CẢNH 3 Thư Viện - Chủ Nhật, Ngày 5 Tháng Sáu - 11:10 A.M
Đây là cảnh chuyển màn. Những con người đi vẩn vơ, có ai đó với thái độ lo lắng thông báo cho thanh tra Thumm về việc không có dấu tay được tìm thấy trên ống tiêm và cây đàn mandolin, còn bác sĩ Schilling thì cứ làm ầm lên khi giám sát việc di dời tử thi.
Trước sự hối hả của những nhân viên nhà xác, Drury Lane vẫn đứng lặng im trầm tư, gần như luôn nhìn vào khuôn mặt trống rỗng của Louisa Campion như thể đó là lời gợi ý cho đáp án. Ông nghe rõ công tố viên Bruno nhận xét rằng, không tìm thấy dấu vân tay nào chứng tỏ hung thủ có đeo găng.
Cuối cùng trật tự cũng được vãn hồi, bác sĩ Schilling rời đi cùng cái xác, và thanh tra Thumm đóng cánh cửa phòng bà Smith. Drury Lane chợt nói: “Cô Campion đã biết chuyện chưa?”
Bà Smith lắc đầu, còn bác sĩ Merriam bảo: “Tôi nghĩ tốt nhất nên đợi đến khi…”
“Khi sức khỏe của cô ấy không còn bị đe dọa?”
Bác sĩ Merriam mím cặp môi mỏng. “Đó sẽ là một cú sốc. Tim cô ấy không được tốt. Nhưng giờ phần lớn cơn kích động đã lắng xuống rồi, và trước sau gì cô ấy cũng phải biết…”
“Làm sao để giao tiếp với cô ấy?”
Bà Smith lặng lẽ đến bên giường, lục lọi dưới một cái ghế, rồi đứng thẳng lên tay cầm một thiết bị lạ lùng. Gồm một cái bảng phẳng có rãnh, hơi giống một cái bàn tính, và một chiếc hộp lớn. Bà ta bỏ nắp hộp ra, nó gồm những miếng kim loại nhỏ, như quân cờ domino, mỗi miếng có một đầu nhô ra có thể trượt vào rãnh trên tấm bảng. Mặt những miếng kim loại được tán những chấm lồi, khá lớn, sắp xếp theo một kiểu riêng và không miếng nào giống miếng nào. “Chữ nổi Braille?” Lane hỏi.
“Vâng,” bà Smith thở dài. “Mỗi miếng đại diện cho một chữ cái khác nhau của bảng chữ Braille. Bộ dụng cụ này được thiết kế đặc biệt cho Louisa… Vật bất ly thân của cô ấy.”
Để hỗ trợ cho những người không quen đọc thứ ngôn ngữ “viết” dành cho người mù, cạnh những chấm nổi còn có thêm cả chữ cái tiếng Anh màu trắng in phẳng trên bề mặt - tương ứng với từng chữ cái của bảng chữ Braille.
“Thật tài tình,” Lane trầm trồ. “Nếu bà không phiền, bà Smith…” Ông nhẹ nhành đẩy bà y tá sang một bên, vớ lấy bộ chữ, và nhìn xuống chỗ Louisa Campion.
Đó gọi là khoảnh khắc định mệnh, họ đều cảm thấy thế. Cái sinh thể dị thường, héo úa đó đã hé lộ điều gì? Rằng cô ta đã cảm nhận được không khí căng thẳng đang hiện diện khắp nơi. Những ngón tay trắng thon thả chỉ có một cử động duy nhất - cô ta đã rời tay khỏi bác sĩ Merriam trước đó - và Lane khẽ rùng mình khi nhận ra những ngón tay kia đang ve vẩy như râu của một con bọ, dao động có ý thức, khát khao sự khai sáng. Đầu cô ta quay từ bên nọ sang bên kia vẻ lo lắng, dồn dập, khiến cô càng giống một con côn trùng. Đồng tử cô mở to, nhưng mờ đục và đờ đẫn - một cặp mắt mù. Trong khoảnh khắc đó, khi mọi sự chú ý đổ dồn vào Louisa, người ta quên mất dáng điệu bên ngoài nhạt nhòa của cô - cô hơi phúng phính, cao chưa đến mét sáu, với mái tóc nâu mọc dày và nước da hồng hào. Những đường nét đặc biệt khiến họ ấn tượng - cặp mắt trơ trơ, nét mặt cứng đơ, trống rỗng, gần như vô hồn, các ngón tay run rẩy…
“Có vẻ cô ấy bị kích động,” Thumm lẩm bẩm. “Xem những ngón tay cô ta kìa. Tôi thấy sợ rồi đấy.”
Bà Smith lắc đầu. “Đó… đó không phải là do căng thẳng. Cô ấy muốn nói, đặt câu hỏi.”
“Nói ư!” vị công tố viên thốt lên.
“Dĩ nhiên rồi,” Lane lên tiếng. “Ngôn ngữ bằng tay của người câm điếc, Bruno à. Cô ta đang điên cuồng muốn nói gì vậy, bà Smith?”
Bà y tá mập đột nhiên ngồi sụp xuống ghế. “Tôi… tôi bắt đầu hiểu được rồi,” bà nói bằng giọng khàn khàn. “Cô ấy đang lặp đi lặp lại thế này: ‘Có chuyện gì vậy? Có chuyện gì vậy? Mẹ đâu? Sao mẹ không trả lời? Có chuyện gì vậy? Mẹ đâu?”’
Drury Lane thở dài đánh thượt rồi lặng im, rồi nắm lấy đôi bàn tay cô ta bằng đôi tay rắn chắc của mình. Chúng vùng vẫy điên cuồng, rồi mềm đi và lỗ mũi cô gái run lên, như thể cô ta đang cố ngửi mùi ông. Thật kỳ lạ. Sự đụng chạm của Lane hẳn đã trấn an cô ta, hay có lẽ chính do cái hơi phảng phất quen thuộc với mọi loài vật mà hầu hết con người không cảm nhận được, đã khiến cô ta dịu đi, trượt những ngón tay ra khỏi…
Có chuyện gì vậy. Mẹ đâu. Ông là ai.
Ngay lập tức chọn ra những miếng chữ cái từ chiếc hộp, Lane xếp chúng thành các từ, đặt tấm bảng vào lòng Louisa và đôi tay cô ta hăm hở vồ lấy chúng. Các ngón tay lướt qua những miếng kim loại. “Tôi là bạn,” thông điệp của Lane. “Tôi muốn giúp cô. Tôi có tin xấu cho cô. Cô phải vững tâm.”
Cô ta phát ra một tiếng gừ trong cổ họng, đáng thương, bị bóp méo, thanh tra Thumm co người lại và gần như quay đi. Bác sĩ Merriam như hóa đá đằng sau cô ta. Rồi Louisa Campion thở dài một tiếng và đôi tay cô ta lại bắt đầu hoa lên. Bà Smith lại mất công giải thích. Vâng. Vâng. Tôi vững tâm đây. Có chuyện gì.
Những ngón tay của Lane thò vào trong hộp, xếp lại các chữ cái thành từ mới… Một sự im lặng hữu hình trong phòng. “Cuộc sống của cô là một bản anh hùng ca về lòng can đảm. Hãy tiếp tục vững vàng. Đã có một thảm kịch. Mẹ cô bị sát hại đêm qua.”
Đôi tay Campion lóng ngóng giật ra khỏi cái bảng. Nó rơi khỏi lòng cô, những miếng kim loại nhỏ rơi khắp sàn. Cô ngất đi.
“Ra ngoài, tất cả ra ngoài!” bác sĩ Merriam hét lên khi mọi người lao đến với cặp mắt thương xót. “Bà Smith và tôi sẽ lo liệu.”
Họ dừng lại và theo dõi ông ta nâng thân thể mềm oặt của Louisa lên cái ghế bằng nỗ lực từ những cơ bắp già nua. Dù không đành lòng họ vẫn kéo nhau ra khỏi phòng. “Tôi giao cô Campion cho ông đấy,” Thumm thì thầm với vị bác sĩ. “Đừng rời cô ấy dù chỉ một giây.”
“Tôi sẽ không chịu trách nhiệm gì nếu các ngài chưa chịu ra ngoài!”
Họ nghe theo, Lane là người ra cuối cùng. Ông khẽ đóng cánh cửa và đứng trầm ngâm một lúc lâu. Rồi ông mệt mỏi đặt ngón tay lên thái dương trong một điệu bộ lạ kỳ, sau đó lắc đầu, thả tay xuống, rồi theo chân Bruno và Thumm xuống lầu.
