thể đo được kích thước từ những dấu chân rõ ràng, cỡ giày 40 đến 42 mũi nhọn, đế mòn cả đôi. Người của tôi sẽ lục tung cả ngôi nhà để tìm ra một đôi giày như thế.”
“Rốt cục thì sự việc có vẻ khá dễ dàng,” Lane bình luận. Ông quay lưng về phía phần khoảng không giữa chân giường. “Tôi hiểu là cô Campion được tìm thấy khi đang nằm cạnh chân giường mình, ở rìa chỗ bột rơi vãi, gần như đúng chỗ mà dấu chân hung thủ chuyển hướng?”
“Đúng vậy. Cô ta cũng để lại vài dấu vết trên chỗ bột nữa, ngài sẽ nhận ra.”
Lane gật đầu, trên chỗ bột dẫn đến vị trí mà Louisa Campion đã ngất đi là những vết chân trần của phụ nữ. Những dấu vết này ngang theo thành giường của cô ta, nơi cái nắp rơi xuống, rồi men theo thành giường tới chỗ chân giường.
“Không nghi ngờ gì nữa, tôi đoán đúng không nhỉ?”
“Chắc chắn trăm phần trăm,” Bruno đáp. “Có thể khẳng định chúng là vết chân của cô ta. Quá dễ để hình dung ra sự việc lúc đó. Dễ thấy cô ta đã bò ra khỏi giường và men theo thành giường đến chỗ chân giường. Thế rồi có chuyện xảy ra khiến cô ta bất tỉnh.”
Lông mày của Drury Lane nhíu lại, có gì đó khiến ông băn khoăn. Ông cẩn trọng bước tới đầu giường bà Hatter và nghiêng mình để nhìn rõ người chết. Những dấu vết dị thường trên trán bà ta mà ông nhận ra trước đó khiến ông chú tâm một hồi lâu. Chúng gồm những vết thẳng mảnh và sâu, dài ngắn khác nhau, song song và hơi lệch sang một bên - về phía cái bàn đầu giường. Chúng không kéo dài hết phần trán lộ ra, chúng bắt đầu từ chỗ giữa lông mày và chân tóc, kéo về phía phần tóc xám cứng. Máu rỉ ra từ chỗ những vết cắt lạ lùng. Cặp mắt Lane như thể đang mải tìm sự xác minh nào đó trên tấm thảm bên dưới cái bàn, và ông gật đầu. Và đây, nằm trên sàn nhà bên dưới cái bàn, là một cây đàn mandolin cũ méo mó với mặt có dây hướng lên.
Ông cúi xuống để quan sát gần hơn, và quay sang hai người đồng sự. Công tố viên Bruno đang mỉm cười chua chát. “Ông đã tìm ra nó,” ngài nói. “Hung khí.”
“Vâng,” Lane hạ giọng. “Chính là nó đây. Các ngài có thể thấy vết máu trên phần dưới của đám dây thép.” Một dây đàn đã đứt và tất cả đều gỉ sét, như thể đã lâu rồi đàn không được chơi, nhưng thật dễ nhận ra một sắc máu đỏ tươi trên đó. Lane cầm cây đàn lên quan sát, nhận ra nó nằm trên một lớp bột phấn: có những dấu ấn rõ ràng trên lớp bột chỗ cây đàn đã nằm. Khi xem xét ông còn nhận ra có một chỗ trầy mới ở rìa phần bên dưới nhạc cụ, dấu vết đáng nghi như chỗ lõm trên mặt bàn.
“Thật là một thứ vũ khí giết người kỳ lạ, phải không ngài Lane?” Thanh tra Thumm thốt lên. “Một cây đàn mandolin, trời đất!” Ngài lắc đầu như thể tự hỏi tội ác còn sử dụng phương thức gì nữa đây. “Lần tới chúng sẽ dùng hoa loa kèn mất.”
