← Quay lại trang sách

Chương 8 Vị Cứu Tinh

Khi nghiền ngẫm lại vụ này trong óc, một yếu tố xâm chiếm toàn bộ tâm trí tôi, đó chính là sự vắng mặt bí ẩn của em trai nạn nhân. Dường như đối với tôi, trong số các lỗi bỏ sót còn lại của mình, Hume còn tập trung quá ít sự chú ý vào bác sỹ Fawcett. Tôi đã quyết định kế hoạch hành động của mình sẽ liên quan tới quý ông thích xê dịch này, việc anh ta bỏ trốn khiến tôi thấy thú vị xen lẫn tò mò.

Có lẽ tôi đã suy nghĩ quá nhiều đến chuyện này. Chắc chắn khi bác sỹ Fawcett xuất hiện, sự rụt rè của của công tố viên liên quan đến từng hành động của anh ta dường như có lý do chính đáng. Thế nhưng, tôi vẫn cảm thấy không thể phán xét một cách hời hợt con người này, qua một thời gian ngắn ở bên cạnh anh ta, tôi hoàn toàn đồng tình với bố tôi rằng, những nghi ngờ của Elihu Clay thực sự có cơ sở.

Vào sáng thứ Hai, hai ngày sau cuộc thẩm vấn thất vọng với Aaron Dow, bác sỹ Fawcett xuất hiện. Ngày thứ Hai đã trôi qua mà không xảy ra chuyện gì quan trọng, bố tôi thất vọng thông báo cho già Clay ông định bỏ vụ này. Mọi đầu mối đều chẳng dẫn tới đâu. Không có một tài liệu, hay ghi chép ở bất kỳ hình thức nào chứng minh bác sỹ Fawcett có tội; Và trong khi bố tôi có vài phỏng đoán e dè dường như hứa hẹn các kết quả, thì lúc nào cũng vậy, đến cuối cùng cuộc điều tra lại dậm chân tại chỗ.

Lần đầu tiên chúng tôi nghe nói bác sỹ Fawcett trở về là từ Elihu Clay, tại một bữa trưa ngày thứ Hai.

“Đối tác của tôi quay về rồi,” ông ta không kịp thở, tuyên bố với bố tôi. “Mới xuất hiện sáng nay.”

“Cái gì!” bố tôi kêu lên. “Tại sao lão khỉ già Kenyon hay Hume lại không cho tôi biết? Ông nghe nói chuyện này lúc nào?”

“Vài phút trước, đó là lý do tại sao tôi lao về nhà ăn bữa trưa. Fawcett đã gọi điện thoại cho tôi từ Leeds.”

“Anh ta đã nói gì? Anh ta sao rồi? Anh ta đã ở đâu?”

Clay lắc đầu với một nụ cười yếu ớt. “Tôi không biết. Dường như anh ta yếu ớt lắm. Anh ta bảo tôi mình đang gọi điện từ văn phòng của Hume.”

“Tôi muốn đi xem thằng cha đó,” bố tôi càu nhàu. “Giờ anh ta ở đâu?”

“Ngài sẽ có cơ hội ấy sớm lắm. Tối nay anh ta sẽ tới đây nói rõ mọi chuyện. Tôi vẫn chưa cho anh ta biết ngài là ai, mà chỉ nói rằng ngài là khách ở đây.”

Đối tượng của cuộc thảo luận này ghé nhà Clay sau bữa tối một lúc. Anh ta đến bằng chiếc limousine cáu cạnh mà bố tôi châm biếm gọi là “cái loại xài tiền thuế của dân.” Tài xế là một gã có bộ mặt khó coi với đôi tai nham nhở và cái mũi của một võ sĩ đấm bốc. Chỉ cần một cái liếc mắt, tôi hoàn toàn không nghi ngờ gì chức năng của anh ta không chỉ là lái xe, mà còn phải bảo vệ nhiều thứ khác.

Bác sỹ Fawcett là một người cao, tái nhợt như xác chết, giống hệt với ông anh trai quá cố ở gương mặt. Bổ sung thêm nét độc đáo ở hàm răng vàng, khỏe khoắn, một nụ cười như ngựa và một chòm râu thưa, ngắn, nhọn và gọn gàng màu đen. Người anh ta toát ra thứ mùi thuốc lá ôi và thuốc sát trùng - một mùi hương chính trị - dược phẩm thú vị nhưng khó chịu, không làm tăng được nét quyến rũ của anh ta. Tôi đồ rằng anh ta già hơn người anh trai thượng nghị sĩ của mình, sau này tôi biết là đúng thế. Có điều gì đặc biệt khó chịu ở anh ta, và tôi nghĩ không phải là không tưởng, khi một người như anh ta hóa ra là một chính khách nham hiểm của một thị trấn nhỏ. Thậm chí lúc này tôi nhớ lại ấn tượng khó ưa do Rufus Cotton mang lại cho tôi, lão trùm chính trị phe đối lập. Tôi thấy đau đớn cho người dân ở hạt Tilden vì họ đang ở vị thế chẳng ai thèm muốn giữa búa và đe.