Thư viện nhà Hatter nối liền với phòng ăn. Nó đã cũ và thơm mùi da thuộc. Thư viện chủ yếu gồm sách khoa học và thi ca. Một không gian ghi nhiều dấu vết sử dụng với đồ đạc đã cũ kha khá. Đây là căn phòng dễ chịu nhất trong nhà, và Lane ngồi xuống cái ghế bành với một cái thở dài nhẹ nhõm. Thumm và Bruno cũng ngồi xuống theo, cả ba người cứ nhìn nhau mà chẳng nói năng gì. Ngôi nhà im ắng, chỉ có hơi thở to của viên thanh tra là nghe rõ. “Thế đấy, các ngài,” cuối cùng Lane cũng lên tiếng, “đây là một câu đố.”
“Dù sao đi nữa vẫn là một câu đố thú vị, thanh tra à,” Lane nói tiếp. Ông ngả sâu người vào ghế và duỗi thẳng đôi chân dài. “Mà nhân đây,” ông hỏi nhỏ, “Louisa Campion có biết rằng hai tháng trước có người đã cố giết mình không?”
“Không. Chẳng cần phải nói cho cô ấy. Cô ấy đã có đủ chuyện khó khăn rồi.”
“Tất nhiên rồi.” Lane mơ màng trong khoảnh khắc. “Làm thế thì thật ác nghiệt,” ông đồng tình. Rồi đột nhiên Lane đứng dậy và băng qua phòng để xem xét một vật trông giống cái đôn đang dùng để đặt một cái tủ kính. Trong đó trống không. “Tôi đoán đây chính là chỗ để cất cây đàn mandolin.”
Thumm gật đầu. “Và,” viên thanh tra khẳng định, “không có dấu vân tay.”
“Theo tôi,” Bruno nói, “chuyện quả lê có độc - nếu thực sự thế - đã đơn giản hóa vấn đề đi rất nhiều.”
“Chuyện quả lê ư? Ít ra chúng ta biết hung thủ muốn giết Louisa,” Thumm gắt. “Thôi, đi xem tình hình thế nào đi.” Ngài đứng dậy và đi đến chỗ cánh cửa dẫn tới hành làng. “Này, Mosher,” ngài gọi. “Kêu cô Barbara Hatter xuống đây nói chuyện đi.” Lane lại tiến về phía cái ghế bành.
Ngoài đời trông Barbara Hatter còn dễ chịu hơn nhiều so với trên những bức ảnh đại chúng. Những đường nét tự nhiên như tạc trên ảnh làm nổi bật lên khuôn mặt thanh thoát của cô, trong đời thực, không chỉ thanh thoát, chúng còn mềm mại nữ tính, với vẻ đẹp thuần nhất đã khiến Kurt, một nhiếp ảnh gia nổi tiếng, trong quá trình chụp ảnh cho cô phải rung động tâm can. Cô rất cao và vương giả, lộ rõ ở tuổi ba mươi. Cô di chuyển thật yêu kiều, gần như là nhịp nhàng. Và cô gây ấn tượng về sự bừng sáng từ bên trong, một ngọn lửa khẽ tỏa ra bên ngoài và sưởi ấm cho từng điệu bộ. Barbara Hatter, nữ thi sĩ, khiến người ta cảm nhận, về không chỉ một phụ nữ thông minh mà còn là một tạo vật đặc biệt với bao cảm xúc tinh tế.
Cô gật đầu chào thanh tra Thumm và cúi mình trước vị công tố viên. Cặp mắt cô mở to khi thấy Lane. “Ngài Lane!” cô cất giọng trầm tĩnh. “Ngài cũng đang điều tra cái mớ đời tư hổ lốn của chúng tôi hay sao?”
Lane e dè. “Tôi bị cô Hatter đây trách cứ rồi. Không may, tôi là một kẻ tò mò.” Ông nhún vai. “Sao cô không ngồi xuống? Có vài câu hỏi đây.” Dường như ông không bất ngờ khi cô ta biết mặt ông và gọi tên ông ngay lần gặp đầu tiên, mọi người vẫn thường làm thế với ông.
Barbara ngồi xuống, cặp lông mày dày cong vút lên, và sẵn sàng để được thẩm vấn. “Vâng,” cô khẽ thở dài, “tôi đã sẵn sàng rồi. Hỏi đi.”
“Cô Hatter,” viên thanh tra bắt đầu luôn, “xin hỏi cô biết gì về chuyện tối qua.”
“Rất ít, thưa thanh tra. Tôi về nhà lúc hai giờ sáng - tôi đi dự một buổi tiệc thông thường ở nhà người bạn làm chủ báo. Những quý ông ở đó quên mất cư xử cho phải phép, hay là họ đã uống quá chén, dù sao đi nữa, tôi đã về nhà một mình. Mọi thứ yên ắng. Các ông cũng biết là phòng tôi ở mặt trước, trông ra công viên, đi qua hành lang chỗ phòng mẹ tôi. Tôi xin cam đoan rằng mọi cửa phòng ngủ trên gác đều đóng… Lúc đó tôi mệt nên lên giường ngay. Tôi ngủ tới sáu giờ sáng, rồi bị đánh thức bởi tiếng hét của bà Smith. Tất cả có vậy thôi.”
“Chà,” viên thanh tra nhíu mày.
“Tôi đồng ý,” Barbara nói với một nụ cười mỏi mệt, “rằng câu chuyện của tôi không thật sự cuốn hút lắm.”
Cô ta quay đầu nhìn Drury Lane, như thể chờ đợi câu hỏi từ ông. Nhưng dường như cô ta khá ngạc nhiên với câu hỏi, cặp mắt nheo lại và cô ta nhìn trừng trừng vào Lane. Ông hỏi: “Cô Hatter, khi cô và em trai Conrad chạy vào phòng ban sáng thì có người nào bước vào giữa chỗ hai chiếc giường không?”
“Không, thưa ngài Lane,” cô ta đáp tỉnh bơ. “Chúng tôi thấy ngay là bà đã chết. Khi nâng Louisa khỏi sàn chúng tôi đi men theo những dấu chân dẫn ra cửa và tránh bước vào vị trí giữa hai giường.”
“Cô có chắc anh cô cũng thế không?”
“Chắc.”
Công tố viên Bruno đứng dậy, gập cơ bắp đùi và bắt đầu bước tới bước lui trước mặt Barbara. Cô ta kiên nhẫn chờ đợi. “Cô Hatter, tôi sẽ nói thẳng. Cô là người phụ nữ thông minh hơn bình thường rất nhiều, và chắc chắn cô nhận thức được về.. ờ… sự bất bình thường của những thành viên trong gia đình. Nhận thức được vậy, cô hẳn phải đau xót… Tôi muốn yêu cầu cô tạm thời dẹp sang một bên chuyện cân nhắc về sự trung thành với gia đình.” Ngài dừng lại với nét mặt điềm tĩnh chẳng biểu lộ gì. Ngài công tố viên hẳn cảm thấy câu hỏi chưa thích đáng, nên lại nhanh chóng nói tiếp: ”Tất nhiên, cô không buộc phải trả lời nếu không muốn. Nhưng nếu cô có bất kỳ lời giải thích nào về âm mưu đầu độc hai tháng trước và vụ án mạng đêm qua, thì chúng tôi rất nóng lòng muốn nghe.”
”Thưa ngài Bruno thân mến,” Barbara đáp, “ý ngài là sao? Phải chăng các ngài muốn ám chỉ rằng tôi biết kẻ nào đã giết mẹ mình?”
“Không, không… chỉ là một giả thuyết thôi, tôi chỉ muốn nói cho rõ…”
“Tôi chẳng có giả thuyết gì sất.” Barbara nhìn thẳng xuống những ngón tay trắng dài. “Ai cũng biết, thưa ngài Bruno, rằng mẹ tôi luôn thể hiện mình là một bạo chúa ngang ngược. Tôi tin là nhiều người đã từng hay vẫn đang có động cơ để chống lại bà. Nhưng giết người thì…” Cô ta rùng mình. “Tôi không biết. Không thể tin được. Việc lấy đi mạng sống ai đó…”
“Ô,” Thumm khẽ đáp, “vậy là cô tin rằng có người muốn giết mẹ mình?”
Cô ta giật mình, và liếc nhìn Thumm nhanh như chớp. “Ngài đang cố lái câu chuyện đi đâu vậy, thưa thanh tra? Tất nhiên tôi giả định rằng bà bị sát hại nếu có người mang ý định… Ô!” Cô ta chợt khựng lại và bám chặt lấy ghế ngồi. ”Ý ngài đó là… đó là một vụ giết nhầm tai hại ư?”