“Kỳ lạ, rất lạ,” Lane nhận xét khô khốc. “Vậy là quý phu nhân Hatter toàn năng đã hứng trọn mặt cây đàn mandolin đập vào trán… Dấu mốc đáng nhớ của vụ việc này, thưa các ngài, không phải là sự lựa chọn vũ khí mà chính là sự thật rằng như thế không thể đủ để gây nên cái chết, tôi xin cam đoan vậy sau khi đã đánh giá độ sâu của vết thương. Vâng, quả thực là lạ… Lúc này chúng ta cần nhờ cậy bác sĩ Schilling giải đáp.”
Ông đặt lại cây đàn về vị trí chính xác như khi tìm thấy nó, và quay sự chú ý sang chiếc bàn lần nữa. Ông chẳng phát hiện ra gì liên quan đến án mạng: một bát trái cây (ở chỗ gần giường của cô con gái), một chiếc đồng hồ, những dấu vết của hộp phấn, hai thanh giá chặn một cuốn Kinh thánh cũ, và một lọ hoa đã héo. Trong cái bát có một quả táo, một quả chuối, một chùm nho non, một quả cam, và ba quả lê.
Bác sĩ Leo Schilling, pháp y trưởng của hạt New York, hiếm khi là một người dễ xúc động. Hằng hà sa số xác chết đã để lại dấu ấn trong sự nghiệp chính thức của ông - xác người tự tử, xác người bị sát hại, xác chết vô danh, tiêu bản thí nghiệm, xác người nghiện, và còn biết bao những trường hợp chết bất thường khác nữa - đã khiến ông trở nên chai lỳ một cách hết sức tự nhiên. “Buồn nôn” không có trong từ điển của ông và thần kinh ông cứng chẳng kém những ngón tay cầm dao mổ. Cộng sự của ông thường băn khoăn liệu bên dưới lớp vỏ lạnh lùng vì công việc kia, có một trái tim con người đang đập không, tuy nhiên vẫn chưa ai giải đáp được.
Ông ta đã tới chốn yên nghỉ cuối cùng của phu nhân Emily Hatter, khẽ gật đầu chào Bruno, làu bàu với Thumm, nói gì đó không rõ với Drury Lane, rồi liếc nhanh bao quát căn phòng, lưu ý đến những dấu chân trắng trên thảm, và quăng chiếc túi lên giường - Drury Lane rùng mình khi nó hạ cánh đánh uỵch lên đôi chân chết cứng của bà ta.
“Tôi bước qua những dấu chân nhé?” Schilling hỏi tỉnh bơ.
“Vâng,” viên thanh tra trả lời, ”mọi thứ đã được chụp lại. Mà bác sĩ này, lần sau ông nên cố gắng đến đúng giờ hơn chút nhé. Tốt nhất là hai tiếng rưỡi sau khi tôi…”
“ Es ist eine alte Geschichte, doch bleibt sie immer neu ,” * vị bác sĩ béo bụng cười xòa. ”Chuyện cũ mà lúc nào cũng như mới… Phải kiên nhẫn chờ chứ, thanh tra. Những người chết này còn biết kiên nhẫn mà.” Ông ta kéo phần mũ vải xuống - cái trán hói láng bóng khiến ông khá nhạy cảm - rồi đi quanh giường, cứ dẫm thẳng lên những dấu chân rồi bắt tay vào việc.
Nụ cười nhạt đi trên khuôn mặt béo tròn, và cặp mắt ông ta trở nên chăm chú đằng sau cặp kính gọng vàng cũ. Lane dõi theo cử động mấp máy của cặp môi trề khi thấy những vết xước thẳng trên đỉnh đầu người chết, và gật đầu đồng tình khi thấy ánh mắt bác sĩ chuyển sang cây đàn mandolin. Rồi ông ta cẩn trọng giữ phần đầu người chết giữa đôi tay nhỏ cơ bắp và bắt đầu bới mái tóc, nhanh chóng kiểm tra phần sọ. Có gì đó sai sai ở đây, sai rõ luôn, nhưng mặt ông ta vẫn trơ như bê tông và, bỏ qua mái tóc rối bù, ông ta bắt đầu khám nghiệm tử thi. Họ quan sát ông trong im lặng. Viên bác sĩ pháp Y cừ khôi đang ngày càng trở nên bối rối, đến độ ai cũng thấy, ông ta lẩm bẩm: “ Der Teufel !” * vài lần, đầu lắc lắc, đôi môi hớp hớp, ậm ừ một khúc tửu ca ngắn… Đột nhiên ông ta quay sang phía họ. ”Bác sĩ riêng của bà ta đâu?”