Có một chuyện tôi chắc chắn ngay lập tức khi Elihu Clay giới thiệu anh ta với tôi, khi anh ta dò xét tôi chăm chú; đó là dù có cược toàn bộ vàng tại Christendorn, tôi cũng không dám tự tin vào bản thân khi chỉ có một mình với quý ông y tế này. Anh ta có thói quen dùng đầu lưỡi liếm bờ môi rất ghê tởm, theo kinh nghiệm tệ hại, đó là một dấu hiệu tư duy chắc chắn của đàn ông. Và bác sỹ Fawcett không phải là người dễ xử lý ngay cả trước một phụ nữ khéo léo; anh ta sẽ tận dụng từng lợi thế một, không cho phép bất kỳ đắn đo nào cản trở mình.

Tôi tự nhủ: “Patience Thumm, cẩn thận đấy. Thay đổi kế hoạch của mày đi.”

Khi đôi mắt anh ta chụp X-quang tôi xong, anh ta quay sang những người khác và một lần nữa biến thành người họ hàng gây choáng váng của người quá cố. Trông anh ta thực sự phờ phạc. Dường như với tôi, anh ta xem bố tôi - người mà Clay đã giới thiệu là “Ngài Thumm” - với sự nghi ngờ, nhưng sự có mặt của tôi chắc phải an ủi được anh ta, vì sau khi chợt lóe sáng yếu ớt, đôi mắt anh ta lại phủ màu u ám. Sau đó anh ta dành phần lớn nhận xét cho đối tác của mình.

“Tôi đã có một ngày khủng khiếp với Hume và Kenyon,” anh ta nói, tay vuốt chòm râu nhọn. “Clay, ông không biết chuyện này đã ảnh hưởng đến tôi ra sao đâu. Án mạng! Trời ạ, chuyện này thật dã man…”

“Hẳn nhiên rồi,” Clay thì thầm. “Và cậu không biết chút gì về nó, cho đến sáng nay khi cậu tới đây?”

“Chẳng biết tí gì hết. Lẽ ra tôi nên nói với ông tuần trước tôi đã ở đâu, nhưng tôi chẳng bao giờ dám mơ đến… Ông thấy đấy, tôi đã cắt đứt liên lạc với nền văn minh kể từ khi rời khỏi đây; cũng chẳng buồn xem báo luôn. Tôi không thể tưởng tượng được… Tên Dow này… sao chứ, chắc hắn ta bị điên!”

“Vậy là cậu không biết ông ta?” bố tôi ngẫu nhiên hỏi.

“Dĩ nhiên là không. Tuyệt đối xa lạ với tôi. Hume đã cho tôi xem bức thư được tìm thấy trên bàn làm việc của Joel, hoặc đúng ra là” - anh ta cắn môi rất nhanh, đôi mắt cũng liếc nhanh như chớp; anh ta đã phạm sai lầm và anh ta biết điều đó - “ý tôi là lá thư được tìm thấy trên gác trong tủ phòng ngủ của Joel. Nói ông biết, tôi đã bị sốc. Tống tiền! Không thể tin nổi, không thể tin nổi. Tôi chắc chắn có sai lầm ghê tởm ở đâu đó.”

Vậy là anh ta cũng quen biết Fanny Kaiser! Tôi nghĩ. Lá thư… Thứ làm bận rộn tâm trí anh ta không phải nét nguệch ngoạc bằng bút chì của Dow, mà là lá thư anh trai anh ta gửi cho quý bà hấp dẫn ấy. Và lúc này tôi cảm thấy không phải tất cả cảm xúc của anh ta đều là giả, những lời nói của anh ta dĩ nhiên có vẻ không xác thực, nhưng điều gì đó tận sâu trong tâm khảm đang gặm mòn anh ta. Có vẻ gì đó bị ám ảnh ở anh ta, như thể anh ta đang ngồi dưới lưỡi gươm Damocles, trông thấy mái tóc mình đang bạc dần.

“Chắc anh phải cực kỳ đau buồn, bác sỹ Fawcett,” tôi nhẹ nhàng nói. “Lúc này tôi có thể hình dung được cảm xúc của anh. Án mạng…” và tôi khéo léo run rẩy. Anh ta hướng ánh mắt sang tôi và xem xét tôi lần nữa, lần này với sự quan tâm riêng tư hơn. Rồi lại liếm môi lần nữa, hoàn toàn giống tên tội phạm có ria mép trong các vở kịch Melo cũ.

“Xin cảm ơn cô,” anh ta nói bằng giọng trầm.

