← Quay lại trang sách

CẢNH 4 Lâu Đài Hamlet - Thứ Tư, Ngày 8 Tháng Sáu - 3:00 P.M

Thứ Tư trời trong xanh, nhưng lạnh. Miền Hudson trông như biển mùa đông; tiếng rì rào vi vút của gió thổi qua các tán lá dày đặc như âm thanh của đại dương. Trời tháng Sáu trên cây, và tháng Mười hai trong không trung.

Chiếc xe cảnh sát vượt qua các bậc dốc, cây cầu sắt, đoạn đường sỏi, khoảng rừng quang, rồi vườn cây trong im lặng, cả công tố viên Bruno lẫn thanh tra Thumm đều không muốn trò chuyện, ông già Quacey, với cái bướu nhô lên kỳ cục hơn bao giờ hết, gặp họ tại chỗ cửa sắt bao ngoài và dẫn họ qua sảnh chính, với sàn nhà được đầm phẳng, ngọn đèn nến khổng lồ, những hiệp sĩ trong bộ giáp sắt và những chiếc mặt nạ to lớn của sân khấu kịch, đến chỗ thang máy nhỏ ẩn trong bức tường đằng xa. Một quãng đường ngắn và họ bước vào căn phòng riêng của Drury Lane.

Người nghệ sĩ già, trong chiếc áo khoác nhung màu nâu, đang đứng thẳng như một cây thương trước những ngọn lửa nhảy nhót trong lò sưởi. Ngay cả dưới ánh sáng, với những thay đổi tức thời của giọng nói và sự nhấp nhô của hình bóng, họ vẫn trông thấy sự lo lắng in dấu trên khuôn mặt của ông. Lane trông hốc hác, như không phải là chính mình. Ông chào họ, và với thói quen lịch sự, kéo chuông dây và ra lệnh cho Falstaff nhỏ bé phục vụ cà phê và rượu, bảo Quacey - người đang đánh hơi khắp nơi như chó săn - ra khỏi phòng, và ngồi yên vị trước lò sưởi. “Đầu tiên,” ông khẽ nói, “thông báo tình hình đi, thanh tra, nếu có chút tin tức nào đó.”

“Rất nhiều. Chúng tôi đã lần theo hồ sơ của Perry.”

“Hồ sơ?” lông mày của Lane nhướng lên.

“Không phải là hồ sơ phạm tội. Ý tôi là quá khứ của anh ta. Ông sẽ chẳng đoán ra anh ta là ai, tên thật là gì đâu.”

“Tôi đâu có giỏi tiên tri, thanh tra,” Lane đáp với một nụ cười yếu ớt. “Anh ta không phải là đứa con thất lạc đấy chứ?”

“Ai cơ? Nghe này, ngài Lane, chuyện hệ trọng đấy,” viên thanh tra gắt. “Tên thật của Edgar Perry là Edgar Campion!”

Lane vẫn lặng im trong một khoảnh khắc thoáng qua. “Edgar Campion,” sau một lúc ông mở lời. “Thật à. Là con trai của người chồng đầu tiên của bà Hatter?”

“Đúng thế! Chuyện là: khi Emily Hatter còn là Emily Campion, kết hôn với Tom Campion, giờ đã quá cố, ông ta đã có một đứa con trai với người vợ cũ. Tên anh ta là Edgar Campion. Anh ta là anh cùng cha khác mẹ với Louisa Campion.”

“Hừm.”

“Điều tôi quan tâm,” Bruno nói vẻ rất ư bất mãn, “là tại sao Edgar, hoặc Perry, lại giả làm gia sư và đến sống trong gia đình Hatter. Thumm nói rằng Barbara Hatter đã giúp anh có được việc làm…”

“Đó là nói nhảm thôi,” viên thanh tra đáp. “Tôi biết ngay khi cô ấy bảo thế. Barbara không quen anh ta trước khi anh ta nhận được công việc, tôi nhận ra điều đó. Và hơn nữa, chắc chắn cô ấy không biết thực ra anh ta là ai. Cô ấy đang yêu. Yêu!”

“Bà Hatter có biết rằng Edgar Perry là con trai riêng của chồng cũ, tức Edgar Campion?” Lane trầm ngâm hỏi.

“Không - sao thế được, trừ phi anh ta nói với bà ấy? Thông tin cho thấy Perry chỉ sáu hoặc bảy tuổi khi cha và Emily ly dị. Bà ta không thể nhận ra một người đã bốn mươi bốn.”

“Ngài đã nói chuyện với anh ta chưa?”

“Anh ta sẽ chẳng mở miệng đâu, khốn kiếp.”

“Thumm đang cho giám sát anh ta,” Bruno nói.

Lane căng người, sau đó thả lỏng với một cái lắc đầu. “Thanh tra thân mến của tôi,” ông nói, “thật hấp tấp, quá hấp tấp. Ngài dựa trên cơ sở nào để giữ anh ta?”

“Không thích ý tưởng đó sao, ngài Lane?” Thumm nói với một nụ cười nham hiểm. “Đừng lo lắng về chuyện đó; tôi bắt anh ta có lý do chính đáng. Không, thưa ông, anh ta quá nguy hiểm để được phép chạy lung tung.”

“Ngài nghĩ anh ta sát hại bà Hatter?” Lane hỏi khô khốc.

Thanh tra nhún vai. “Có thể có, cũng có thể là không. Có lẽ là không, bởi vì tôi không thể xác định được động cơ, tất nhiên rồi, tôi đâu có bằng chứng. Nhưng anh ta biết điều gì đó, tôi cam đoan thế. Chẳng ai lại che đậy danh tính của mình và có được một công việc trong ngôi nhà nơi xảy ra một vụ giết người như…” Thumm bật ngón tay tanh tách, ”như thế này, trời ạ.”

”Còn bờ má mềm mịn, thanh tra?”

“Bánh. Chúng ta không loại trừ khả năng có một kẻ đồng lõa đúng không? Hoặc là Louisa đã nhầm lẫn.”

“Nào, nào,” vị công tố viên sốt ruột nói. “Chúng ta chẳng đi một chặng đường xa từ thành phố đến đây để nghe quan điểm của ngài đâu, Thumm à. Ý kiến của ngài thế nào, ngài Lane?”