“Đó chính là điều ngài thanh tra đây muốn nói, thưa cô Hatter,” Bruno lên tiếng. “Chúng tôi tin rằng mẹ cô bị giết trong một tai nạn - do cơn bốc đồng trong giây lát. Chúng tôi khá chắc mục tiêu giết người của hung thủ khi lẻn vào phòng không phải mẹ cô, mà chính là người chị cùng mẹ khác cha Louisa!”
“Vậy thì tại sao,” Drury Lane chen ngang bằng giọng từ tốn trước khi Barbara kịp trấn tĩnh, “tại sao lại có người muốn hãm hại con người tật nguyền tội nghiệp trên gác kia, thưa cô Hatter?”
Barbara đột nhiên đưa tay lên mắt và che chúng lại. Cô vẫn ngồi im đó. Khi bỏ tay xuống, họ thấy một khuôn mặt thất thần. “Tội nghiệp Louisa,” cô lẩm bẩm. “Tội nghiệp Louisa.” Cô nhìn đăm đăm vô định vào cái đôn đặt bên kia phòng. “Cuộc đời vô nghĩa, tàn nhẫn với chị ấy. Lúc nào cũng là nạn nhân.” Đôi môi cô mím lại và cô nhìn họ với một cảm xúc mãnh liệt. “Như ngài nói, ngài Bruno, những mối ràng buộc gia đình - gia đình tôi - cần được gạt sang một bên. Bất kỳ ai dám cả gan đụng đến con người tàn phế ấy đều không đáng được tôn trọng dù chỉ một li. Tôi sẽ kể mọi chuyện, ngài Lane,” cô tiếp tục, cặp mắt tha thiết nhìn ông, “ngoại trừ mẹ và tôi, thì cả nhà này ai cũng ghét Louisa. Căm ghét chị ấy.” Giọng cô trở nên dữ dội. “Bản chất ác nghiệt của loài người. Thôi thúc muốn dẫm lên một thứ côn trùng hạ cấp… Ôi, thật tởm lợm.”
“Ra vậy,” vị công tố viên đáp lời, mắt không ngừng dõi theo Barbara. “Có đúng là mọi thứ thuộc về York Hatter trong ngôi nhà này đều không được đụng vào không?”
Cô ta gật đầu xác nhận. “Vâng,” cô khẽ nói. “Mẹ tôi tôn trọng ký ức về cha tôi hơn rất nhiều so với việc tôn trọng ông ấy.” Rồi cô im lặng, có lẽ mải ngẫm lại những ký ức không dễ chịu, bằng một thái độ buồn và có phần chua xót. “Sau cái chết của cha, mẹ tôi đã cố bù đắp bao năm tháng bạo ngược bằng việc bắt chúng tôi phải nghiêng mình tưởng nhớ cha. Tôn thờ mọi thứ thuộc về ông. Tôi nghĩ rằng vài tháng qua bà đã nhận ra…” Cô ta không nói hết mà ủ rũ trông xuống sàn nhà.
Thanh tra Thumm đứng ngồi không yên. “Chúng ta chưa đi đến đâu cả. Tại sao cha cô lại tự tử?”
Một nỗi đau hiện lên trên mặt Barbara. “Tại sao ư?” cô thẫn thờ nhắc lại. “Tại sao có người lại tự tử khi mà thú vui duy nhất trong đời bị tước mất, bóp nghẹt, khiến người đó sống như một nô lệ?” Có gì đó phẫn uất, thăng hoa và cùng lúc đó nỗi đau len vào giọng nói của cô. “Người cha đáng thương của tôi đã bị thao túng suốt cuộc đời. Ông không thể tự quyết, không dám phát ngôn gì trong chính ngôi nhà mình. Con cái thì chẳng thèm vâng lời, coi thường ông. Thật tàn nhẫn… tuy nhiên - con người thật kỳ lạ - trái tim mẹ tôi vẫn có chút thương cảm dành cho ông. Tôi hiểu rằng ông khá đẹp trai khi họ gặp nhau. Tôi nghĩ mẹ tôi thao túng cha vì bà cho rằng ông cần cứng rắn hơn. Theo bà thì ai quá yếu mềm trước bản thân đều cần trở nên cứng rắn hơn.” Barbara thở dài. “Thay vì khiến cha tôi mạnh mẽ thêm, nó lại khiến ông suy sụp. Ông trở nên xa lánh, sống gần như vờ vật. Ngoại trừ ông bạn già lạ lùng hàng xóm, là thuyền trưởng Trivett, cha tôi chẳng có bạn. Và ngay cả ông ta cũng không thể khiến cha tôi thoát khỏi sự ơ hờ đó. Tôi đang nói nhăng nói cuội rồi…”
“Ngược lại đấy, cô Hatter,” Lane nhẹ nhàng nói, “cô đang sáng suốt kể những chuyện rất quan trọng đấy. Lệnh cấm của mẹ cô đối với cây đàn mandolin và phòng thí nghiệm có được tôn trọng không?”
“Mọi người luôn tôn trọng mệnh lệnh của bà, ngài Lane ạ,” Barbara khẽ đáp. “Tôi có thể thề rằng chẳng ai dám mơ đến chuyện chạm vào cây đàn mandolin hay là đi vào phòng thí nghiệm… Không, thật ngớ ngẩn. Có người đã làm chuyện đó.”
“Lần cuối cô trông thấy cây đàn còn ở trong tủ kính đằng kia là lúc nào?” viên thanh tra thắc mắc.
“Chiều hôm qua.”
“Nó có phải,” Bruno hỏi với một chút phấn khích, như thể ông ta vừa nảy ra ý nghĩ gì đó, “là nhạc cụ duy nhất trong nhà không?”
Lane liếc nhìn ông ta sắc bén, còn Barbara tỏ ra ngạc nhiên. “Vâng, đúng thế,” cô đáp. “Dù có ý nghĩa gì… Tôi cho rằng nó không liên quan đến tôi. Gia đình tôi không có năng khiếu âm nhạc. Nhà soạn nhạc ưa thích của mẹ tôi là Sousa, và cây đàn của cha tôi là kỉ vật từ thời sinh viên. Từng có một cây đàn piano cánh - một trong những món đồ hoa mỹ nhất nhà, đầy họa tiết và sơn son thếp vàng, phong cách rococo những năm 1890 - nhưng mẹ tôi đã ném nó đi vài năm trước. Bà tỏ ra bực bội…”
“Bực bội?” Bruno thắc mắc.
“Vấn đề là Louisa không thể cảm nhận được nó.”
Bruno cau mày. Bàn tay to bản của Thumm thò vào túi áo lục lọi và giơ ra một chiếc chìa khóa. “Cô nhận ra nó chứ?”
Barbara chăm chú quan sát nó. “Đó là chìa khóa của hãng Yale phải không? Tôi không biết nữa. Chúng trông khá giống nhau mà…”
“Chà,” Thumm thốt lên, “đó là chìa khóa phòng thí nghiệm của cha cô. Tôi tìm thấy nó trong đống đồ đạc của mẹ cô.”
“Ra thế.”
“Đây là chiếc chìa khóa duy nhất của căn phòng đó đúng không?”
“Tôi tin như vậy. Tôi đoán mẹ tôi đã giữ nó kể từ lúc có tin cha tôi tự tử.”
Thumm cất chìa khóa vào túi. “Đúng như điều tôi đã được nghe. Chúng ta phải ghé qua phòng thí nghiệm đó.”
“Cô có hay ghé vào phòng thí nghiệm của cha mình không, cô Hatter?” Bruno tò mò hỏi.
Khuôn mặt Barbara hoạt bát hẳn lên. “Có chứ, ngài Bruno. Tôi là một trong những kẻ tôi tớ trong ngôi đền khoa học thần thánh của cha. Những thí nghiệm của ông đã cuốn hút tôi, dù tôi chẳng hiểu chúng. Tôi thường dành cả tiếng với ông trên gác. Đó là những lúc mà ông hạnh phúc nhất - ông như sống vì khoảnh khắc ấy.” Cô chìm vào trầm tư. “Martha - người chị dâu - cũng đồng cảm với ông, thi thoảng chị ấy cũng xem ông làm việc. Và tất nhiên còn cả thuyền trưởng Trivett nữa. Những người khác…”
“Vậy là cô không biết gì về hóa học,” Thumm xác nhận lại với giọng không đồng tình.
Barbara mỉm cười. “Ngài thanh tra ơi. Chất độc ư? Ai cũng đọc được tên ghi trên nhãn chai mà. Không, tôi không có khiếu về hóa học.”
“Từ những điều được nghe,” Drury Lane bình luận, với thứ mà viên thanh tra đánh giá là không phù hợp, “việc không có khiếu khoa học khiến cô thăng hoa thành thiên tài thi ca, cô Hatter à. Cô phô bày một bức tranh thú vị, cô và người cha: Nàng thơ ngồi dưới chân Khoa học gia.”