Bố tôi sốt ruột cựa quậy. “Tay Dow này,” ông càu nhàu. “Chắc phải có liên quan gì đó với anh trai cậu.”

Cái nhìn ám ảnh quay lại, bác sỹ Fawcett quên biến tôi. Không khó để nhận ra bóng ma trong vụ này là tên tội phạm già nua, gầy nhom trong nhà tù hạt tại Leeds. Vấn đề Fanny Kaiser một lần nữa biến thành chủ đề khác. Nhưng tại sao bác sỹ Fawcett lại sợ Dow? Con người đáng thương ấy đang sở hữu sức mạnh gì?

“Hume đã rất tích cực,” Clay nói, nheo mắt lại nghiên cứu đầu điếu xì gà của mình.

Bác sỹ Fawcett xua tay phản đối. “À, phải, dĩ nhiên. Anh ta không làm phiền tôi. Hume là người tốt mặc dù có hơi bị thiếu định hướng trong những niềm tin chính trị. Đúng là quá tồi tệ khi người ta kiếm lời từ đau thương của kẻ khác. Tôi cho rằng những gì báo chí nói là đúng - rằng anh ta đang lợi dụng vụ anh trai tôi bị giết để nắm lấy những cơ hội chính trị. Lá phiếu lẽ ra phải kém quan trọng hơn án mạng chứ… Nhưng thôi, chẳng thành vấn đề. Điều quan trọng đó là tội ác kinh hoàng này.”

“Dường như Hume cho rằng Dow có tội,” bố tôi đánh bạo nói, với khẩu khí của một người chỉ đơn thuần lặp lại những gì mình được nghe.

“Ra vậy.” Anh ta lại cắn môi, nhíu mày. “Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện đó. Dĩ nhiên, tôi đòi hỏi công lý phải được thực thi, ngài biết đấy. Nhưng đồng thời chúng ta không được phép để bản năng của mình thắng thế so với công lý.” Tôi cảm thấy như muốn thét lên. Con người này thốt ra những câu nói khoa trương liến thoắng như nghệ sĩ rối. “Tôi sẽ phải tìm hiểu điều này. Nói chuyện với Hume…”

Một tràng những câu hỏi lấp ló trên môi tôi, nhưng điều gì đó trong ánh mắt của bố ngăn tôi không thốt ra. Cái nhìn của ông như muốn ra hiệu tôi không được dính vào.

“Còn bây giờ,” bác sỹ Fawcett nói, đứng dậy, “nếu được cho phép, già Clay và cô Thumm,” anh ta lại dò xét tôi lần nữa thật lâu. “Tôi rất hy vọng tôi được hân hạnh gặp mặt hai người - riêng tư,” hai chữ cuối cùng anh ta nói bằng giọng thấp, xiết chặt tay tôi trong những ngón tay ve vuốt. “Hai người hiểu cho.” Anh ta tiếp tục nói to. “Cú sốc khủng khiếp. Tôi phải quay về rồi. Có đến hàng nghìn chi tiết… Sáng mai tôi sẽ xuống các mỏ đá, ngài Clay, sau đó chúng ta có thể nói chuyện.”

Khi xe anh ta đã rời đi, Elihu Clay nói với bố tôi. “Thanh tra này, ngài nghĩ sao về đối tác của tôi?”

“Tôi cho rằng hắn là kẻ lừa đảo.”

Clay thở dài. “Tôi đang hy vọng những nghi ngờ của tôi là vô căn cứ. Tôi tự hỏi tại sao tối nay anh ta lại đến đây. Qua điện thoại anh ta có nói đến chuyện tiếp quản mọi thứ. Và bây giờ anh ta bảo ngày mai sẽ gặp tôi.”

“Tôi sẽ cho ngài biết tại sao tối nay anh ta qua đây,” bố tôi ngắt lời. “Đó là vì ở nơi nào đó - có lẽ là văn phòng của Hume - anh ta nghe phong thanh công việc thực sự của tôi ở đây.”

“Ngài thực sự nghĩ vậy à?” Clay thì thầm.

“Đúng. Anh ta đến đây để thăm dò tôi. Có lẽ chỉ là một nghi ngờ.”

“Thế thì tệ quá, thanh tra ạ.”

“Sẽ là vậy đấy,” bố tôi chán nản nói, “toàn bộ chuyện này là điều tồi tệ. Tôi không thích sự can đảm của thằng cha này. Không một chút nào.”

•   •   •

Đêm qua tôi gặp ác mộng với những con quỷ đáng sợ đang trèo lên giường, con nào con nấy - hình dung cũng khá trùng hợp - đều sở hữu bộ ria mép ngắn, nhọn và gọn cùng cái liếc mắt đểu cáng như mắt ngựa. Tôi thấy mừng khi mặt trời đã lên.