Lane chẳng nói gì một lúc lâu. Trong lúc đó Falstaff mang đồ uống vào, và Thumm làm dịu sự khó chịu của mình bằng một tách cà phê đen nghi ngút. Khi Falstaff đi ra, Lane mở lời.

“Tôi đã suy ngẫm về chuyện này, thưa các quý ông,” ông nói bằng giọng nam trung ấm áp được xử lý khéo léo, “kể từ hôm Chủ nhật, và kết quả là suy ngẫm của tôi khá - nên nói gì đây - rối bời.”

“Ý ngài là sao?” Thumm thắc mắc.

“Một số vấn đề nhất định thì rất rõ ràng - rõ ràng như trong vụ Longstreet chẳng hạn…”

“Ý ngài là ngài đã tìm ra hung thủ?” Bruno nói.

“Không. Không.” Lane lại lặng im trong khoảnh khắc. “Đừng hiểu nhầm thế. Còn lâu - lâu nữa tôi mới tìm ra. Vì những vấn đề khác thì lại thật đáng ngờ; và không chỉ đáng ngờ thôi đâu, các ngài ạ, mà còn bất thường.” Giọng nói của Lane hạ xuống mức thì thầm. “Bất thường,” ông nói, và họ nhìn ông chằm chằm vẻ căng thẳng.

Lane đứng dậy và đi tới đi lui trên tấm thảm trước lò sưởi. “Tôi không thể diễn tả tôi đã bối rối thế nào. Vô cùng bối rối! Tôi bắt đầu nghi ngờ những điều tai nghe mắt thấy - bằng bốn giác quan còn lại của tôi.” Hai người còn lại nhìn nhau trong sự hoang mang. “Nhưng đủ rồi,” Lane đột ngột nói. “Giờ tôi có thể nói rằng tôi đã đi đến một quyết định. Có hai hướng điều tra rõ ràng đang mở trước tôi, và tôi định hướng theo chúng. Cả hai hướng này vẫn chưa được thử.”

“Hướng điều tra?” viên thanh tra cắt ngang vẻ gay gắt. “Ngài lại thế nữa rồi! Vậy ngài nói xem còn hướng điều tra chết tiệt nào chưa được đụng đến nào?”

Lane chẳng cười, cũng chẳng dừng nhịp bước. “Mùi,” ông lẩm bẩm, “mùi vani. Chính nó. Bất thường - nó đã khiến tôi đau đầu. Tôi có một giả thuyết về nó và tôi định đi theo hướng đó. Nếu được thì mong ông trời mỉm cười với tôi…” Ông nhún vai. “Giả thuyết còn lại thì thời điểm hiện tại tôi chưa muốn đề cập đến. Nhưng nó thật tuyệt vời, đáng kinh ngạc, nhưng cũng rất hợp lý…” Ông tiếp tục nói mà không cho hai người còn lại cơ hội cắt ngang để đặt những câu hỏi đang lơ lửng trên môi họ. “Thanh tra, nói cho tôi điều ngài tin tưởng, nói chung ấy, về vụ này. Chúng ta nên thẳng thắn với nhau là tốt nhất, và đôi khi những cái đầu chụm lại sẽ hơn tư duy độc lập.”

“Là ngài nói đấy nhé,” Thumm nhanh nhảu đáp. “Cùng suy ngẫm nhé. Với tôi chuyện rất rõ ràng; kẻ hạ độc lẻn vào phòng ngủ đêm thứ Bảy tuần trước, hay đúng hơn là những thời khắc đầu tiên của sáng Chủ nhật, với ý định đầu độc quả lê. Quả lê đó là dành cho Louisa; kẻ hạ độc đã biết cô ấy sẽ ăn nó vào buổi sáng. Lúc hắn còn trong phòng, bà Hatter tỉnh dậy, gây náo động hoặc kêu lên, và trong cơn hoảng hốt kẻ hạ độc đã đập vào đầu bà ta. Có lẽ chẳng hề có ý giết người; mà chỉ để bà ta yên lặng. Cái chết của bà già quỷ quái đó, tôi nghĩ, chỉ là một tai nạn. Bruno cũng đồng ý với tôi, và tôi không thấy lý do nào để nghi ngờ điều đó cả.”

“Nói cách khác,” Drury Lane thì thầm, “ngài và Bruno tin rằng vụ sát hại bà Hatter không được toan tính trước, một tội ác bất chợt trong tình huống không lường trước được?”

“Phải,” Thumm nói.

“Tôi hoàn toàn đồng ý,” Bruno nói.

“Vậy thì, thưa các quý ông,” Lane nhỏ nhẹ nói, “cả hai đều sai rồi.”

“Tôi… ý ngài là sao?” Bruno thắc mắc vẻ sửng sốt.

“Ý tôi là thế đấy. Tôi chẳng thắc mắc gì ngoài chuyện vụ sát hại bà Hatter là có toan tính, rằng bà ta sẽ trở thành nạn nhân thậm chí từ trước khi hung thủ bước vào căn phòng đó, và thêm nữa, rằng Louisa Campion chưa bao giờ là mục tiêu để hạ độc cả!”

Họ lặng lẽ suy ngẫm về ý tưởng này, và sự bối rối hiện lên trong mắt hai người còn lại, phán đoán bị đình trệ để chờ một lời giải thích. Lane lôi nó ra bằng một phong thái điềm tĩnh, thận trọng. “Chúng ta bắt đầu,” ông nói, sau khi ngồi xuống trước lò sưởi và làm ẩm đôi môi bằng rượu, “từ bản thân Louisa Campion. Những sự việc bề nổi là gì vậy? Từ vết tiêm và quả lê độc thì có vẻ như rõ ràng là thủy ngân clorua được nhắm vào Louisa - cô ấy thích ăn trái cây, trong khi bà Hatter, người duy nhất cũng thường xuyên ăn trái cây từ cái bát đó, thì ăn gì cũng được, chỉ đặc biệt ghét lê. Một quả lê đã bị đầu độc. Có vẻ như kẻ hạ độc cố tình chọn loại trái cây mà Louisa sẽ ăn và bà Hatter sẽ không ăn. Nhìn bề ngoài thì nỗ lực này chủ yếu là để lấy mạng Louisa, do động cơ thúc đẩy, giả thuyết này lại càng được duy trì khi biết rằng vào thời điểm hai tháng trước vụ thứ hai này, vụ hạ độc đầu tiên đã được thực hiện và chỉ bị phá hỏng vào phút cuối cùng.”