“Vớ vẩn,” thanh tra Thumm nói rõ ràng.
“Ồ, hẳn là thế rồi,” Lane đáp lời và mỉm cười. “Lúc này đây tôi không bình luận vậy chỉ vì muốn phô bày mớ kiến thức cũ rích đâu, thanh tra à… Điều tôi muốn biết là. Thưa cô Hatter: liệu Khoa học gia có bao giờ ngồi dưới chân Nàng thơ không?”
“Làm ơn giải thích rõ ràng cái,” viên thanh tra gắt. “Tôi cũng muốn biết câu trả lời mà.”
“Ngài Lane đây muốn hỏi,” Barbara trả lời với nét ửng hồng trên đôi má, “liệu cha tôi có hứng thú với việc tôi làm thơ như thế không. Câu trả lời, thưa ngài Lane, là có. Cha tôi luôn có niềm đam mê mãnh liệt dành cho thơ ca của tôi - nhưng tôi e là không bằng dành cho thành quả hóa học của ông. Ông thường không hiểu nổi những vần thơ của tôi…”
“Tôi cũng thế, thưa cô Hatter,” Lane nói và hơi chúi người. “Cha cô đã bao giờ thử làm thơ chưa?”
Barbara tỏ vẻ nghi hoặc. “Hiếm lắm. Ông đã thử sức với việc viết sách một lần, nhưng tôi không tin ông đã có thành quả gì. Cha tôi không thể làm gì đó thật lâu dài - tất nhiên là ngoại trừ những thí nghiệm không ngừng với bình cong, đèn cồn và hóa chất.”
“Chà,” Thumm nói xen vào, “nếu chỉ có vậy, tôi xin phép quay lại chuyện chính. Chúng ta không có cả ngày đâu, ngài Lane… Cô là người về nhà cuối cùng đêm qua, phải không cô Hatter?”
“Tôi chịu thôi. Tôi quên mang chìa khóa - chúng tôi đều có chìa khóa riêng - nên tôi đã bấm chuông tiền sảnh. Cái chuông nối trực tiếp với phòng của nhà Arbuckle trên tầng áp mái, và ông George Arbuckle xuống lầu sau tầm năm phút để mở cửa cho tôi vào. Tôi liền đi lên gác luôn. Arbuckle lên sau… Vì vậy, tôi không thể nói tôi có phải là người cuối cùng hay không. Có lẽ ông Arbuckle biết.”
“Sao cô lại không mang chìa khóa? Thất lạc? Đánh mất?”
“Ngài thật dễ đoán, thanh tra à,” Barbara thở dài đáp. “Không, nó không bị thất lạc, không bị mất, cũng không bị đánh cắp. Chỉ là tôi quên mang, như tôi đã nói. Nó nằm ở một cái ví khác trong phòng tôi, tôi đã kiểm tra lại trước khi đi ngủ.”
“Ngài có nghĩ đến khả năng nào khác không?” viên thanh tra hỏi Bruno sau một hồi im lặng.
Vị công tố viên lắc đầu.
“Còn ngài thì sao?”
“Sau cái cách ngài ngắt lời tôi, thanh tra à,” Lane đáp bằng một nụ cười rầu rĩ, “không.”
Thumm tỏ vẻ hối lỗi rồi nói: “Xong rồi, thưa cô Hatter. Xin cô đừng rời khỏi nhà.”
“Không,” Barbara Hatter mệt mỏi đáp. “Tất nhiên là không rồi.”
Cô đứng lên và rời khỏi phòng.
Thumm giữ cửa mở và dõi theo bước chân cô. “Chà,” ngài lẩm bẩm, “dù tôi thẩm vấn như thế, đó vẫn là một phụ nữ thật đẹp. Được rồi,” Thumm nói tiếp, đôi vai gồng lên, “có thể chúng ta sẽ xử lý được những kẻ điên này. Mosher, cho gọi nhà Arbuckle xuống đây để thẩm vấn.”
Viên thám tử vội lên gác. Thumm đóng cửa, móc ngón tay cái vào đỉa quần rồi ngồi xuống.
“Những kẻ điên?” Bruno nhắc lại. “Tôi tưởng nhà Arbuckle thì bình thường.”
“Không đâu,” viên thanh tra gắt. “Trông thì bình thường thế thôi. Họ điên bên trong đấy. Họ điên chắc luôn.” Ông nghiến hàm răng lại. “Bất cứ ai sống trong ngôi nhà này đều điên hết. Tôi bắt đầu cảm thấy mình cũng bị điên rồi.”
Vợ chồng Arbuckle đều cao ráo, vẻ khỏe mạnh của tuổi trung niên; họ trông giống anh trai và em gái hơn vợ chồng, cả hai đều có nét mặt thô và da mặt sần sùi, với lỗ chân lông to và nhờn: những người nông dân, cả hai bọn họ, được thừa hưởng gien to béo và óc lãnh đạm - cả hai đều nghiêm túc và không cười, như thể cái không khí đang trấn áp ngôi nhà này đã nghiền nát họ.
Bà Arbuckle tỏ ra lo lắng. “Tối qua tôi đi ngủ lúc mười một giờ,” bà nói. “Với George - chồng tôi. Chúng tôi là những người hiền hòa; chúng tôi không biết gì về chuyện này hết.”
Viên thanh tra gắt. “Ngủ cho đến sáng sao, cả hai người?”
“Không,” người phụ nữ nói. “Khoảng hai giờ sáng thì có tiếng chuông reo. George bật dậy, mặc vội quần áo và đi xuống nhà.” Thumm gật đầu ủ ê; có lẽ ngài chờ đợi một lời nói dối. “Khoảng mười phút sau ông ấy trở lên và bảo: ‘Barbara, cô chủ để quên chìa khóa.’” Bà Arbuckle hít một hơi. “Sau đó chúng tôi ngủ tiếp và không biết chuyện gì khác cho đến tận sáng.”
Mái đầu bờm xờm của George Arbuckle khẽ gật. “Đúng vậy,” ông nói. “Có Chúa chứng giám. Chúng tôi chẳng hề biết gì sất.”
“Ông chưa được phép lên tiếng,” Thumm nói. “Giờ thì…”
“Bà Arbuckle,” Lane bất ngờ xen vào. Bà ta nhìn ông bằng vẻ tò mò của phụ nữ - một phụ nữ trông như đàn ông. “Bà có thể cho chúng tôi biết là trái cây được đặt trong phòng của bà Hatter mỗi ngày phải không?”
“Đúng thế. Cô Louisa Campion thích ăn trái cây.” bà Arbuckle xác nhận.
“Hiện trên gác đang có một bát trái cây. Nó được để đấy từ bao giờ?”
“Hôm qua. Tôi luôn giữ cho bát đầy trái cây tươi. Bà Hatter muốn vậy.”
“Cô Campion thích tất cả các loại trái cây à?”
“Vâng. Cô ấy…”
“Vâng, thưa ngài,” thanh tra Thumm xẵng giọng.
“Vâng thưa ngài.”
“Còn bà Hatter thì sao?”
“Vâng… cũng thích thế. Bà ấy chỉ ghét lê thôi. Không bao giờ ăn lê cả. Những người trong nhà hay lấy đó làm chuyện vui về bà ấy.”
Drury Lane liếc mắt với thanh tra Thumm và công tố viên Bruno đầy dụng ý. “Giờ thì, bà Arbuckle,” ông ân cần nói tiếp, ”bà đã mua trái cây ở đâu?”
“Tại tiệm Sutton khu University Place. Cung cấp đồ tươi mỗi ngày.”
“Thế có ai ngoại trừ cô Campion ăn chỗ trái cây này nữa không?”
Bà Arbuckle nâng cằm lên và nhìn ông chằm chằm. “Sao ông lại hỏi lạ thế? Chắc chắn những người khác cũng cùng ăn chứ. Tôi luôn lấy cho cả nhà cùng ăn mà.”
“Hừm. Có ai đã ăn lê từ đợt hàng hôm qua không?”
Gương mặt người quản gia tối sầm lại với sự nghi ngờ; có vẻ vấn đề trái cây này đã khiến bà ta căng thẳng. “Có!” bà ta ồ lên. “Có! Có…”
“Có, thưa ngài,” viên thanh tra nhắc.
“Có… thưa ngài. Tôi đã ăn một quả, chính tôi, nhưng thế thì sao ạ?”
“Không có gì, bà Arbuckle, yên tâm đi,” Lane nhẹ nhàng đáp. “Bà đã ăn một quả lê. Mỗi mình bà thôi sao?”