Sau bữa sáng, bố con tôi lập tức đến ngay văn phòng công tố viên tại Leeds.

“Nói tôi nghe,” bố tôi càu nhau khi Hume chưa kịp chào chúng tôi theo lệ, “hôm qua cậu có nhỏ to gì với Fawcett về thân phận thực sự của tôi không?”

Hume nhìn trừng trừng. “Tôi á? Tất nhiên là không. Sao thế, anh ta biết ông là ai à?”

“Nghe này. Thằng cha đó biết hết tất cả. Tối qua hắn ta ghé nhà Clay, và theo cách hắn nhìn tôi thì hắn ta biết tỏng rồi.”

“Hừm. Tôi cho rằng chắc là Kenyon đấy.”

“Lão nhận lương của Fawcett à?”

Công tố viên nhún vai. “Là một luật sư tôi không thể tuyên bố về việc đó ngay cả kín đáo. Nhưng ngài có thể tự rút ra kết luận của mình, thanh tra.”

“Bố đừng quá bực mình,” tôi ngọt ngào nói. “Ngài Hume, nếu ngài không phản đối chuyện tiết lộ bí mật trọng đại, cho hỏi chuyện gì đã xảy ra ở đây hôm qua?”

“Chẳng nhiều nhặn gì đâu, cô Thumm. Bác sỹ Fawcett thú nhận rằng anh ta rất sốc trước việc anh trai bị sát hại, rằng anh ta chẳng biết gì về chuyện này vân vân. Chẳng góp được gì cho cuộc điều tra của chúng ta.”

“Anh ta có nói với ngài mình đã ở đâu vào cuối tuần không?”

“Không. Và tôi cũng không nhấn mạnh chuyện đó.”

Tôi liếc mắt sang bố tôi. ”Là đàn bà, đúng không thanh tra?”

“Thôi nào, Patty!”

“Chúng tôi đã có buổi nói chuyện chẳng vui vẻ gì,” Hume chán nản nhận xét. “Và tôi vẫn đang để mắt tới anh ta. Hôm qua, ngay sau khi rời khỏi văn phòng tôi, anh ta đã cùng một nhóm những kẻ vô lương tâm, dối trá mở một cuộc họp riêng. Nói cho ngài biết, chúng đang âm mưu một chuyện bẩn thỉu. Với cái chết của thượng nghị sĩ, chúng phải hành động thật nhanh để khắc phục tổn thất…”

Bố tôi xua tay. “Xin lỗi cậu, Hume, nhưng tôi không thể quan tâm đến những rắc rối chính trị của cậu, hay của anh ta nữa. Nghe này: Hắn ta có biết gì đến mảnh rương đó không?”

“Anh ta nói anh ta không biết.”

“Hắn đã gặp Dow chưa?”

Hume im lặng một lúc. “Rồi. Cũng rất thú vị. Nhưng mà,” anh ta nói thêm rất nhanh, “không phải phá hoại, hoặc có ý định khiến chúng ta không thể chống lại Dow. Mà thực tế là anh ta muốn thúc đẩy nó.”

“Đã xảy ra chuyện gì?”

“Chúng tôi đưa bác sỹ Fawcett đến nhà tù hạt gặp Dow.”

“Và?”

“Và bất chấp vị bác sỹ đáng kính của chúng ta có nói gì, anh ta rõ ràng quen biết Dow.” Hume dằn mạnh quả đấm xuống mặt bàn. “Tôi chắc chắn điều đó. Một điều gì đó đã lóe lên giữa hai người họ. Chết tiệt, ngài sẽ nghĩ rằng chúng đang có âm mưu giữ im lặng. Tôi có ấn tượng chắc chắn rằng cả hai đều có lợi ích khi giữ im lặng về chuyện gì đó.”

“Sao vậy, ngài Hume,” tôi thì thầm, “tôi tin rằng ngài đang nói lý thuyết suông.”

Nhìn anh ta có vẻ khó chịu. “Bình thường tôi không quá để tâm những chuyện này. Nhưng Fawcett căm ghét Dow, chứ không chỉ quen biết. Và còn hơn thế nữa, sợ hắn… về phần Dow, tôi tin rằng cuộc nói chuyện ngắn ngủi với bác sỹ đã cho hắn niềm hy vọng. Lạ thật nhỉ, đúng không? Nhưng hắn thực sự vênh váo lắm.”

“Chà,” bố tôi cau có nói, “vượt quá tầm tay tôi rồi. Mà này, khám nghiệm pháp y của bác sỹ Bull có tiến triển nào chưa?”

“Chưa có gì mới hết. Vẫn như được chuẩn đoán vào hôm xảy ra án mạng.”

“Dạo này Fanny Kaiser sao rồi?”

“Quan tâm thế?”