“Đúng thế, ngài Lane,” viên thanh tra đáp, “đó là cách mà tôi nhìn nhận. Và nếu ngài có thể chứng minh còn một con đường khác nữa, thì ngài giỏi hơn tôi rồi.”

“Tôi có thể chứng minh điều đó, thanh tra à,” Lane điềm tĩnh trả lời. “Hãy dõi theo tôi thật sát sao. Nếu kẻ hạ độc muốn Louisa Campion ăn quả lê độc, thì cả hai ngài đều đúng. Nhưng có đúng hắn ta muốn như vậy không?”

“Tại sao, tất nhiên là thế rồi.” Bruno nói trong sự hoang mang.

“Tiếc là phải bác bỏ ngài, nhưng hắn ta không muốn vậy. Vì những lý do sau đây: Chúng ta có thể giả định ngay từ đầu rằng người bỏ thuốc độc, dù có là một thành viên gia đình hay không, chí ít cũng thân thuộc với từng chi tiết vụn vặt trong gia đình. Giả định này là có cơ sở, chẳng hạn, rằng Louisa sẽ uống cocktail lúc hai giờ rưỡi mỗi buổi chiều trong phòng ăn. Chẳng hạn như hắn ta biết về ngôi nhà đủ để phát hiện ra điều gì đó mà có vẻ không còn ai khác biết - bí mật của ống khói và lò sưởi nối phòng thí nghiệm với phòng ngủ. Chẳng hạn như hắn ta biết chính xác chỗ cây đàn mandolin được cất. Chắc chắn hắn ta rất quen với căn phòng thí nghiệm và đồ đạc trong đó. Vậy là quá đủ để thiết lập luận điểm rằng hung thủ cực kỳ thân thuộc với từng chi tiết cần thiết cho kế hoạch của hắn. Nào, nếu hắn biết những điều này, chắc chắn hắn cũng biết là Louisa là khó tính về mặt ăn uống, và do đó sẽ nhận thức được rằng cô không ăn trái cây hư hỏng hoặc quá chín. Dù sao thì sẽ chẳng mấy người chọn quả lê đó - đặc biệt là khi còn những quả chín, tươi, chưa bị hỏng trong chính cái bát có quả thối. Và phân tích của bác sĩ Schilling cho thấy lê đã hư hỏng trước khi bị tiêm thủy ngân clorua . Do đó, kẻ hạ độc đã cố tình chọn quả lê hỏng.”

Họ lắng nghe như bị thôi miên. Lane khẽ mỉm cười. “Các vị không thấy thực tế đó thật lạ sao? Với tôi điều đó thật bất thường. Nào, các ngài có thể phản đối, các ngài có thể nói rằng đó là sự tình cờ - trong bóng tối của phòng ngủ hắn ta có thể đã vô tình chọn phải quả lê hỏng trong cái bát mà chẳng nhận ra. Ngay cả thế thì lý lẽ này cũng không hoàn toàn thuyết phục, thật dễ để nói rằng chỉ cần chạm vào là biết trái cây hỏng chỗ nào; những ngón tay có thể sờ được chỗ vỏ hỏng. Nhưng chúng ta cứ giả sử là như vậy đi - rằng việc chọn quả lê hỏng chỉ là tình cờ thôi. Tôi có thể chứng minh rằng không phải như vậy.

“Bằng cách nào? Bởi thực tế là bà Arbuckle đã khai rằng mình chỉ đặt có hai quả lê trong bát vào buổi chiều trước cái đêm mà vụ giết người xảy ra; rằng quả thực là vào lúc mười một rưỡi đêm đó, bà Smith chỉ thấy có hai quả lê trong bát, và cả hai quả đều chín, tươi, và chưa hỏng. Tuy nhiên, buổi sáng hôm sau, chúng ta đã tìm thấy ba quả lê trong bát. Kết luận: kẻ hạ độc hẳn đã chuẩn bị sẵn quả lê thứ ba - quả bị hỏng, vì qua lời khai ta biết rằng hai quả lê vốn có đều còn tươi. Đó chính là bằng chứng việc tiêm chất độc vào quả lê hỏng là cố tình; rõ là kẻ hạ độc đã chuẩn bị sẵn quả lê đó rồi mang vào từ bên ngoài. Nhưng tại sao kẻ hạ độc lại cố tình đưa đến hiện trường tội ác một quả lê hỏng khi hắn biết nạn nhân toan tính của hắn sẽ chẳng ăn nó, quả tươi thì vẫn còn trong bát? Câu trả lời chỉ có thể là: Hắn ta chưa bao giờ có ý định để cô ta ăn nó cả, và tôi sẽ lấy danh tiếng của mình ra để đặt cược cho lý lẽ không thể nhầm lẫn này.”

Hai thính giả chẳng nói lấy nửa lời.

“Nói cách khác,” Lane tiếp tục, “cả hai ngài đều nhầm khi cho là hung thủ tin rằng Louisa Campion sẽ ăn quả lê độc. Hắn ta biết cô ấy sẽ không ăn; và vì hắn ta cũng biết rằng bà Hatter, người duy nhất cùng ăn trái cây trong cái bát đó, cũng sẽ không ăn lê… nên toàn bộ tình tiết về quả lê độc về lý mà nói sẽ chỉ như một trò đánh lạc hướng, một phương sách mà hung thủ chuẩn bị nhằm khiến cánh sát tin rằng Louisa là nạn nhân trong tầm ngắm.”

“Chờ một chút,” viên thanh tra nói nhanh. “Theo như ngài nói, nếu cô Campion không ăn trái cây, làm thế quái nào tên hung thủ có thể đảm bảo rằng kế hoạch hạ độc của hắn sẽ bị phát hiện ra?”

“Câu hỏi hay lắm, Thumm à,” vị công tố viên nói.