“Bọn trẻ, Jackie và Billy, mỗi đứa một quả nữa,” bà lẩm bẩm, sự căng thẳng dịu xuống. “Và một quả chuối nữa, chúng ăn như hạm ấy.”
”Và không bị sao cả,” Bruno nhận xét. “Dù sao vẫn cần thông tin này.”
“Trái cây được đem đến phòng cô Campion thời điểm nào hôm qua?” Lane vẫn nhẹ nhàng hỏi tiếp.
“Vào buổi chiều. Sau khi ăn trưa, thưa ông.”
“Tất cả trái cây đều tươi mới?”
“Vâng… Vâng, thưa ngài. Một vài quả nằm trong bát từ ngày hôm kia, nhưng tôi đã bỏ chúng ra,” bà Arbuckle nói, “và đặt quả mới vào. Louisa rất kén chọn đồ ăn thức uống. Đặc biệt là trái cây. Cô ấy sẽ không ăn trái cây chín quá hay dập nát.”
Drury Lane bắt đầu; ông định nói điều gì đó, nhưng lại thôi, rồi cứ thế nín thinh luôn. Người quản gia chỉ biết chằm chằm nhìn ông vẻ thẫn thờ; còn ông chồng thì sáp tới đứng cạnh, gãi cằm và tỏ ra không thoải mái. Viên thanh tra và Bruno dường như bối rối bởi phản ứng của Lane; họ dõi theo ông từng chút một.
“Bà có chắc chắn về chuyện đó?”
“Chắc như bắp luôn.”
Lane thở dài. “Có bao nhiêu quả lê được bỏ vào bát buổi chiều hôm qua, bà Arbuckle?”
“Hai quả.”
“Cái gì!” viên thanh tra thốt lên. “Tại sao, chúng ta tìm thấy…!” Thumm nhìn Bruno, và Bruno nhìn Lane.
“Thế đấy,” vị công tố viên lẩm bẩm, “thật lạ lùng đấy, ngài Lane ạ.”
Lane tiếp tục không hề nao núng. “Bà có dám thề không, bà Arbuckle?”
“Xin thề? Để làm gì? Có hai quả thôi, tôi bảo rồi. Tôi phải biết chứ.”
“Chắc chắn là bà biết. Bà có tự tay mang cái bát lên gác không?”
“Tôi luôn làm thế.”
Lane mỉm cười, vẻ trầm tư, rồi ngồi xuống với một cái phẩy tay khe khẽ.
“Tới lượt ông, ông Arbuckle,” viên thanh tra gắt. “Barbara Hatter có phải là người cuối cùng về nhà đêm qua?”
Viên tài xế kiêm gia đinh run lên thấy rõ khi tên mình được xướng lên. Ông ta liếm môi. “Dạ… dạ… tôi không biết nữa, thưa ngài. Sau khi mở cửa cho cô Hatter, tôi chỉ đứng dưới nhà một lúc đủ để thấy rằng tất cả cửa ra vào và cửa sổ đều khóa. Tôi đã tự tay khóa cửa trước, sau đó lên gác đi ngủ. Vì vậy, tôi không thể nói còn ai vào nhà nữa không.”
“Còn tầng hầm?”
“Nó không được sử dụng,” Arbuckle trả lời chắc chắn hơn. “Nó được khép lại và đóng ván gỗ cả trước cả sau nhiều năm rồi.”
“Thế à,” Thumm nói. Viên thanh tra đi ra cửa, ló đầu ra ngoài và hét lên: “Pinkussohn”
Một thám tử cất giọng khàn khàn: “Vâng, thưa sếp?”
”Đi xuống tầng hầm. Kiểm tra một vòng đi.”
Viên thanh tra đóng cửa lại và về chỗ ngồi. Công tố viên Bruno đang hỏi ông Arbuckle: “Tại sao ông lại cẩn thận kiểm tra cửa ra vào và cửa sổ lúc hai giờ sáng?”
Arbuckle cười bối rối. “Thói quen của tôi, thưa ngài. Bà Hatter luôn bảo tôi phải kiểm tra cẩn thận, vì cô Campion - cô ấy sợ có kẻ trộm. Tôi đã kiểm tra trước khi đi ngủ, nhưng tôi nghĩ để chắc chắn thì nên kiểm tra lần nữa.”
“Cửa đều được đóng và khóa lúc hai giờ sáng?” Thumm hỏi.
“Vâng thưa ngài. Nội bất xuất ngoại bất nhập.”
“Vợ chồng ông làm việc ở đây bao lâu rồi?”
“Tám năm,” bà Arbuckle nói, “mốc là tháng ba vừa rồi.”
“Được rồi,” Thumm nói, “tôi nghĩ thế là xong. Còn câu hỏi nào không, ngài Lane?”
Người nghệ sĩ đang ngồi ườn trên ghế, mắt dán chặt vào vợ chồng người quản gia. “Ông bà Arbuckle,” ông nói. “Ông bà có cảm thấy khó khăn khi làm việc cho nhà Hatter không?”
George Arbuckle trở nên hoạt bát hẳn lên. “Khó khăn, ngài bảo thế ư?” Ông ta khịt mũi. “Tôi sẽ nói thật, thưa ngài. Điên rồ, họ ấy, tất cả bọn họ luôn.”
“Thật khó mà làm vừa lòng họ,” bà Arbuckle ủ ê nói.
“Vậy tại sao,” Lane hỏi bằng giọng dễ chịu, “hai người vẫn tiếp tục làm việc cho họ suốt tám năm qua?”
“À, cái đấy thì!” bà Arbuckle đáp trong bằng giọng điệu của một người không xem câu hỏi này là thích hợp. “Chẳng có gì là uẩn khúc đâu. Tiền công hậu hĩnh - rất hậu hĩnh, thế nên chúng tôi mới ở lại. Ai cũng thế thôi.”
Lane tỏ vẻ thất vọng. “Có ai nhớ là hôm qua còn trông thấy cây đàn mandolin trong tủ kính đằng kia không?”
Ông bà Arbuckle nhìn nhau, và cả hai đều lắc đầu. “Chúng tôi không rõ,” họ nói.
“Cảm ơn hai người,” Drury Lane nói, và nhà Arbuckle được viên thanh tra cho phép ra ngoài.
Người hầu gái, Virginia - không ai nghĩ đến việc hỏi họ của cô ta - là một phụ nữ độc thân cao ráo to xương với khuôn mặt lưỡi cày. Cô ta cứ mải vặn tay và chỉ chực khóc. Cô đã làm việc cho nhà Hatter được năm năm. Cô thích công việc của mình. Cô yêu công việc của mình. Tiền công… Không, thưa ngài, tôi đi ngủ sớm tối qua… Cô không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì, và không biết gì. Nên cô được phép ra ngoài.
Pinkussohn, viên thám tử, vào phòng với sự ghê tởm hiện rõ trên khuôn mặt lớn. “Chẳng có gì trong hầm cả, sếp ạ. Trông như thể nó đã không được mở ra nhiều năm rồi, bụi thì dày cả tấc…”
“Cả tấc?” viên thanh tra đáp lại vẻ khó chịu.
“Vâng… có lẽ ít hơn. Cửa ra vào và cửa sổ chưa ai đụng vào. Không có dấu chân nào trên sàn.”
“Bỏ cái thói hư cấu đi,” Thumm gắt. “Có ngày cậu sẽ biến con chuột thành con voi mất, và thế là lớn chuyện đấy. Được rồi, Pink.” Khi thám tử biến mất qua cánh cửa một cảnh sát bước vào chào. “Này,” Thumm hỏi, “có chuyện gì vậy?”
”Có hai người bên ngoài,” viên cảnh sát cho biết. “Họ muốn vào đây. Họ nhận là luật sư của gia đình và một trong số họ là đối tác hay đại loại thế với Conrad Hatter. Cho họ vào nhé, thanh tra?”
“Cho vào đi,” Thumm gắt. “Tôi đã chờ họ cả buổi sáng nay. Thật đấy!”