Thanh tra Thumm rời khỏi phòng và sau hai phút quay lại cùng bác sĩ Merriam. Hai vị bác sĩ chào nhau lịch sự, như những đấu thủ. Bác sĩ Merriam trịnh trọng đi quanh giường, và cùng nhau họ gập người chết lại, vén cái váy ngủ cao lên, nhỏ tiếng trao đổi khi cùng khám nghiệm xác chết. Trong khi đó bà y tá mập mạp Smith của Louisa Campion lại hối hả lao vào phòng, vớ lấy bát trái cây trên bàn, và lại vội vàng lao ra. Thumm, Bruno, và Lane chỉ biết im lặng dõi theo. Cuối cùng hai vị bác sĩ cũng đứng dậy, và khuôn mặt già nua thanh thoát của Merriam đã tiết lộ một nét lo lắng đầy xúc cảm. Vị bác sĩ pháp y thì lại giật mạnh cái mũ vải xuống thấp hơn nữa trên cái trán lấm tấm mồ hôi. “Kết luận thế nào, bác sĩ?” Bruno hỏi.
Schilling nhăn mặt. “Bà ấy không chết do chấn động từ cú đánh.” Drury Lane khẽ gật đầu hài lòng. “Bác sĩ Merriam và tôi đồng ý rằng bản thân cú đánh chỉ đủ để khiến bà ấy choáng váng.”
“Thì sao,” Thumm lầm bầm, “vậy cái quái gì đã giết chết bà ta?”
“Tuy nhiên, thanh tra à, ngài luôn nói trước,” bác sĩ Schilling gắt gỏng. “Ngài đang lo gì thế? Cây đàn mandolin khiến bà ta chết, dù không trực tiếp. Và bằng cách nào? Đó là khiến bà ta bị sốc nặng. Tại sao? Vì bà ta đã sáu mươi ba tuổi - và bác sĩ Merriam bảo bà ta bị bệnh tim. Phải không, thưa bác sĩ?”
“Ra vậy,” viên thanh tra lộ vẻ nhẹ nhõm. “Tôi hiểu rồi. Có người đánh vào đầu bà ta, chấn động từ cú đánh khiến bà ta lên cơn đau tim, và chết. Thế thì, thực tế là bà ta chết trong khi ngủ!”
“Tôi không nghĩ vậy,” Drury Lane lên tiếng. “Ngược lại, thanh tra à, bà ta không hề ngủ mà thực ra lại rất tỉnh táo.” Hai vị bác sĩ cùng gật đầu đồng tình. “Dựa trên ba căn cứ. Trước hết: xin hãy để ý là cặp mắt bà ta mở to, nhìn trừng trừng, vẻ khiếp hãi. Có ý thức, thanh tra à… Thứ hai: các ngài sẽ nhận thấy có một nét biểu cảm thật lạ trên khuôn mặt bà ta. Nói thế là chưa đủ, Emily Hatter chết với khuôn mặt vặn vẹo vì cơn đau khủng khiếp và sự kinh ngạc tột cùng. Ngay cả đôi tay cũng hơi nắm lại, như muốn cào… Căn cứ thứ ba thì có hơi khó thấy.” Lane tới bên giường và chỉ vào những vết máu do dây đàn gây ra trên trán người chết. “Vị trí của chúng chứng tỏ rõ rằng bà Hatter đã ngồi dậy trên giường khi bị đánh!”