“Chết tiệt. Phải, tôi quan tâm đấy. Cô ả đấy biết điều gì đó.”

“À thì,” Hume nói, ngả người về phía sau, “Tôi có những quan điểm riêng về Fanny. Bà ta là người kín đáo - không dễ moi được gì từ bà ta. Nhưng tôi tin ngày nào đó chúng ta sẽ làm Fanny phải ngạc nhiên trong đời mình.”

“Đào sâu hơn vào giấy tờ của thượng nghị sĩ phải không?”

“Có thể.”

“Rồi, cứ đào đi thanh niên, rồi ngày nào đó cậu sẽ làm Tổng thống Hoa Kỳ.” Ông đứng thẳng dậy. “Đi tiếp thôi, Patty.”

“Một câu hỏi cuối,” Tôi chậm rãi nói. Hume đan hai tay sau đầu nhìn tôi với đôi mắt mỉm cười. “Ngài Hume đã kiểm tra hết các chi tiết của tội ác chưa?”

“Cô Thumm, ý cô là sao?”

“À,” tôi đáp, “dấu mũi giày phía trước lò sưởi chẳng hạn. Ngài đã so sánh nó với đôi dép lê hay đôi giày của thượng nghị sĩ Fawcett chưa?’

“À rồi! Không phải dấu giày của thượng nghị sĩ. Đôi dép lê cũng thế - quá rộng; còn đôi giày ngài ấy thường đi lại quá to.”

Tôi thở dài nhẹ nhõm. “Còn Dow? Ngài đã kiểm tra giày của Dow chưa?”

Hume nhún vai. “Cô Thumm thân mến của tôi ơi, chúng tôi đã kiểm tra mọi thứ rồi. Làm ơn đừng quên cái dấu mũi dày đó mờ lắm. Đó có thể là giày của Dow.”

Tôi đi găng tay vào. “Đi thôi bố. Trước khi con lại dính vào một cuộc tranh cãi. Ngài Hume, nếu Aaron Dow tạo ra hai dấu chân đó - trên thảm chùi chân và trong lò sưởi - tôi sẽ đi bằng đầu.”

•   •   •

Khi nhìn lại vụ án lạ lùng của Aaron Dow, giờ đây tôi thấy rằng đại khái nó đang rơi vào ba giai đoạn phát triển. Và cho dù vào lúc này tôi không thể nói trước được vụ này đi về đâu, nhưng chúng tôi đã đang gần kết thúc giai đoạn một, với sự nhanh chóng mà tôi không dám hy vọng nhiều.

Giờ đây khi nhìn lại, tôi không thể nói điều gì đã đẩy mọi chuyện nhanh đến ngạc nhiên. Thật ra mà nói, trong tiềm thức, tôi mới chỉ chuẩn bị một nửa tâm lý đón nhận nó.

Sau đêm đầu tiên ấy, khi tất cả chúng tôi đứng trong phòng làm việc của nạn nhân, tôi đã định hỏi bố tôi về Carmichael. Như tôi còn nhớ, bố tôi đã lộ ra vẻ ngạc nhiên không nhỏ khi Carmichael lần đầu tiên bước vào phòng, và có ấn tượng nhất định rằng Carmichael cũng nhận ra bố tôi. Tôi không hiểu sau đó tại sao lại không hỏi ông về anh ta, có lẽ sự phấn khích với những sự kiện đến sau đó đã xua ý định này ra khỏi tâm trí. Nhưng giờ tôi nhận ra Carmichael và thân phận thật sự của anh ta ngay từ đầu là điều quan trọng với bố tôi. Ông hẳn sẽ nói rằng mình để dành viên thư ký như một quân át chủ bài, kiên nhẫn chờ thời cơ….

Hình ảnh Carmichael đột ngột trở lại với tôi vài ngày sau đó, khi tất cả mọi thứ dường như đều vô vọng và trong trạng thái khó hiểu đến bực mình. Jeremy với khuôn mặt thờ thẫn dưới chân tôi - tôi nhớ rằng anh đã nắm lấy mắt cá chân tôi, khi chúng tôi ngồi trên hàng hiên và hào hứng tán phét về tính mảnh mai của nó một cách rất ngớ ngẩn - thì bố tôi xuất hiện, hưng phấn cao độ, lôi tuột tôi ra khỏi vòng tay của Jeremy đang ôm mắt cá để nói chuyện riêng.

“Patty,” ông thì thầm, “nóng bỏng đây! Bố vừa nhận được một cuộc gọi của Carmichael!”

Đúng là quá đột ngột. “Chúa ơi! Con đã định hỏi bố về anh ta. Anh ta là ai thế ạ?”

“Không có thời gian đâu. Bố phải đi gặp anh ta ngay tại nơi nào đó ngoài Leeds. Ở nhà hàng, anh ta nói vậy. Vào chuẩn bị đi.”