Hai người mới đến bước vào thư viện, mang theo nét kịch tính và thứ gì đó hài hước. Độc lập với nhau, dù là những mẫu người hoàn toàn tương phản, họ vẫn có thể là bạn bè, tuy nhiên, mọi khả năng của sự thân tình đã bay biến hết, cùng với sự hiện diện của Jill Hatter. Jill, xinh đẹp, sắc sảo, khuôn mặt cô gợi nét đau buồn dưới cặp mắt và trong các đường nét quanh mũi và miệng mang biểu trưng cho đời sống vương giả, rõ ràng đã biết những người đàn ông trong hội trường từ trước. Cô ta đến chỗ họ, chen vào giữa, bám riết vào một cánh tay nam tính, buồn bã nhìn họ, chuyển từ người nọ sang người kia, chấp nhận những lời chia buồn vội vã bằng bộ ngực đầy và đôi môi ủ rũ…
Lane, Thumm, Bruno âm thầm dõi theo họ. Người phụ nữ trẻ này thật biết làm dáng, chỉ nhìn qua là có thể thấy ngay. Trong mỗi cử động khôn khéo của cơ thể đều ẩn chứa lời mời gọi dục vọng, và phảng phất nét nhục cảm. Cô ta coi hai người đàn ông kia như vật làm nền, chồng người nọ lên người kia, gây mâu thuẫn, khiến họ đụng độ một cách vô thức, lợi dụng sự ra đi đầy bi kịch của bà mẹ với quyết tâm lạnh lùng là để thu hút họ đến gần hơn với cô ta và chống đối lẫn nhau. Nhìn chung, Drury Lane đã thấy rõ cần phải cảnh giác với người phụ nữ này.
Đồng thời, Jill Hatter tỏ ra sợ hãi. Trò sai khiến bậc thầy của cô ta đã trở thành thói quen, chứ không chỉ là một ý định nhất thời nữa. Cao ráo, đường nét căng đầy, gần như hoàn mỹ - lại đang sợ hãi. Cặp mắt cô ta đỏ hoe vì mất ngủ và sợ hãi… Đột nhiên, như thể lần đầu tiên ý thức được có người đang quan sát, cô ta thả vòng tay người đàn ông ra với một cái bĩu môi và đi về phía nhà vệ sinh. Lần đầu tiên… Đôi mắt cô ta đã nhìn thấy tất cả mọi thứ ngay từ giây phút bước qua ngưỡng cửa. Sợ hãi…
Những người còn lại giáp mặt nhau, với khuôn mặt chào hỏi theo nghi thức. Hai người này cũng không có khác biệt gì nhiều lắm. Chester Bigelow, luật sư của gia đình, là một người có chiều cao tốt, nhưng đứng bên cạnh John Gormly, đối tác kinh doanh của Conrad Hatter, ông ta dường như thật nhỏ bé. Tóc Bigelow đen, với một bộ ria mép đen nhỏ và râu hàm xanh đen; tóc Gormly thì sáng, với mái tóc vàng nhạt và bộ râu cứng hơi đỏ dưới làn da mặt cạo vội. Bigelow tỏ ra lanh lợi, hoạt bát và nhanh nhẹn trong mỗi cử động; Gormly thì chậm chạp và thận trọng. Có nét gì đó khôn ngoan, gần như ranh mãnh trên khuôn mặt sáng sủa của vị luật sư; trong khi Gormly lại tỏ ra nghiêm túc và điềm tĩnh. Và người đàn ông tóc vàng cao lớn trẻ hơn so với đối thủ của mình ít nhất là mười tuổi.
“Các ông muốn nói chuyện với tôi, thanh tra Thumm?” Jill khẽ cất giọng yếu ớt hỏi.
“Giờ thì tôi chưa cần ngay,” Thumm đáp, “nhưng cô đã ở đây rồi thì… Mời ngồi, các vị.” Ngài giới thiệu Jill, Bigelow và Gormly với Bruno và Drury Lane. Jill đổ người vào một chiếc ghế và cố tỏ ra mình thật nhỏ bé và bất lực, như giọng nói của cô ta. Vị luật sư và nhà môi giới chưa chịu ngồi xuống, tỏ ra hơi lo lắng. “Giờ thì, cô Hatter, cô đã ở đâu đêm qua?”
Cô ta quay lại nhìn John Gormly, thật từ tốn. “Tôi đã ra ngoài cùng John… ông Gormly.”
“Kể chi tiết đi.”
“Chúng tôi đã đến nhà hát, rồi đến một bữa tiệc nửa đêm ở đâu đó.”
“Cô về nhà lúc mấy giờ?”
“Rất sớm, thưa thanh tra… năm giờ sáng.”
John Gormly đỏ mặt, và Chester Bigelow tức khắc làm một động tác thiếu kiên nhẫn với chân phải. Hàm răng nhỏ đều đặn của anh ta nở một nụ cười.
“Ông Gormly đây đưa cô về nhà? Đúng không ông Gormly?”
Nhà môi giới định mở miệng, nhưng Jill đã cắt lời vẻ rầu rĩ: “Ồ, không, thưa thanh tra. Chuyện đó… chà, khá xấu hổ.” Cô ta e dè nhìn xuống tấm thảm. “Các ngài thấy đấy, tôi đã say rượu vào khoảng một giờ sáng. Tôi đã cãi nhau với ông Gormly đây - ông ấy nghĩ mình nên tỏ ra đê tiện một chút, các ngài thấy…”
“Jill…” Gormly xen vào. Mặt ông ta đỏ như cái cavát đang đeo.
“Vậy nên ông Gormly đã bỏ tôi lại một mình. Thật ra! Tôi muốn nói rằng ông ta đã nổi cơn hung bạo như dã thú,” Jill tiếp tục bằng giọng ngọt ngào, “và sau đó… chà, tôi không nhớ gì hết ngoại trừ việc uống rượu gin rẻ tiền và say sưa với ai đó béo núc, đầy mồ hôi. Tôi nhớ chuyện lê bước trên phố suốt đêm, ca hát đến lạc cả giọng.”
“Tiếp đi,” viên thanh tra nói dứt khoát.
“Một cảnh sát chặn tôi lại và đưa tôi vào một chiếc taxi. Một anh chàng quá ư tử tế! Cao to, khỏe mạnh với mái tóc nâu xoăn…”
“Tôi biết họ mà,” Thumm nói. “Tiếp đi!”
“Tôi đã tỉnh táo khi về tới nhà; lúc đó đã gần sáng. Cảnh công viên thật đẹp và trong lành, thanh tra à - tôi thích bình minh…”
“Hẳn là cô thấy chúng nhiều rồi. Tiếp đi, cô Hatter. Chúng ta không thể lãng phí cả ngày.”
Khuôn mặt John Gormly dường như sắp sửa nổ tung. Anh ta gầm gừ trong họng, nắm chặt bàn tay, và bắt đầu đi ngang qua tấm thảm. Biểu hiện của Bigelow thì thật bí ẩn.
“Và đó là tất cả, thanh tra à,” Jill nói, mắt cụp xuống.
“Thế thôi sao?” cơ bắp của Thumm phồng lên dưới tay áo khoác; ngài chẳng thèm che giấu sức mạnh. “Được rồi, cô Hatter. Trả lời một số câu hỏi đây. Cửa trước có khóa khi cô về nhà không?”
“Để tôi xem nào… Tôi nghĩ là có khóa. Vâng! Tôi phải mất ít phút loay hoay mở cửa.”
“Cô có nghe hay trông thấy gì đó khác thường khi đi lên gác không?”
“Khác thường ư? Thanh tra à, tôi thấy sốc đấy.”
“Cô biết tôi muốn nói gì mà,” Thumm gắt. “Khang khác. Kỳ lạ. Thứ gì đó thu hút sự chú ý của cô.”
“Ồ! Không, thưa thanh tra.”
“Cô có để ý cửa phòng ngủ của mẹ cô mở hay đóng không?”
“Nó đóng chặt. Tôi đi vào phòng mình, bỏ hết đồ ra, rồi quẳng mình lên giường. Tôi ngủ như chết cho đến tận lúc ồn ào ban sáng.”
“Thế là đủ rồi. Được rồi, ông Gormly. Ông đã đi đâu sau khi bỏ cô Hatter lại một mình lúc đó?”
Tránh ánh mắt ngây thơ dò xét của Jill, Gormly lẩm bẩm: “Tôi đi bộ vào thành phố. Có một buổi tiệc ở Đường Thứ Sáu Mươi Sáu. Tôi đi bộ hàng tiếng đồng hồ. Tôi sống ở góc đại lộ Thứ Bảy và Đường Thứ Mười Lăm, rồi tôi về nhà - tôi không nhớ nữa. Trời mới tờ mờ sáng.”
“Hừm. Ông và cô Hatter thân nhau lâu chưa?”
“Ba năm.”
“Ông biết nhà Hatter từ bao giờ?”
“Kể từ ngày còn học đại học. Conrad và tôi là bạn cùng phòng, và tôi quen gia đình anh ta từ đó.”
“Tôi nhớ lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh, John,” Jill nhẹ nhàng nói. “Tôi hẵng còn là một cô bé. Là bạn tốt đẹp, hoặc là bạn tốt đẹp?”