“Vì cho dù động cơ của hắn là gì,” Thumm tiếp tục, “mưu mẹo của hắn sẽ thành vô dụng trừ phi có ai đó phát hiện ra nó. Hiểu ý tôi chứ?”

“Tôi hiểu,” Lane điềm tĩnh trả lời. “Một suy nghĩ khôn ngoan, thanh tra à. Ngài nói rằng trừ phi quả lê có độc của kẻ chủ mưu được cảnh sát phát hiện ra, nếu không việc tiêm độc vào nó chẳng để làm gì cả. Nếu không có ai tìm thấy quả lê độc, sẽ chẳng ai biết rằng dường như có người đang cố đầu độc Louisa - là kết luận mà kẻ hạ độc đang cố đạt tới.

“Rất chính xác. Có ba cách khả dĩ để hắn ta đảm bảo rằng việc hạ độc sẽ được cảnh sát tìm ra - miễn là âm mưu sát hại bà Hatter chưa bị nhìn ra, xin nhắc như thế, mà chỉ là một tai nạn. Đầu tiên: bỏ lại ống tiêm trong phòng, như ngài đã thấy. Điều đó sẽ khơi dậy sự nghi ngờ, tất nhiên rồi, là cái cớ cho một cuộc điều tra, vì trước đó hai tháng từng có một vụ đầu độc rồi. Một giả thuyết khả dĩ, nhưng có vẻ như kẻ hạ độc đã đánh rơi cái ống tiêm trong lúc hốt hoảng thì đúng hơn. Thứ hai: bằng cách cố tình thêm vào một quả lê - quả có độc - và không lấy quả nào đi, thế là có ba quả cả thảy, và sẽ có người nhận ra đáng lý chỉ có hai quả thôi. Nhưng điều này cũng không chắc chắn; như thế thì quá may rủi và nhiều khả năng sẽ chẳng ai nhận ra quả lê được thêm vào. Thứ ba: chính hắn tạo ra sự chú ý, bằng cách nào đó, lấy cớ nọ kia, về phía quả lê hỏng. Tới nay đây là cách khả dĩ nhất trong cả ba cách.”

Thumm và Bruno gật đầu.

Lane lắc đầu. “Nhưng nếu tôi chỉ cho các ngài thấy rằng vụ giết bà Hatter không phải là một tai nạn, mà được mưu tính sẵn để xảy ra đồng thời với vụ đầu độc giả, thì các ngài sẽ thấy trong số ba khả năng đã kể kia, chẳng khả năng nào là cần thiết; như việc dựng bù nhìn rơm lên chỉ để sau đó hạ xuống vậy.

“Bởi lẽ, khi hung thủ lên kế hoạch để trở thành kẻ sát nhân chứ không phải kẻ hạ độc, thì hắn đã biết trước rằng quả lê độc phải được tìm thấy. Hắn sẽ để sự việc diễn tiến một cách tự nhiên, sẽ tính toán và trông chờ vào cuộc điều tra án mạng chính thức để khám phá ra quả lê độc. Sẽ không còn là chuyện may rủi nữa, mà gần như là điều chắc chắn. Việc hạ độc sẽ được tình cờ phát hiện, cảnh sát sẽ nói rằng mục đích chính của tội ác là đầu độc Louisa, răng chuyện bà Hatter bị sát hại chỉ là tai nạn; và theo cách này kẻ sát nhân sẽ hoàn thành mục đích thực sự của hắn: giết bà Hatter và làm cho cảnh sát tìm kiếm người nào đó với động cơ giết Louisa, loại trừ hoàn toàn vụ sát hại kia khỏi vòng nghi vấn.”

“Tôi sẽ bị nguyền rủa muôn đời,” viên thanh tra lẩm bẩm. “Thật tài tình, nếu đó là sự thật.”

“Nhưng đó là sự thật, thanh tra ạ. Ngài hãy nhớ rằng, ngay cả trước khi chúng ta tìm thấy ống tiêm trên giường, ngài đã nhấn mạnh rằng ngài sẽ xem xét chung quanh để đảm bảo không có gì bị đầu độc, trên cơ sở đã có một vụ đầu độc từ hai tháng trước. Điều đó chứng tỏ rằng tên hung thủ đã dự đoán chính xác phản ứng từ phía cảnh sát. Ngay cả khi chúng ta không phát hiện ra cái ống tiêm - quan điểm mà tôi giữ nguyên từ những sự việc tình cờ - ngay cả khi chỉ có hai quả lê đã được tìm thấy, chắc chắn các ngài cũng sẽ đi theo giả thuyết đầu độc và phát hiện ra quả lê độc.”

“Đúng vậy, Thumm,” vị công tố viên nói.

Lane duỗi đôi chân dài và nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. “Bây giờ, tôi sẽ chứng minh rằng vụ sát hại bà Hatter đã được lên kế hoạch từ trước, không phải là một tai nạn tình cờ. Điểm đầu tiên rất rõ ràng. Cây đàn mandolin được dùng làm vũ khí giết người vốn không phải là đồ trong phòng ngủ, chỗ của nó đúng ra là ở thư viện dưới lầu trong một tủ kính, nó bị cấm tiếp cận và chưa từng được đụng đến. Thực tế, nó vẫn nằm trong tủ kính khi Conrad Hatter trông thấy nó lúc một rưỡi đêm - hai tiếng rưỡi trước khi nó tước đi mạng sống của bà Hatter; và trong tối đó những người khác cũng trông thấy nó. Vậy thì có thể chắc chắn một điều: kẻ giết người, dù là người trong nhà hay không, đã buộc phải có một chuyến đi đặc biệt để lấy cây đàn mandolin, hoặc đã phải chuẩn bị sẵn từ trước chuyến viếng thăm đến phòng ngủ…”

“Chờ chút,” Bruno cắt ngang, chân mày nhíu lại, “sao ngài lại khẳng định như thế?”