Chúng tôi vội vã rời khỏi nhà Clay với vài lý do ngớ ngẩn - Tôi nghĩ rằng bố tôi nói rằng ông đã nhận một cuộc gọi của người bạn cũ - mượn một trong những chiếc xe của Clay, chúng tôi khởi hành đến điểm hẹn gặp Carmichael. Chúng tôi đã lạc vài lần mới đi đúng đường, vào lúc đó cả hai bố con gần như cùng phát điên vì tò mò.

“Con sẽ ngạc nhiên đấy,” bố tôi nói khi ngồi bên vô lăng, “nếu biết Carmichael là một gián điệp của chính phủ.”

Tôi trố mắt nhìn. “Ôi, Lạy chúa, đúng là hãi thật. Không phải Mật Vụ ạ?”

Bố tôi cười thầm. “Tay thám tử liên bang này gắn bó với Bộ Tư pháp tại Washington. Ngày xưa bố đã gặp anh ta vài lần. Một trong số những người giỏi nhất của Bộ. Bố đã nhận ra ngay khi anh ta bước vào phòng của Fawcett, nhưng bố không muốn lật tẩy anh ta. Bố cho rằng nếu anh ta đang đóng vai thư ký, anh ta sẽ không cảm ơn bố khi làm anh ta bị lộ đâu.”

Nhà hàng là một nơi yên tĩnh đối diện xa lộ chính, vào giờ sớm như thế này nó gần như vắng tanh. Chúng tôi - hoặc bố tôi - cố gắng xoay xở rất thông minh, tôi nghĩ vậy. ông đề nghị một phòng ăn riêng tư, và từ nụ cười tự mãn trên gương mặt người quản lý nhà hàng, rõ ràng trong tâm trí ông ta, chúng tôi đã được phân loại như một trong những cặp vợ chồng người Mỹ quyến rũ, thường xuyên hẹn hò kín đáo - ở nơi mà sự hiện diện của kẻ chơi bời phóng đãng tóc bạc cùng một cô nàng đáng tuổi con gái mình được mặc nhiên chấp nhận, cuộc sống gia đình kiểu Mỹ là như thế.

Chúng tôi được dẫn vào một phòng riêng, bố tôi cười toét: “Không, Patty, bố sẽ không tìm chỗ vui vẻ đâu,” rồi cánh cửa bật mở và Carmichael lặng lẽ bước vào. Anh ta khóa cửa lại, khi bồi bàn gõ cửa, bố tôi càu nhàu: “Biến đi nhóc,” nhận lại nụ cười thầm lịch thiệp của tay người hầu lão luyện đó.

Họ bắt tay nhau với niềm vui sướng, Carmichael cúi đầu trước tôi. “Từ biểu hiện trên nét mặt cô, cô Thumm, tôi hiểu người bố già tội lỗi này đã cho cô biết tôi là ai.”

“Vậy anh là Carmichael của Royal Mounted - Ý tôi là Mật Vụ,” tôi thốt lên. “Tôi sướng run lên đây! Tôi đã nghĩ những người như anh chỉ tồn tại trong tiểu thuyết của Oppenheim.”

“Chúng tôi tồn tại mà,” anh ta buồn rầu nói, “nhưng chúng tôi không được vui như những chàng trai trong cuốn sách đó. Ngài thanh tra, tôi đang rất vội, chỉ cố gắng lẻn ra được một tiếng thôi.” Có điều gì đó mạnh mẽ mới mẻ ở thái độ của anh ta: tự tin và - nguy hiểm - hơn bao giờ hết. Mặt lãng mạn trong con người tôi phản ứng như thường lệ; tôi lại ngước mắt nhìn dáng người chắc nịch, vẻ ngoài xanh xao không tuổi của anh ta rồi thở dài. Giá như anh ta sở hữu được thể hình của Jeremy Clay!

“Thế quái nào cậu lại không liên hệ với tôi trước?” bố tôi gặng hỏi. “Tôi đã rất nóng ruột đợi chờ một tín hiệu.”

“Tôi không thể.” Anh ta rảo bước khắp phòng với phong cách lạ lùng của động vật, mỗi bước chân hạ xuống nhẹ như mèo, không một tiếng động. “Tôi đã bị theo dõi. Ban đầu là một người phụ nữ nào đó tôi nghi ngờ theo lệnh của Fanny Kaiser bám theo tôi. Tiếp theo là bác sỹ Fawcett. Tôi vẫn đang tạo vỏ bọc nhưng tình hình ngày càng nóng, ngài thanh tra. Không muốn để lộ mình quá mức cần thiết… Giờ thì nghe này.”

Tôi tự hỏi chuyện gì sẽ đến.

“Nói đi,” bố tôi càu nhàu.