“Đừng có giở giọng ve vãn,” Thumm xẵng giọng. “Tránh qua một bên, ông Gormly. Bigelow, tôi hiểu rằng công ty luật của ông lo liệu mọi vấn đề pháp lý liên quan đến việc kinh doanh của bà Hatter. Bà ta có địch thủ nào trong việc kinh doanh nào không?”
Viên luật sư lịch thiệp đáp: “Cũng như tôi, thanh tra à, các vị biết rằng bà Hatter là một người! - Một phụ nữ khá đặc biệt. Nói chung chẳng giống ai cả. Địch thủ ư? Có chứ. Tài phiệt phố Wall nào mà chẳng có địch thủ. Nhưng tôi không dám nói xa xôi đến - không, chắc chắn là không -chuyện có người ghét bà ấy đến mức muốn sát hại.”
“Thông tin hữu ích. Thế ông nghĩ sao về vụ giết người này?”
“Đáng tiếc, thật buồn,” Bigelow nói, mím môi lại. “Rất buồn. Và nói thật là tôi chẳng dám có ý kiến gì về vụ này cả. Một chút cũng không.” Anh ta dừng lại, rồi nói tiếp. “Hay về người có thể đã cố gắng đầu độc cô Campion hai tháng trước đây, như tôi từng khai lúc trước.”
Công tố viên Bruno tỏ vẻ sốt ruột. “Thế đấy, thanh tra à, chúng ta chẳng đi đến đâu cả. Ông Bigelow, bà Hatter có để lại di chúc không?”
“Có chứ.”
“Có gì bất thường trong di chúc không?”
“Có và không. Tôi…”
Mọi người nhất loạt quay người lại khi có tiếng gõ cửa. Thumm nặng nề sải bước qua phòng và khẽ hé cửa. “Ồ, Mosher,” ngài nói. “Có chuyện gì?”
Giọng Mosher cất lên trầm đục. Viên thanh tra nói: “Không!” bằng giọng dứt khoát. Ngài đột ngột cười khẩy và đóng sầm cửa trước mặt Mosher. Rồi Thumm đi đến chỗ vị công tố viên thì thầm điều gì đó, và nét mặt Bruno trở nên hí hửng.
“Chà, ông Bigelow,” Bruno hỏi, “khi nào ông định chính thức đọc di chúc cho những người thừa kế của bà Hatter?”
“Thứ Ba lúc hai giờ chiều, sau buổi tang lễ.”
“Tốt. Khi đó chúng ta sẽ nghe được nghe chi tiết. Tôi nghĩ thế là xong…”
“Chờ chút, ngài Bruno,” Drury Lane ôn tồn nói.
“Mời ngài.”
Lane quay sang Jill Hatter. “Lần cuối cùng cô trông thấy cây đàn mandolin bình thường vẫn để trong phòng này là khi nào, thưa cô Hatter?”
“Đàn mandolin? Tối qua sau khi ăn xong, ngay trước khi tôi rời khỏi nhà với John.”
“Và lần cuối cùng mà cô ghé vào phòng thí nghiệm của cha cô?”
“Căn phòng bốc mùi của York?” Jill nhún cặp vai xinh. “Khoảng vài tháng trước. Vâng, cũng nhiều tháng rồi. Tôi chẳng thích chỗ đó, và York cũng không muốn tôi ở đó. Cha và con gái tôn trọng sự riêng tư của nhau, nói chung là chuyện ăn ở.”
“Cũng đúng,” Lane nói mà chẳng cười. “Vậy tức là cô có tới phòng thí nghiệm trên gác sau khi ông Hatter biến mất?”
“Không.”
Ông khẽ khom người lại cúi chào. “Cảm ơn cô.”
“Xong rồi,” thanh tra Thumm ngắt lời.
Hai người đàn ông và cô gái sốt sắng rời khỏi phòng. Bên ngoài hành lang Chester Bigelow tóm lấy khuỷu tay của Jill đầy níu kéo, và cô ta mỉm cười đáp lại. John Gormly, vẻ cau có, nhìn họ sóng bước đi vào phòng khách. Anh ta đứng do dự một lát, rồi tỏ ra hơi lưỡng lự giữa việc đi về phía hành lang nào, trong khi mấy viên thám tử quanh đó đang ơ hờ dõi theo. Ba nhân vật chính trong thư viện nhìn nhau. Dường như ngôn từ trở nên thừa thãi. Thanh tra Thumm ra chỗ cửa và bảo một thám tử đi gọi y tá của Louisa Campion.
Nằm ngoài mọi dự đoán, cuộc thẩm vấn bà Smith đã mở ra vô số điểm thú vị. Bà y tá đẫy đà đã làm dịu cơn hoang mang bằng tinh thần nghề nghiệp, và đã rất nhanh, rất chắc chắn trong những câu trả lời. Hôm trước bà có thấy cây đàn mandolin trong tủ không? Bà ta không nhớ. Ngoài bà Hatter, bà là người thường xuyên nhất ghé qua phòng ngủ của Louisa Campion? vâng. Bà từng thấy cây đàn mandolin trong phòng Louisa vì lý do nào đó không? - Đây là câu hỏi của Drury Lane. Không, nó được đặt trong tủ kính kể từ khi York Hatter biến mất và theo tôi biết thì nó chưa hề được lấy ra vì lý do nào cả.
Lane: “Có ai ngoài bà Hatter từng ăn bát trái cây của cô Campion không?”
Bà Smith: “Ồ, không. Phòng của Louisa bị xa lánh bởi phần còn lại của gia đình, thưa ông, và chẳng ai dám, sau khi bà Hatter cấm đoán, lấy bất cứ thứ gì thuộc về Louisa… con người tội nghiệp. Tất nhiên, thỉnh thoảng lũ trẻ sẽ lẻn vào và ăn cắp một quả táo hay đại loại thế, nhưng điều này không xảy ra thường xuyên, vì bà Hatter rất nghiêm khắc với chúng, và lần cuối cùng chuyện đó xảy ra là khoảng ba tuần trước, bà chủ đánh Jackie và mắng Billy. Nhặng xị cả lên, và như thường lệ Jackie kêu la oai oái, và mẹ thằng bé lại bắt đầu ca cẩm về chuyện bà Hatter đánh lũ trẻ; hậu quả khá là tồi tệ. Đó không phải là lần đầu tiên; bà Hatter - ý tôi là Martha - thường thì Martha hiền như đất, nhưng cô ta sẽ điên lên khi bản năng người mẹ được đánh thức, rồi cô ta và bà Hatter - bà mẹ chồng ấy - nhảy vào cãi nhau liên hồi về quyền bảo ban bọn trẻ… Ôi, tôi xin lỗi, thưa ông. Tôi nói nhiều quá.”
“Không, không, bà Smith, chúng tôi thích nghe hết.”
Công tố viên Bruno: “Chuyện trái cây, ngài Lane, trái cây. Bà Smith, bà có để ý thấy bát trái cây được đặt trên bàn tối qua không?”
Bà Smith: “Có, thưa ngài.”
“Thế chỗ trái cây trong bát có giống với hôm nay không?”
“Tôi nghĩ có, thưa ngài.”
Thanh tra Thumm: “Lần cuối cùng bà trông thấy bà Hatter là khi nào?”
Bà Smith (bắt đầu tỏ ra lo lắng): “Tối qua khoảng mười một rưỡi.”
“Kể chi tiết đi.”
“Như thường lệ, bà Hatter tự mình kiểm tra giường chiếu cho Louisa, nhưng tôi vẫn vào xem lại lần cuối thì thấy cô chủ đã lên giường rồi. Tôi vỗ nhẹ vào má cô chủ và sử dụng bảng để hỏi cô ấy xem có cần gì trước khi tôi về phòng không. Cô ấy bảo là không - ý tôi là, cô ấy thông báo cho tôi bằng ngôn ngữ ký hiệu.”
“Chúng tôi hiểu mà. Mời tiếp tục.”
“Sau đó, tôi hỏi xem cô ấy có muốn ăn chút trái cây không, rồi tôi quay sang chỗ cái bát. Cô ấy nói không.”
Lane (vẻ chậm rãi): “Thế bà có xem xét chỗ trái cây?”
“Ồ, có chứ.”
“Có bao nhiêu quả lê ở đó?”
Bà Smith (cặp mắt to đầy cảnh giác): “Ô! Tối qua chỉ có hai quả thôi, và sáng nay thì lại thành ba! Giờ tôi mới nhớ ra…”
“Chắc chắn chứ, bà Smith? Chuyện này tối quan trọng đấy.”
Bà Smith (vẻ hăm hở): “Vâng, thưa ngài. Có hai quả. Tôi xin thề.”
“Có quả nào bị hỏng không?”
“Hỏng ư? Không, thưa ngài. Cả hai đều chín và tươi ngon.”