Lane thở dài. “Nếu hung thủ là người trong gia đình, hắn ta phải đi xuống từ gác hai hoặc tầng áp mái để lấy nó. Nếu là người ngoài, hắn ta không thể vào nhà qua tầng trệt, vì tất cả cửa ra vào và cửa sổ đều bị khóa; do đó hắn đã đột nhập thông qua thang thoát hiểm để lên được tầng hai; hoặc cũng có thể leo lên mái nhà và vào bằng ống khói. Dù là trường hợp nào, hắn đều cần đi xuống cầu thang để lấy cây đàn…”

“Tôi hiểu rồi,” Bruno công nhận, “nhưng giả sử có ai đó trong nhà đã cầm cây đàn lên gác, còn hung thủ từ bên ngoài đột nhập vào nhà sau đó? Trường hợp có hai người cùng thực hiện ấy.”

“Rất tốt,” Lane mỉm cười. “Giả sử một trong những người vào nhà sau cùng đã mang cây đàn mandolin đi trên đường lên gác phải không nào? Chẳng phải thế thì sẽ không hoàn toàn là một kế hoạch, một mục tiêu đã định sẵn, một mưu tính có chủ ý sao?

“Được rồi,” Thumm nói. “Tiếp đi.”

“Sau đó, cây đàn mandolin được kẻ giết người cố ý mang vào phòng ngủ, cho một mục đích đặc biệt. Mục đích đó có thế là gì đây, thưa các quý ông? Hãy cùng phân tích và loại trừ.

“Thứ nhất: cây đàn mandolin cũ nát có thể được đưa vào phòng ngủ cho một mục đích cơ bản, đó là để sử dụng công năng chính của nó, như một nhạc cụ…” Viên thanh tra khẽ cười, còn Bruno lắc đầu. “Buồn cười cũng phải. Thật vô lý, thậm chí chẳng cần bàn luận.

“Thứ hai: nó có thể được đưa vào phòng ngủ với mục đích để lại một dấu vết giả mạo, một manh mối được cố tình ngụy tạo nhằm hướng tới một người nào đó. Nhưng ai? Chỉ có một người duy nhất thân thuộc với cây đàn mandolin, nhìn thấy nó là sẽ nghĩ ngay đến người đó và chỉ mình người đó thôi; đó chính là chủ sở hữu của nó, York Hatter. Nhưng York Hatter đã chết rồi. Vì vậy, phỏng đoán thứ hai của chúng ta cũng sai nốt.”

“Chờ đã, chờ đã,” viên thanh tra chậm rãi nói. “Đừng đi nhanh thế. Đúng là York Hatter đã chết, thì cũng có thể kẻ nào đó gây ra những tội ác kia không biết chắc về chuyện đó lắm chứ; hoặc là, giả sử biết chắc đi nữa, hắn ta đang cố khiến chúng ta tin rằng York Hatter chưa chết vì thi thể được nhận dạng trong tình huống không rõ ràng. Ngài nghĩ sao về điều này?”

“Tôi xin chúc mừng, thanh tra à,” Lane cười khẩy. “Một suy tư phức tạp và tài tình. Nhưng tôi tin rằng mình vẫn có thể bác bỏ khả năng mơ hồ này. Đó sẽ là một hành động ngớ ngẩn của kẻ chủ mưu vì hai lý do sau đây: Thứ nhất, nếu cảnh sát bị lừa rằng York Hatter còn sống và ông ta vô tình để lại cây đàn mandolin của mình trên hiện trường tội ác, thì trò lừa đó hẳn phải qua được mắt cảnh sát. Nhưng sao cảnh sát có thể tin rằng ông Hatter có thể để lại một manh mối hiển nhiên đến vậy? Tất nhiên là không rồi; ông ta sẽ là người cuối cùng trên thế giới để lại một dấu vết trần trụi và rõ ràng như vậy, và chắc chắn cảnh sát sẽ nhận ra đó là một trò lừa, không phải một manh mối đích thực. Thứ hai: tại sao rốt cục lại là một thứ kỳ lạ như cây đàn mandolin? Đó là đồ vật ít liên quan nhất đến chuyện máu me có thể hình dung ra được. Cảnh sát, biết rằng ông Hatter dù thế nào sẽ không thể để lại hiện trường vật chứng của riêng mình, sẽ lý luận rằng nó đã được để lại bởi một kẻ khác nhằm đổ tội cho ông Hatter, vậy nên mục đích của kẻ chủ mưu sẽ không đạt. Không, thanh tra à, đầu óc tên hung thủ sẽ chẳng nghĩ ra một mục tiêu lộ liễu như vậy đâu. Việc sử dụng cây đàn mandolin có vẻ thật lạ, nhưng lại gắn kết chặt chẽ với âm mưu của hung thủ.”

“Tiếp đi, ngài Lane,” vị công tố viên nói với một cái liếc mắt khó chịu dành cho người đồng nghiệp. “Thumm, ngài nghĩ ra những điều vô lý nhất!”

“Đừng trách thế, Bruno à,” Lane nói. “Ông ấy hoàn toàn có quyền đưa ra những khả năng xa vời, hoặc thậm chí là không tưởng. Lý lẽ chỉ tuân theo chính nó mà thôi.

“Vậy nếu cây đàn mandolin không được đưa vào phòng ngủ như một nhạc cụ, hoặc như là một manh mối giả hướng đến York Hatter, thì mục đích khả dĩ của tên hung thủ là gì? Tôi đố các ngài tìm được động cơ hợp lý nào khác ngoài chuyện sử dụng nó như một vũ khí.”

“Một thứ vũ khí quá nực cười,” Thumm lẩm bẩm. “Ngay từ đầu nó đã khiến tôi băn khoăn.”

“Tôi thông cảm với ông, thanh tra à,” Lane thở dài, “vì đã tỏ thái độ hay đặt ra câu hỏi đó. Nó là một vũ khí kỳ quặc, như ông nói, và khi chúng ta đào xuống đáy vụ này…” Ông dừng lại, có gì đó thật buồn trong đôi mắt. Rồi ông ngồi thẳng dậy, và giọng nói trầm lại vang lên. ”Vì chúng ta không thể trả lời câu hỏi này bây giờ, chúng ta hãy quên nó đi. Nhưng chắc chắn, dù là lý do gì, cây đàn mandolin được đưa vào phòng ngủ để sử dụng như một vũ khí, và là mấu chốt quan trọng tại thời điểm đó.”