“Làm sao ngài luận ra được?” Thumm thắc mắc.
“Tại sao, rất đơn giản. Nếu bà ta đang ngủ khi bị đánh - tức là đang nằm, ngoài ra từ tư thế tổng thể có thể thấy bà ta nằm ngửa người thẳng lưng - thì dấu vết do những sợi dây đàn sắt sẽ không chỉ xuất hiện ở phần đỉnh trán mà còn cả ở phần dưới, và trên cả mũi, thậm chí còn trên cả môi nữa. Còn từ thực tế, bà ta hẳn đã ngồi dậy hay ở tư thế nửa ngồi nửa nằm. Dựa trên căn cứ đó, có thể kết luận ngay là bà ta đang thức.”
“Rất thông minh, thưa ngài,” bác sĩ Merriam nói, người đứng cứng đơ, và những ngón tay trắng dài thì đan vào nhau vẻ bồn chồn.
“Rất có cơ sở. Bác sĩ Schilling, theo ông ước đoán thì bà Hatter chết vào mấy giờ?”
Bác sĩ Schilling lôi cái tăm ngà từ túi áo gilê và bắt đầu xỉa răng. “Chết sáu giờ trước. Tức là, bà ta chết vào tầm bốn giờ sáng.”
Lane gật đầu. “Có một chi tiết quan trọng đấy, bác sĩ, đó là biết chính xác nơi kẻ sát nhân đã đứng khi hắn đánh bà Hatter. Ông có thể xác định rõ vị trí đó không?”
Bác sĩ Schilling trầm ngâm liếc nhìn cái giường. “Tôi tin là có thể. Tên sát nhân đứng giữa hai cái giường, không xa cái giường người chết lắm. Từ vị trí của thi thể và góc chéo của những vệt máu trên trán. Ông nghĩ sao bác sĩ Merriam?”
Viên bác sĩ già bắt đầu. “À, thì tôi khá đồng tình,” ông ta vội đáp lời.
Thanh tra Thumm cau có mở cặp hàm nặng nề. “Chi tiết cây đàn mandolin chết tiệt… Làm tôi rối trí, chẳng biết sao nữa. vấn đề là, đau tim hay không đau tim, thì có khả năng nào là cú đánh đó đã giết chết bà ta không? Ý tôi là, sau rốt, nếu một kẻ muốn giết người, ngay cả khi hắn chọn một thứ vũ khí buồn cười thì hắn sẽ chọn thứ có thể đánh lừa người ta.”
“Vâng, không thể loại trừ các khả năng, Thumm à,” Schilling cất tiếng. “Một cú đánh với lực mạnh từ một thứ vũ khí tương đối nhẹ như đàn mandolin có thể giết chết một phụ nữ mang bệnh và đã già như bà Hatter. Nhưng cú đánh này thì lại khá nhẹ.”
“Vậy là không có dấu vết nào khác trên thân thể của hành vi bạo lực?” Lane hỏi.
“Không.”
“Thế còn chất độc?” Bruno thắc mắc. “Có dấu vết nào không?”
“Không dấu vết gì,” bác sĩ Schilling cẩn trọng đáp lời. “Ngoài ra - vâng, tôi sẽ tiến hành mổ tử thi. Ngay tức thì.”
“Dám cá là ông sẽ làm thế,” Thumm trả miếng. “Chỉ để chắc rằng không có chút chất độc nào hết. Tôi không nắm bắt nổi vụ án này nữa rồi. Đầu tiên có người cố đầu độc cô con gái câm điếc, và giờ có người đánh chết bà mẹ già quỷ quái. Tôi sẽ thử ngó xem quanh đây có dấu vết chất độc nào không.”
Cặp mắt sắc bén của Bruno sáng lên. “Đây là một vụ án mạng, dĩ nhiên, ngay cả khi cú đánh đó không gây chết người trực tiếp - mà chỉ đơn thuần là dư chấn sau đó. Có một điều chắc chắn: ý đồ giết người.”