Carmichael giải thích các vấn đề bằng giọng trầm tĩnh. Anh ta đã bị thượng nghị sĩ Fawcett và đảng chính trị hạt Tilden bám đuôi một thời gian dài. Hầu như tất cả bọn chúng đều đang bị chính phủ Liên bang truy nã vì các tội gian lận thuế thu nhập.

Anh ta đã cố gắng bảo vệ mình trong nhóm nòng cốt bằng nhiều cách khôn khéo. Trở thành thư ký của thượng nghị sĩ Fawcett - mà tôi đồ rằng người thư ký tiền nhiệm đã được thu xếp ra đi một cách thận trọng - kể từ đó anh ta thu thập từng chút một bằng chứng tài liệu về những chiêu thức trốn thuế của băng nhóm Fawcett.

“Cả Ira nữa à?” bố tôi hỏi.

“Tôi nên hy vọng có thể chứng minh được.”

Chữ cái C trong lá thư thượng nghị sĩ gửi cho Fanny Kaiser có thể muốn nói đến Carmichael. Anh ta là người đặt các đường dây điện thoại từ bên ngoài vào nhà. Tuy nhiên, vào lúc này các nguồn phát sinh đường dây đã được tìm thấy, kể từ khi có vụ án mạng anh ta vẫn đang ẩn mình.

“Chính xác thì Fanny Kaiser là ai, ngài Carmichael?” Tôi hỏi.

“Bà ta nhúng tay vào tất cả trò đồi bại ở hạt Tilden. Những phi vụ tay trong tay với băng nhóm của Fawcett - được bọn chúng bảo hộ, cung cấp cho chúng hưởng chiết khấu lớn. Hume sẽ đào xới toàn bộ vụ này sớm thôi, đó sẽ là dấu chấm hết cho cả băng nhóm bẩn thỉu này.”

Còn đối với bác sỹ Fawcett, Carmichael đã ví von anh ta với con bạch tuộc, là bộ não đứng đằng sau hình bóng đồ sộ của ông anh trai thượng nghị sĩ, bên cạnh nghề phụ là bác sỹ cấy ghép mô, thông qua Elihu Clay ngây thơ.

Carmichael cung cấp cho bố tôi hàng đống thông tin làm sao các hợp đồng đá cẩm thạch, tại hạt này và Leeds, được tuồn trái phép vào công ty của Clay mà ông ta không hề biết, bố tôi liền ghi chép lại hết.

“Nhưng điều tôi thực sự muốn đến đây nói với ngài,” tranh tra Liên bang khô khan nói tiếp, “còn quan trọng hơn nhiều. Tốt hơn tôi nên nói hết cho ngài biết trong khi vẫn đang ở trong nhà Fawcett, được cho là giải quyết các vấn đề của thượng nghị sĩ… Tôi có thông tin cực kỳ thú vị về án mạng!”

Bố con tôi cùng giật mình. “Ngài biết kẻ nào làm à?” Tôi kêu lên.

“Không. Nhưng có những thông tin chắc chắn chỉ mình tôi biết nhưng không thể nói cho Hume, vì để giải thích chuyện này tôi phải cho họ biết tôi là ai, và tôi không muốn thế.”

Tôi ngồi thẳng dậy, phải chăng điểm mấu chốt này trong nguyện cầu của tôi là chi tiết quan trọng cuối cùng?

“Tôi đã đang theo dõi thượng nghị sĩ suốt mấy tháng. Vào đêm xảy ra án mạng, khi ông ấy đuổi tôi ra ngoài, tôi đã nghi ngờ. Thật khôi hài, tôi quyết định nán lại và xem có chuyện gì. Tôi bước xuống những bậc thềm hàng hiên và náu mình sau bụi rậm đối diện lối đi. Lúc này là chín giờ bốn mươi nhăm phút. Trong vòng mười lăm phút không ai đến…”

“Đợi chút đã, ngài Carmichael,” tôi kêu lên phấn khích cao độ, “ngài để mắt đến cửa trước từ mười giờ kém mười lăm đến mười giờ à?”

“Còn hơn thế nữa. Đến tận mười rưỡi, khi tôi quay lại vào trong nhà. Nhưng hãy để tôi nói nốt.” Tôi có thể đã thét lên. Tuyệt vời!

Anh ta nói tiếp, vào lúc mười giờ, một người đàn ông ăn mặc kín mít lên tận mắt bước nhanh trên các bậc thềm, đến bậc trên cùng ông ta bấm chuông cửa. Đích thân thượng nghị sĩ cho người này vào; Carmichael đã trông thấy cái bóng của Fawcett trên kính cửa đã đóng băng. Không còn ai khác đi vào nhà, và cũng chính cái bóng kín mít ấy rời đi, một mình vào lúc mười giờ hai mươi nhăm phút. Carmichael đợi thêm năm phút thấy nghi ngờ hơn bao giờ hết, rồi đến lúc mười rưỡi anh ta đi vào nhà thì thấy Fawcett đã chết sau bàn làm việc. Đáng tiếc Carmichael không thể cung cấp mô tả nào về người khách đó, người đàn ông ăn mặc kín mít đến tận mắt, và bên ngoài nhà lúc đó trời rất tối. Phải, có thể tin đó là Aaron Dow.