“Dĩ nhiên,” Bruno khẽ nói, “theo như ngài nói, nếu cây đàn mandolin là một vũ khí, thì ngay từ đầu mục đích mang nó theo là để gây sát thương; nghĩa là nó như một công cụ của hành vi phạm tội, hoặc giết người.”

“Đừng suy diễn thế chứ,” Thumm gắt lên trước khi Lane có thể trả lời. “Sao ngài biết nó được sử dụng như là một vũ khí tấn công? Sao ngài biết nó không phải là một vũ khí tự vệ - không hề nhằm để tấn công bà già đó, mà chỉ được mang theo phòng khi cần thiết?’

“Kể cũng đúng,” Bruno lẩm bẩm.

“Không,” Lane nói, “nhầm rồi. Đây này! Như ngài nói, thanh tra à, giả sử tên hung thủ chỉ tính đến khả năng bịt miệng bà Hatter, hay cả Louisa nữa khi hắn tiêm thuốc độc vào trái lê; thì mục đích ban đầu của hắn không phải tấn công mà là tự vệ. Nào, chúng ta biết rằng hung thủ biết tường tận phòng ngủ, và trong căn phòng đó có hàng tá đồ vật rất thích hợp để làm vũ khí như đám dụng cụ cời lò sắt treo bên lò sưởi, rồi thì hai cái giá chặn sách nặng nề trên bàn cạnh giường nạn nhân - thứ nào cũng đủ để tung một đòn đánh hiệu quả hơn một cây đàn tương đối nhẹ nhàng. Nếu hắn ta phải đi xuống lầu để lấy một vũ khí chỉ dùng để phòng hờ, thì hắn sẽ gây khá nhiều rắc rối không cần thiết, khi còn có những đồ vật thuận tay hơn trên hiện trường vụ án. Theo lý lẽ trên thì cây đàn mandolin không được dùng như một vũ khí tự vệ mà như một vũ khí để tấn công. Không chỉ đơn thuần là để phòng hờ khi cần thiết, mà còn cố tình được sử dụng. Và không vũ khí nào khác như thế, xin hãy quan sát đi - chỉ có cây đàn mandolin.”

“Giờ tôi hiểu rồi,” Thumm thú nhận. “Tiếp đi, ngài Lane.”

“Rất tốt. Giờ thì, nếu nó được hung thủ mang theo nhằm tấn công có mục đích - thì hắn sẽ nhằm vào ai đây? Vào Louisa Campion ư? Chắc chắn không phải; tôi vừa chỉ ra rằng vụ hạ độc chỉ là đánh lừa, hung thủ không muốn đầu độc cô ấy. Và nếu hắn ta không muốn giết cô ấy bằng một quả lê độc, thì tại sao hắn lại muốn làm vậy bằng cách đánh vào đầu cô ấy bằng vũ khí kỳ lạ này? Không, chắc chắn cây đàn đó không dành cho Louisa Campion. Vậy là cho ai đây? Chỉ còn bà Hatter. Đó chính là điều tôi đang muốn chứng minh, thưa các quý ông: kẻ giết người chưa bao giờ có ý định đầu độc Louisa Campion, hắn chỉ muốn giết Emily Hatter.”

Người nghệ sĩ duỗi chân và hơ những ngón chân. “Họng của tôi! Giải nghệ cái là yếu ngay… Nhìn đây. Khi xem xét mối tương quan của những sự việc tôi đã đề cập đến, các ngài sẽ thấy toàn bộ hướng lập luận này là rõ ràng và có cơ sở. Trước tiên là một bức bình phong, một mồi nhử, một động thái giả vờ, nói chung là một màn hỏa mù để che giấu mục đích thực sự. Thứ hai: vụ hạ độc nhằm vào Louisa chỉ là dàn cảnh, như đã chỉ ra. Thứ ba: mặc dù là dàn cảnh, hung thủ cố tình mang theo một thứ vũ khí. Thứ tư: Bà Hatter là người duy nhất trong hoàn cảnh đó đối diện với kẻ mang vũ khí theo với một mục đích thật sự, có thể là toan tính giết người.”

Trong sự im lặng diễn ra sau đó, công tố viên Bruno và thanh tra Thumm nhìn nhau với biểu cảm không thể lẫn đi đâu được của sự ngưỡng mộ và tâm trí rối bời. Biểu cảm của Bruno thậm chí còn mơ hồ hơn. Đằng sau khuôn mặt kiên định là điều gì đó cứ nhất quyết vật lộn đòi làm sáng tỏ. Ngài công tố viên liếc Thumm rồi nhìn xuống sàn nhà, và giữ như thế một lúc lâu.

Viên thanh tra dịu giọng hơn. “Nghe thật hợp lý làm sao, ngài Lane ạ, tôi ghét phải thừa nhận điều đó. Chúng ta đã đi sai đường ngay từ đầu. Điều này làm thay đổi toàn bộ cục diện của cuộc điều tra. Chúng ta phải mở to mắt dõi theo một động cơ khác ngay - không phải chuyện cô Campion nữa mà là động cơ chống lại bà Hatter!”

Lane gật đầu; chẳng có sự hài lòng hay niềm hân hoan trên khuôn mặt. Dù đã kết thúc lập luận, dường như ông vẫn bối rối vì một cảm xúc bất an nào đó. Vẻ u sầu chiếm hữu lấy ông ngay khi ánh sáng của bài diễn văn tắt đi; và dưới đôi lông mày mượt, cặp mắt ông dõi về phía công tố viên Bruno.

Viên thanh tra không để ý thấy sự việc này; ngài còn đang mải lớn tiếng nói lên suy nghĩ của mình. “Động cơ chống lại bà già đó. Hẳn là chuyện kinh doanh… Chết tiệt, bọn họ đều thu được lợi lộc nếu giết bà ta… Điều này dẫn tới đâu? Chẳng tới đâu cả. Trong chuyện này, ai cũng có lợi nếu giết Louisa nữa - lợi về tiền bạc lẫn thỏa mãn hận thù cá nhân… Có lẽ chúng ta sẽ tiến thêm được một chút khi biết quyết định của Barbara Hatter đối với Louisa. “

“À, đúng thế,” Lane lẩm bẩm. “Tôi xin lỗi, thanh tra; tôi e rằng khi mắt tôi nhìn miệng ngài thì não tôi không thực sự tập trung… Có một vấn đề cấp bách hơn. Với việc nội dung bản di chúc được công bố và người lập ra nó đã chết, vụ hạ độc giả nhằm vào Louisa rất có thể sẽ biến thành thật, giờ đây cái chết của cô ta sẽ có lợi cho tất cả bọn họ.”