“Vậy sao lại đánh nhẹ như thế hả ngài Bruno?” Lane hỏi cụt lủn. Vị công tố viên nhún vai. “Và tại sao,” người nghệ sĩ già tiếp tục, “lại chọn thứ vũ khí quá ư là ngớ ngẩn như thế? - một cây đàn mandolin! Nếu mục đích là giết bà Hatter bằng một cú đánh vào đầu, tại sao hung thủ lại chọn cây đàn khi có hàng tá thứ vũ khí nặng nề hơn trong chính căn phòng này?”
“Trời ạ, tôi chẳng nghĩ được đến thế,” Thumm lẩm bẩm, khi Lane chỉ vào cái giá treo bộ đồ đun lò bằng sắt bên lò sưởi, và chỉ vào hai thanh chặn sách nặng nề trên cái bàn đầu giường.
Lane quay nhanh một vòng quanh phòng, đôi tay đan hờ hững sau lưng. Bác sĩ Schilling đang bắt đầu tỏ ra thiếu kiên nhẫn, bác sĩ Merriam vẫn đứng yên, như một binh sĩ đứng gác, Bruno và Thumm thì càng lúc càng thêm bối rối. “Và nhân đây,” cuối cùng Lane cũng mở lời, “có phải cây đàn được đặt sẵn trong phòng không?”
“Không,” viên thanh tra trả lời. “Được lấy từ một tủ kính trong thư viện dưới lầu. Bà Hatter bảo quản nó như thế sau khi York Hatter tự tử - như một sự tưởng nhớ. Nó thuộc về ông chồng… Có thể nghĩ đến việc…”
Drury Lane đưa tay ra dấu hãy im lặng, cặp mắt ông ta nheo lại. Bác sĩ Schilling đang kéo tấm ga giường che người chết lại. Và, khi kéo căng tấm ga ra, một vật nhỏ, óng ánh như tia nắng chiếu qua cửa sổ, rơi từ một chỗ nếp gấp xuống lớp bột trên thảm. Lane tiến tới và nhặt nó lên. Đó là một ống tiêm trống rỗng.
Những người còn lại bu vào quanh ông, vẻ hoạt bát hẳn lên khi thấy phát hiện mới đáng chú ý. Cẩn thận cầm phần pitton của ống tiêm, Lane ngửi ngửi cái kim đã dây bẩn, rồi đưa nó lên chỗ sáng. Bác sĩ Schilling tóm lấy cái ống tiêm từ tay Lane và đi ra chỗ cửa sổ cùng bác sĩ Merriam.
“Ống rỗng không,” vị bác sĩ pháp y lẩm bẩm. “Số 6 trên ống có nghĩa gì? Phần cặn còn lại có thể… có thể…”
“Là gì?” Lane thúc giục.
Bác sĩ SchiIIing nhún vai. “Tôi sẽ phải phân tích.”
“Không có dấu vết tiêm trên người nạn nhân sao?” Lane hỏi tiếp.
“Không.”
Rồi đột nhiên, như thể bị bắn, Lane đờ người ra, cặp mắt xanh xám lấp lánh… Còn Thumm kinh ngạc há hốc mồm. Khuôn mặt Drury Lane chuyển sang vẻ kích động cực độ, ông lao về phía cửa, la lên: “Bà y tá - căn phòng…” Những người còn lại lao theo.
Phòng của bà Smith nằm ngay cạnh phòng người chết. Họ gặp một ánh mắt khá điềm tĩnh khi lao vào. Trên chiếc giường, với cặp mắt mù vẫn mở, là Louisa Campion đang nằm nghỉ ngơi. Và ngồi trên chiếc ghế bên cạnh, đang khẽ bóp trán cho cô ta, là bà Y tá mập mạp. Tay Louisa đang vặt nho như một cái máy và trệu trạo nhai cho có. Trên cái bàn gần giường là cái bát trái cây mà bà Smith đã lấy từ phòng bên kia trước đó ít lâu.