Tôi nóng ruột gạt bỏ điều này. Thời gian, thời gian! Đó mới là điều quan trọng.

“Ngài Carmichael,” tôi căng thẳng nói, “ngài tuyệt đối tin rằng ngài đã theo dõi cửa trước ngay sau khi rời khỏi nhà cho đến khi vào lại nhà, và không còn ai ngoài nhân vật ăn mặt kín mít đó đi vào rồi lại đi ra?”

Dường như anh ta bị tổn thương. ”Cô Thumm thân mến của tôi ơi, nếu không tự tin thì tôi tuyên bố làm gì.”

“Và cũng chính nhân vật đó đi ra đó đã đi vào à?”

“Chính xác.”

Tôi hít một hơi sâu. Chỉ cần thêm một chi tiết nữa, vụ của mình sẽ hoàn thành.

“Khi ngài vào phòng làm việc và phát hiện thượng nghị sĩ đã chết, ngài có bước vào trước mặt lò sưởi không?”

“Không.”

Chúng tôi chia tay cùng nhau hứa sẽ giữ im lặng. Miệng tôi khô khốc trên suốt chặng đường về nhà Clay. Vẻ đẹp và sự đơn giản của lập luận gần như làm tôi khiếp sợ… Tôi liếc nhìn quai hàm bố tôi trong ánh sáng bảng táp lô. Nó cứng lại, đôi mắt ông có nét lo âu.

”Bố à,” tôi dịu dàng nói, “Con hiểu rồi.”

“Hả?”

“Con đã sẵn sàng chứng minh Aaron Dow vô tội.”

Bánh xe rít lên chói tai, bố tôi chửi thề kèm theo hơi thở khi ông bẻ ngoặt lái sang bên phải.

“Lại thế nữa rồi! Ý con là chỉ ngồi đó và nói cho bố biết những gì Carmichael vừa nói với chúng ta, là đủ chứng minh Dow vô tội à?”

“Không. Nhưng nó đã cung cấp cho con miếng ghép cuối cùng trong giả thuyết. Nó rõ ràng như kim cương rồi.”

Ông lái xe một lúc lâu trong im lặng. Rồi nói: “Bằng chứng thật sự à?”

Tôi lắc đầu. Điều này đã khiến tôi lo lắng ngay từ đầu. “Chẳng có bằng chứng nào bố có thể đưa ra trước tòa hết.” tôi buồn bã đáp.

Ông gầm gừ. “Cứ nói bố nghe xem nào, Patty.”

Tôi đồng ý. Tôi hào hứng nói mười phút trong khi gió thổi vù vù qua tai chúng tôi. Bố im lặng cho đến khi tôi nói xong, rồi gật đầu.

“Nghe hay đấy,” ông lẩm bẩm. “Nghe hay đấy. Chắc chắn không giống như đang nghe già Drury nói ra những điều kỳ diệu. Nhưng…”

Tôi thất vọng. Tôi không thể hiểu người bố tội nghiệp đang nghĩ gì trong sự ngập ngừng ấy.

“Chà,” ông thở dài, “quá sức với bố rồi, bà cụ non Patty ạ. Bố thừa nhận mình không đủ tài để đưa ra phán quyết. Đặc biệt có một điểm bố không thể hòa hợp được, Patty,” đôi bàn tay ông xiết chặt vô lăng. “Bố nghĩ chúng ta sẽ có một chuyến đi nhỏ.”

Tôi hoảng lên. “Bố! Không phải bây giờ?”

Ông cười toét. “Sáng ngày mai. Bố nghĩ tốt hơn chúng ta nên chạy đến nói chuyện với con chim ó già kia.”

“Bố! Làm ơn nói tiếng Anh đi. Gặp ai ạ?”

“Lane chứ còn ai. Nếu có điều gì đó không ổn trong giả thuyết của con, nhóc ạ, ông ta sẽ quan tâm đến nó. Dù sao ở đây bố cũng bị ra rìa rồi.”

Và đó là cách mọi chuyện được sắp xếp. Vào buổi sáng bố tôi nói hết toàn bộ thông tin liên quan đến bộ máy của bác sỹ Fawcett với Elihu Clay, nhưng không nói gì đến nguồn cấp tin. Ông khuyên ông ta đừng nên hành động gì cho tới khi chúng tôi quay về.

Xong xuôi chúng tôi lên đường, lòng không quá hy vọng.