Thumm ngồi dậy, giật mình. “Trời ạ, tôi chưa từng nghĩ về điều đó! Và có một chuyện nữa.” Ngài rên lên. “Chúng ta không tài nào biết được ai là ai. Nếu Louisa bị sát hại, thì chưa chắc cô ta đã bị giết bởi chính kẻ đã giết mẹ mình. Bất kỳ ai, dù chẳng liên quan đến vụ hạ độc đầu tiên hoặc vụ giết người sau đó, cũng có thể ở vào vị trí thích hợp để lấy đi mạng sống Louisa, vì kiểu gì cảnh sát cũng sẽ liên hệ việc đó với hung thủ của hai vụ trước. Thật là một mớ hỗn độn!”

“Hừm. Tôi đồng ý với ngài, thanh tra. Không chỉ cô Campion phải được canh gác ngày đêm, mà mỗi người bọn họ đều phải được giám sát liên tục, chỗ chất độc trong phòng thí nghiệm cần được dời đi ngay lập tức.”

“Ông nghĩ vậy sao?” Thumm ranh mãnh hỏi. “Cần gì phải phòng xa thế. Chúng tôi sẽ theo dõi phòng thí nghiệm, nhưng chỗ chất độc còn lại sẽ ở nguyên đó, và có thể ai đó sẽ tới để đánh cắp!”

Công tố viên Bruno ngước mắt nhìn Drury Lane. Một tia lửa nhen lên trong họ, và Lane chìm sâu vào trong chiếc ghế, mọi cơ bắp căng hết ra, như thể đang chuẩn bị cho một cú đánh. Một niềm hân hoan kỳ cục hiện lên trên khuôn mặt Bruno. “Xong rồi!” Ngài nói. “Tôi đã suy nghĩ đâu vào đấy, thưa ngài Lane.”

“Và ngài đã có kết luận…?” Lane hỏi vẻ dửng dưng.

Bruno cười tươi. “Tôi ghét phải đánh đổ phân tích tuyệt vời của ngài, nhưng e là phải vậy thôi. Xuyên suốt cuộc bàn luận, ngài đã giả định rằng người hạ độc và kẻ giết người là cùng một người…” Sự căng thẳng biến khỏi Lane, và ông thả lỏng người với một tiếng thở dài. “Trước đây đã có lần chúng ta bàn luận về khả năng kẻ hạ độc và kẻ giết người là hai kẻ khác nhau, không phải một người, nên hai kẻ đó đã hành động riêng rẽ vào đêm có án mạng tại những thời điểm khác nhau…”

“Đúng thế.”

“Đúng,” Bruno tiếp tục với một cái vẫy tay, “giả thuyết này không giải thích được động cơ của kẻ hạ độc, chỉ nói lên rằng đó là hai hung thủ hoàn toàn riêng rẽ. Nhưng giả sử động cơ của hắn chỉ đơn thuần là dọa cô Campion, khiến cô ta sợ bị mất mạng mà rời khỏi nhà? Vài người có thể có động cơ như vậy, những kẻ không muốn giết người. Thế nên, tôi mới bảo rằng ngài đã không tính đến khả năng về hai tội ác riêng biệt, một giả thuyết mà trong đó kẻ giết bà Hatter chẳng liên quan gì đến kẻ hạ độc hết!”

“Đêm đó,” Thumm thêm vào, với một cái nhìn ngạc nhiên trước sự sáng suốt của Bruno, “hay vụ hai tháng trước cũng thế. Đó là một lỗ hổng lớn trong phân tích của ngài, ngài Lane ạ!”

Lane ngồi im lặng một lúc; và rồi hai người khách giật mình khi nghe thấy tiếng ông cười khoái chí ra mặt. “Tại sao, ngài Bruno,” ông nói, “tôi đã nghĩ chuyện đó thật hiển nhiên cơ đấy.”

“Hiển nhiên?” hai người còn lại cùng thốt lên.

“Phải rồi! Không phải ư?”

“Không phải gì cơ?”

“Ồ, được rồi,” Lane lại bật cười một lần nửa. “Rõ ràng là lỗi của tôi khi toàn bỏ qua mà không chỉ ra điều mà tôi nghĩ là quá đỗi hiển nhiên. Người như ngài, Bruno ạ, một luật sư có đầu óc quá loanh quanh, kiểu gì cũng đặt một câu hỏi như thế. Nó bắn thẳng vào tôi, kiểu như lời bác bỏ vào phút chót?”

“Tôi vẫn muốn nghe diễn giải của ngài,” Bruno bình tĩnh nói.

“Được thôi.” Lane trấn tĩnh lại và nhìn chằm chằm vào lò sưởi. ”Vậy là ngài muốn biết tại sao tôi lại nghĩ rằng kẻ hạ độc và kẻ giết người chỉ là một…? Câu trả lời là: Tôi không nghĩ, tôi biết chắc như thế. Tôi sẽ chỉ ra một bằng chứng xác đáng.”

“Việc đó khó đấy,” thanh tra Thumm nói.

“Tôi sẵn sàng chờ bị thuyết phục đây,” vị công tố viên nói.

“Có lẽ, giống như những giọt nước mắt không thể bác bỏ trong mắt người phụ nữ,” Lane nở một nụ cười, “lập luận của tôi sẽ là quá thuyết phục… Tôi có thể bắt đầu bằng cách nói rằng hầu hết sự việc đều hiện lên trên sàn phòng ngủ.”

“Sàn phòng ngủ?” Thumm nhắc lại. “Dấu vết của một người ư?”

“Ôi chao, thanh tra à! Tôi ngạc nhiên trước sự thiếu sáng suốt của ngài đấy. Ngài có đồng ý với tôi không nào, rằng nếu có hai hung thủ chứ không phải một, thì chắc chắn chúng sẽ vào phòng tại những thời điểm khác nhau - vì mục đích của mỗi kẻ khác nhau, một kẻ muốn đầu độc Louisa, kẻ kia muốn giết bà Hatter?”