Drury Lane phản ứng như chớp. Ông băng nhanh tới và giật lấy chùm nho khỏi tay Louisa - một hành động thô thiển khiến bà Smith nhảy dựng người và kêu lên vẻ hốt hoảng, còn cô gái mù câm điếc thì giật nảy người, đôi môi nhăn nhó, một biểu hiện của nỗi sợ bị dồn nén trên khuôn mặt vẫn như vô hồn. Cô ta bắt đầu khóc thút thít như một đứa trẻ, bàn tay dò dẫm bà y tá, và nắm chặt lấy. Làn da còn đang run rẩy vì sợ hãi, đôi tay cô ta ngay lập tức nổi hết gai ốc. “Cô ta ăn nhiều chưa?” Lane hỏi gấp.
Bà y tá tái mặt. “Ông làm tôi giật cả mình! Một… một nhúm.”
“Bác sĩ Merriam! Bác sĩ Schilling! Cô ấy ổn chứ?” Lane giật giọng.
Bác sĩ Merriam hối hả lại gần, khoảnh khắc Louisa cảm nhận được tay ông ta chạm lên trán, cô ta liền ngừng thút thít. Ông ta chậm rãi nói: “Dường như vẫn hoàn toàn bình thường.”
Drury Lane lấy khăn tay thấm mồ hôi trán, những ngón tay ông vẫn còn đang run lên. “Tôi sợ rằng chúng ta đã tới quá trễ,” ông khẽ thốt lên.
Thanh tra Thumm nắm chặt tay lại và tiến tới, nhìn xuống bát trái cây. “Chất độc đúng không?” Họ cùng nhìn về phía cái bát. Trước mặt họ là một quả táo, một quả chuối, một quả cam và ba quả lê đang nằm vẻ vô hại.
“Đúng thế,” Lane đáp lời. Giọng trầm xuống. “Tôi dám chắc luôn. Và sự thật sẽ chứng tỏ, thưa các ngài, cục diện của toàn bộ vụ này đã… thay đổi.”
“Sao lại…” Bruno tỏ vẻ bối rối. Lane phẩy tay lơ đãng, như thể ông không muốn giải thích gì thêm tại thời điểm này, ông chỉ chú tâm vào Louisa Campion. Cô ta đang yên vị dưới đôi tay vỗ về của bác sĩ Merriam và nằm đó yếu ớt. Bốn chục năm sống trong cảnh tật nguyền đã để lại nét dấu ấn ít ỏi trên khuôn mặt bình thản của cô ta. Theo cách nào đó cô ta vẫn khá đẹp: mũi thanh thoát và cao, đôi môi cong thanh tú.
“Tội nghiệp cô ấy,” Lane lẩm bẩm. “Tôi tự hỏi cô ấy đang nghĩ gì…” Cặp mắt ông sắc lên khi quay sang bà y tá. “Vừa lúc trước bà lấy cái bát trái cây từ cái bàn phòng bên,” ông nói. “Thường thì chúng vẫn được để trong phòng à?”
“Vâng, thưa ngài,” bà Smith trả lời vẻ lo lắng. “Louisa rất thích ăn trái cây. Lúc nào cũng có một bát trái cây để sẵn ở đó.”
“Vậy cô Campion có đặc biệt thích loại trái cây nào không?
“À, không. Cô ấy thích ăn đủ loại.”
“Tôi rõ rồi.” Dường như Lane đang bối rối bởi điều gì đó, ông muốn phát biểu, rồi lại đổi ý, thôi mở miệng, và chìm vào trầm tư suy tính. “Thế còn bà Hatter?” cuối cùng ông cũng hỏi. “Bà ta có bao giờ ăn trái cây trong bát không?”
“Rất hiếm khi.”
“Không thường xuyên ư?”
“Không, thưa ngài.”