“Vậy đấy! Cảm ơn, bà Smith.”
Thanh tra Thumm (gàu gợn): “Thế thì sao chứ - được rồi, bà Smith. Vậy bà Hatter đã làm gì suốt thời gian đó?”
“Bà chủ mặc váy ngủ và chuẩn bị lên giường. Bà ấy… chà, các vị biết phụ nữ làm gì trước khi ngủ rồi đấy.”
“Tôi biết thừa. Tôi là người đã có gia đình. Bà ta đã làm gì?”
“Càu nhàu, gắt gỏng, nhưng không có gì bất thường. Bà ta vừa tắm xong, và thực ra có vẻ tâm trạng cũng tốt hơn - về phần bà ấy ý tôi là - so với bình thường.”
“Vậy nên cái hộp phấn rôm mới được đặt trên bàn!”
“Không, thưa ngài. Hộp phấn luôn ở trên bàn. Cô Louisa tội nghiệp thích những mùi dễ chịu, và cô ấy thích mùi của bột talc - cô ấy luôn tự mình thoa phấn rôm.”
“Bà có trông thấy cái hộp trên bàn không?”
“Có, thưa ngài.”
“Nó có mở không?”
“Không, thưa ngài, vẫn đậy nắp.”
“Đậy chặt?”
“À, không, tôi nhớ ra rồi; nó có vẻ đậy hờ thôi.”
Drury Lane gật đầu và mỉm cười rất vừa ý, còn thanh tra Thumm công nhận chiến thắng nhỏ này bằng một cái gật đầu miễn cưỡng.
Công tố viên Bruno: “Bà Smith, bà có chứng chỉ y tá chứ?”
“Có, thưa ngài.”
“Bà đã làm việc cho bà Hatter bao lâu rồi?”
“Bốn năm. Ồ, tôi biết mức thời gian dài thế này là ngoại lệ, nhưng tôi thì già rồi, mà thù lao lại hấp dẫn, và tôi không thích phải lo tìm việc - đây là một công việc dễ dàng, thưa ngài. Bên cạnh đó tôi dần thương mến Louisa tội nghiệp - cuộc đời cô ấy chả được mấy. Thực ra, kỹ năng điều dưỡng của tôi không được áp dụng nhiều ở đây. Tôi như người đồng hành cùng Louisa hơn là một y tá. Tôi thường ở cùng với cô ấy vào ban ngày, trong khi bà Hatter chăm sóc cô ấy vào ban đêm.”
“Xin đừng kể dông dài, bà Smith. Sau khi rời phòng ngủ tối qua, bà đã làm gì?”
“Tôi qua phòng riêng của tôi bên cạnh và nghỉ ngơi.”
“Bà có nghe thấy gì trong đêm không?”
Bà Smith (đỏ mặt): “Không, thưa ngài. Tôi ngủ say lắm.”
Thanh tra Thumm (mắt nhìn bà Smith không rời): “Tôi hiểu mà, không sao. Bà có nghĩ ra ai muốn đầu độc người bệnh câm điếc của mình không, bà Smith?”
Bà Smith (mắt nhấp nháy): “Không, ồ, không!”
“Bà có biết rõ về ông York Hatter không?”
Bà Smith (vẻ nhẹ nhõm): “Có, thưa ngài. Ông ấy là một người nhỏ bé trầm tĩnh, bị bà vợ chèn ép.”
“Bà có quen thuộc với công việc nghiên cứu hóa học của ông ta?”
“Một chút. Có lẽ vì tôi là y tá nên ông ta thấy chúng tôi được kết nối theo cách nào đó.”
“Đã bao giờ bà vào trong phòng thí nghiệm của ông ta?”
“Một vài lần. Có một lần ông ấy đã mời tôi đến xem thử nghiệm với một loại huyết thanh trên lũ chuột lang - ông ấy tiêm vào chúng. Rất thú vị và bổ ích. Tôi nhớ tới một vị bác sĩ tài năng tôi từng…”
Lane: “Tôi cho rằng dụng cụ y tá của bà có một ống tiêm dưới da?”
“Vâng, thưa ngài, hai ống cơ. Một ống tiêm lớn và một ống tiêm nhỏ.”
“Bà vẫn giữ cả hai chứ? Không có chiếc nào bị đánh cắp khỏi hộp?”
“Không, thưa ngài! Mới vài phút trước thôi tôi còn ngó qua chúng, vì tôi thấy cái ống tiêm tìm thấy trong phòng Louisa - bác sĩ Schilling đúng không nhỉ? - ông ấy mang nó theo khi vào phòng tôi, và tôi nghĩ có thể ống tiêm của tôi đã bị người khác đánh cắp. Nhưng cả hai đều còn trong hộp.”
“Bà có nảy ra ý nào về xuất xứ của cái ống tiêm được tìm thấy không?”
“Vâng, tôi biết có vài chiếc trong phòng thí nghiệm trên gác…”
Thanh tra Thumm và công tố viên Bruno (đồng loạt): “À há!”
“… vì ông Hatter sử dụng chúng trong thí nghiệm của mình.”
“Ông ta có bao nhiêu ống tiêm?”
“Tôi thực sự không rõ. Nhưng ông ấy giữ danh sách thống kê của tất cả mọi thứ trong phòng thí nghiệm của mình trong một tủ thép, các ngài có thể tìm thấy thông tin về số lượng ống tiêm trong đó.”
“Vào đi, anh Perry,” thanh tra Thumm nói, với giọng phỉnh phờ của một con nhện đói. “Mời vào. Chúng tôi muốn nói chuyện với anh.”
Edgar Perry ngập ngừng ở ngưỡng cửa. Có thể biết ngay anh ta là loại người sẽ luôn ngần ngại trước khi hành động. Cao và gầy, một người ở độ tuổi giữa bốn mươi, nhưng anh ta lại rất giống một sinh viên. Khuôn mặt gần như cạo nhẵn và hơi xanh, trông thật khổ hạnh, nhạy cảm và ưa nhìn. Anh ta trông khá trẻ so với tuổi của mình; rất dễ bị nhầm tưởng, Drury Lane lưu ý, chủ yếu bởi đôi mắt sáng và có chiều sâu. Anh ta từ từ đi đến và ngồi xuống chiếc ghế viên thanh tra chỉ tay.
“Anh là gia sư của bọn trẻ, đúng không nhỉ?” Lane hỏi, cười thân mật với Perry.
“Vâng. Vâng,” Perry nói bằng giọng khàn khàn. “Các ngài muốn gì ở tôi, thưa thanh tra Thumm?”
“Chỉ nói chuyện chút thôi,” ngài thanh tra đáp. “Chẳng có gì đặc biệt đâu.”
Bọn họ ngồi hết xuống và nhìn chằm chằm vào nhau. Perry tỏ ra căng thẳng, gần như anh ta liếm môi liên hồi, rồi lại ngắm nghía tấm thảm dưới chân khi nhận ra sự nghi ngờ trong những ánh mắt đang hướng thẳng về phía mình… Vâng, anh ta biết cây đàn mandolin chưa được chạm vào. Không, anh ta chưa từng vào phòng thí nghiệm của York Hatter. Anh ta không đặc biệt hứng thú với khoa học, bên cạnh đó lệnh cấm của bà Hatter rất ngặt. Anh ta bắt đầu làm gia sư của gia đình Hatter ngay sau dịp năm mới vừa rồi; gia sư cũ của bọn trẻ đã nghỉ việc sau khi cãi nhau với Martha, bởi lý do là bà mẹ đã kịch liệt phản ứng khi bắt gặp người gia sư đánh cậu con Jackie lúc thằng bé cố gắng nhấn chìm một con mèo trong bồn tắm.
“Vậy là anh xử lý được lũ trẻ ranh đó?” viên thanh tra lạnh lùng hỏi.
“Ồ, cũng tạm. Vâng. Tôi xử lý đâu vào đấy,” Perry lẩm bẩm. “Dù ban đầu chúng không chịu khi tôi áp dụng quy trình,” anh ta mỉm cười vẻ hối lỗi, “đó là thưởng và phạt, và nó đã khá thành công.”
“Anh thấy làm việc ở đây khá khó khăn đúng không nào,” Thumm nói, không thèm giấu giếm.
“Đôi khi,” Perry thú nhận với vẻ cao hứng. “Bọn trẻ có xu hướng thích chạy nhảy, và tôi sợ là - đây không phải là phê phán gì đâu nhé, xin hiểu cho! - tôi sợ là cha mẹ chúng không phải là những người biết nề nếp kỷ luật.”
“Đặc biệt là cha chúng,” Thumm nhận xét.
“Vâng, có lẽ anh ta không phải là ví dụ gương mẫu cho con cái,” Per