Hai người còn lại cùng gật đầu.

“Được rồi. Vậy kẻ nào sẽ vào phòng trước đây?”

Thumm và Bruno nhìn nhau. Bruno nhún vai. “Tôi không nghĩ ngài có thể xác định rõ được.”

Lane lắc đầu. “Thiếu suy nghĩ mạch lạc rồi, ngài Bruno. Để đặt quả lê độc lên trên bàn chỗ chúng ta tìm thấy nó, kẻ hạ độc phải đứng giữa hai chiếc giường; điều đó là không thể nghi ngờ. Để sát hại bà Hatter kẻ giết người cũng phải đứng giữa hai chiếc giường, như bác sĩ Schilling đã chỉ ra. Do vậy, cả hai kẻ đó, nếu đúng là có hai tên, đều sẽ đứng ở cùng một vị trí trên tấm thảm giữa giường. Tuy nhiên, chỉ có một dấu chân trên chỗ bột vương trên tấm thảm ở vị trí đó - chúng ta có thể loại trừ Louisa Campion, tất nhiên rồi; còn nếu lời khai của cô ấy bị nghi vấn, thì chúng ta cũng coi như thua luôn.

“Giờ thì nếu kẻ đầu tiên đột nhập đánh đổ chỗ bột, thì sẽ có hai kiểu dấu chân: kiểu thứ nhất là của kẻ đột nhập đầu tiên sau khi hắn làm đổ bột, còn kiểu thứ hai là của kẻ thứ hai vô tình để lại khi hắn vào phòng khi kẻ thứ nhất đã rời đi. Nhưng hiện trường chỉ có một kiểu dấu chân. Thế có nghĩa là, thật rõ ràng, chỗ bột đó hẳn phải bị kẻ thứ hai làm đổ, không phải kẻ đầu tiên. Điều này lý giải cho sự thật là có một kẻ đột nhập, hẳn là tên đầu tiên, đã không để lại dấu chân nào. Cơ bản là thế.

“Và vấn đề logic đặt ra cho chúng ta là từ dấu chân đã tìm thấy, tìm ra ai là kẻ đột nhập thứ hai. Những dấu chân dính bột do đôi giày chúng ta tìm thấy dẫm lên. Trên mũi giày chân phải có vương vết chất lỏng, được bên pháp y xác định là thủy ngân clorua , cùng loại chất độc được tiêm vào quả lê và được tìm thấy trong ống tiêm. Hiển nhiên, kẻ đột nhập để lại dấu chân trên bột - tên thứ hai - là kẻ hạ độc. Điều này nghĩa là hung thủ thứ hai đã làm đổ cái hộp và dẫm lên trên lớp bột phấn chính là kẻ hạ độc, và tức là trong trường hợp có đến hai hung thủ này, thì hung thủ thứ nhất chính là kẻ giết người. Các ngài vẫn theo kịp chứ?”

Họ gật đầu.

“Rồi, thế cây đàn mandolin, thứ vũ khí được kẻ giết người sử dụng, hay hung thủ thứ nhất, cho chúng ta biết những gì về kẻ đó, kẻ đột nhập đầu tiên? Nó cho ta biết rằng: Chính cây đàn này đã khiến hộp bột rơi khỏi bàn. Tại sao ư? Có những vệt máu trên vỏ hộp mà chỉ có thể xuất hiện ở đó bằng cách tiếp xúc với những sợi dây đàn dính máu. Đằng sau vị trí trên chiếc bàn nơi hộp phấn được đặt trước khi nó rơi xuống, chúng ta đã tìm thấy một vết lỏm tạo ra bởi một thứ có cạnh sắc. Vết lõm này, từ vị trí và trạng thái của nó, chúng ta xác định được là do cạnh của cây đàn mandolin đập xuống mặt bàn tạo nên; để củng cố luận điểm này, trên một cạnh của cây đàn ở phần phía dưới cũng có vết trầy tương ứng với vết lõm trên bàn. Tức là tại thời điểm đó, chính cây đàn đã đập xuống mặt bàn, những sợi dây chạm vào phần trên cái hộp, hất nó văng khỏi bàn.

“Cây đàn này không thể tự vung vẩy được. Nó được dùng để đập vào đầu bà Hatter. Cú đánh đã khiến cái hộp rơi xuống hẳn là kết quả sau đòn vung mạnh vào đầu bà ta ở vị trí ngay cạnh chiếc bàn. Tôi chỉ nhắc lại sự việc thôi; lúc kiểm tra hiện trường tội ác, chúng ta đã xác minh rõ những điểm nêu trên.”

Lane rướn người về phía trước và khua ngón tay trỏ vạm vỡ. “Trước đó chúng ta đã chứng minh kẻ hạ độc - hung thủ thứ hai - đã làm đổ hộp phấn. Mà giờ thì dường như chính hung thủ thứ nhất, kẻ giết người, mới là kẻ đánh đổ cái hộp. Một mâu thuẫn nan giải!” Người nghệ sĩ mỉm cười. “Một cách khác để nói cho rõ: Chúng ta phát hiện ra cây đàn nằm ở trên lớp bột vương vãi. Điều đó có nghĩa là cây đàn rơi xuống khi chỗ bột đã ở sẵn trên sàn. Trong phân tích đầu tiên thì kẻ hạ độc đánh đổ bột, nghĩa là kẻ giết người hẳn phải đến sau. Nhưng nếu hắn ta đến sau, vậy thì dấu chân của hắn đâu hở trời, khi dấu vết duy nhất được tìm thấy là của kẻ hạ độc?

“Và nếu chúng ta không có dấu chân kẻ giết người, thì sẽ không có hai người ở đó sau khi chỗ bột rơi xuống; nói cách khác, trong trường hợp này một kẻ giết người riêng rẽ không hề tồn tại. Đó là lý do mà tôi ‘nghĩ rằng’ như các ngài nói, ngay từ đầu cả hai kẻ hạ độc và giết người chỉ là cùng một người!”