“Nhưng bà ta cũng thích ăn đủ loại, đúng không bà Smith?” Ông hỏi một cách nhẹ nhàng, nhưng cả Bruno và Thumm vẫn thấy vẻ quan trọng trong giọng nói.
Bà Smith cũng nhận ra, bà ta đáp chậm rãi: “Chà, câu hỏi lạ đây. Không, thưa ngài, bà Hatter không thích một loại trái cây, bà ấy ghét cay ghét đắng lê - không ăn chúng suốt nhiều năm.”
“À há,” Drury Lane reo lên. “Tuyệt vời. Có ai trong đám gia nhân biết điều này không, bà Smith?”
“Có chứ. Đó là chuyện đùa gia đình nhiều năm qua mà.”
Drury Lane có vẻ hài lòng. Ông gật đầu vài lần, nhìn bà Smith đầy thân thiện, và rồi, tới chỗ cái bàn gần giường bà y tá, xem xét bát trái cây mang từ phòng Louisa Campion sang.
“Bà ta ghét lê,” ông lẩm bẩm. “Nhìn này, thanh tra. Tôi dám nói quan sát kĩ mấy trái lê này sẽ phát hiện ra.”
Hai trong ba quả lê trong bát không có gì khác thường - chín vàng, giòn chắc. Quả thứ ba… Lane hiếu kỳ xoay nó trên những ngón tay. Nó đã hỏng, vỏ có đốm chuyển nâu, và đốm nào cũng mềm và xốp. Lane khẽ thốt lên và đưa quả lê đó lên sát mắt phải. “Đúng như tôi nghĩ,” ông lẩm bẩm. Ông quay sang bác sĩ Schilling với một điệu bộ hân hoan. “Tìm ra rồi, bác sĩ,” ông nói, đưa cho Schilling cả ba quả lê. “Ông sẽ tìm thấy vết tiêm trên vỏ quả lê bị hỏng, trừ phi tôi hoàn toàn nhầm lẫn.”
“Chất độc!” cả Thuram và Bruno đều la lên.
“Chưa thể nói trước đâu, nhưng tôi nghĩ thế. Vâng… Để cho chắc, bác sĩ, ông hãy xem xét cả ba quả. Báo cho tôi, khi ông xác định được loại của chất độc, có thể quả lê bị hỏng do chất độc, cũng có thể hỏng trước khi chất độc được tiêm vào.”
“Đã rõ,” bác sĩ Schilling đáp, rồi ông đem ba quả lê ra khỏi phòng như mang báu vật.
Thanh tra Thumm dài giọng: “Có gì đó uẩn khúc… Ý tôi là, nếu có chất độc trong lê, và bà mẹ không thích ăn lê…”
“Thì vụ giết bà Hatter hẳn chỉ là tai nạn, hoàn toàn không được dự tính, và quả lê có độc là dành cho cô con gái tội nghiệp!” Bruno kết luận.
“Chuẩn rồi!” viên thanh tra kêu lên. “Chuẩn xác, Bruno! Hung thủ lẻn vào phòng, tiêm chất độc vào lê, rồi bất chợt bà mẹ thức dậy - thấy không? Thậm chí có thể nhận ra kẻ hạ độc nữa - nhớ nét mặt bà ta không. Thì sao? Rầm! Bà ta bị đánh vào đầu bằng cây đàn mandolin, và chết sau đó.”
“Đúng, và giờ chúng ta đã có chút tiến triển. Quả lê độc chắc chắn là tác phẩm của chính kẻ đã hạ độc vào món cocktail hai tháng trước đây.”
Drury Lane chẳng nói gì. Có một nét lúng túng mờ nhạt giữa đôi mày ông. Bà Smith dường như cũng bối rối. Về phần Louisa Campion, mặc kệ thực tế là cảnh sát vừa kết luận rằng đây là lần thứ hai cô bị mưu sát - cô vẫn bám lấy bàn tay bác sĩ Merriam bằng sự dai dẳng sinh ra từ bóng tối và nỗi tuyệt vọng.