Chương 9 Bài Học Về Logic
Chúng tôi tìm thấy lâu đài Hamlet đang đắm mình trong những tấm thảm xanh, trần nhà khổng lồ của lâu đài mang màu xanh ngút mắt, những bức tường véo von tiếng hót của ngàn loài chim. Được ăn học trong nền văn minh cực kỳ hiện đại, tôi không còn là một thiếu nữ điềm tĩnh thở dài đa cảm trước những vẻ đẹp giản dị của trái đất; nhưng tôi phải thú nhận rằng tính ngọt ngào, mãnh liệt của thiên đường này xâm chiếm đầu óc tôi, tôi phải nín thở còn háo hức hơn cả một trinh nữ lạnh lùng được cho rằng sẽ làm thế, trong những ngày sống với khí carbon và xà lim sắt thép.
Chúng tôi tình cờ bắt gặp ngài Drury Lane, ngồi theo kiểu của Thánh Gandhi, trên một đồi rậm cỏ dưới ánh mặt trời. Có biểu hiện hơi khổ sở trên gương mặt ông; và chúng tôi thấy ông đang nhận một thìa đầy thuốc chán ngắt từ tay con quỷ ranh mãnh Quacey khó tin ấy. Người đàn ông nhỏ thó có làn da nhám già nua nhăn nhó băn khoăn. Ngài Lane nuốt ực thứ nước khó uống ấy, nhăn mặt, tay kéo chặt hơn chiếc áo choàng vải bông vào phần thân để trần. Da thịt phần thân trên của ông vẫn săn chắc so với một người ở tuổi bảy mươi; nhưng ông gầy ghê gớm, và rõ ràng là ông không khỏe.
Rồi ngước mắt lên, ông trông thấy chúng tôi. “Thumm!” ông reo lên, gương mặt bừng sáng. “Và Patience nữa, cháu yêu! Chỉ cần đứa cháu nhỏ này thôi còn tốt hơn nhiều thuốc của người đấy, Caliban * !”
Ông đứng phắt dậy, nồng hậu xiết chặt tay chúng tôi, vui sướng, hai con mắt sáng ngời, nói năng liến thoắng như một cậu nhóc học sinh, sự chào đón chân thành của ông làm bố con tôi hết sức xúc động. Ông xua Quacey đi lấy đồ uống có đá rồi kéo tôi ngồi xuống cạnh chân ông.
“Patience này,” ông nói, nghiêm túc dò xét tôi, “cháu là hơi thở của thiên đàng đích thực. Cơn gió nào đã mang bố con cháu tới đây? Thực sự là một việc phúc đức nhất đấy, ta đảm bảo với cháu.”
“Ốm rồi hả!” bố tôi càu nhàu, với đôi mắt lo âu.
“Tệ lắm. Tuổi già đã đánh gục ta rồi. Có vẻ ta đã mắc phải từng cơn đau của tình trạng lão suy căn cứ theo lịch y tế… Nào cho ta biết chuyện hai bố con cùng cuộc hành trình đi. Đã xảy ra chuyện gì? Cuộc điều tra đến đâu rồi? Hai bố con đã tống tên bác sỹ Fawcett vô lại vào tù chưa?”
Bố con tôi nhìn nhau kinh ngạc. “Ngài không đọc báo à, ngài Lane?” Tôi thở gấp.
“Hả?” Nụ cười của ông vụt tắt, ông sắc sảo dò xét chúng tôi. “Không. Các bác sỹ của ta đến tận hôm nay vẫn cấm tiệt mọi hình thức giải trí tinh thần… Nhìn mặt hai người ta hiểu đã xảy ra chuyện cực kỳ không mong muốn.”
Và bố tôi kể cho ông nghe vụ giết thượng nghị sĩ Joel Fawcett. Khi nghe từ “án mạng”, đôi mắt sắc bén của ông già vụt sáng, sắc hồng trở lại trên đôi má ông. Hoàn toàn vô thức ông cởi phăng tấm áo choàng vải bông và hít thật sâu; rồi chuyển ánh mắt từ bố tôi sang tôi hỏi những câu hỏi thực sự giật mình.
“Hừm,” cuối cùng ông nói. “Thú vị. Thú vị nhất đấy. Nhưng tại sao hai người lại rời khỏi hiện trường? Patience, nghe không giống cháu gì cả. Bỏ cuộc không đuổi nữa à? Ta nên hình dung rằng hẳn là cháu sẽ phải hăng say giống một con chó săn bé bỏng, xinh xắn đến cùng chứ.”
“Ôi, con bé tích cực lắm đấy,” bố tôi cằn nhằn.
“Nhưng thưa ngài Lane, thực tế là chúng tôi đã gặp khó khăn. Patty có những ý tưởng - chết tiệt, con bé ăn nói giống hệt ngài! Chúng tôi muốn có lời khuyên của ngài.”
“Ta sẽ tặng hai người,” ngài Lane nói, mỉm cười buồn, “vì những điều xứng đáng thế này giờ không còn nhiều nữa.” Khi ông nói đến đây, Quacey quay lại, bước đi loạng choạng tay mang một khay bánh sandwich và đồ uống; ngài Lane nhìn chúng tôi, khi tôi e rằng chúng tôi đã mất hết kiên nhẫn.
“Được rồi,” ông nói nhanh khi chúng tôi ăn uống xong xuôi, “hai người kể ta nghe toàn bộ câu chuyện từ đầu xem nào, không bỏ sót chi tiết nào cả.”
“Kể ra hết đi, Patty,” bố tôi nói với tiếng thở dài. “Thề có Chúa, đây là lịch sử lặp lại chính nó! Còn nhớ không - bao giờ nhỉ? - mười một năm trước à? Khi Bruno và tôi đã đến đây lần đầu tiên, kể cho ngài nghe về vụ giết Harley Longstreet? Lâu quá rồi nhỉ, ngài Lane.”
“Ngài cứ khăng khăng nhắc tôi nhớ về quá khứ huy hoàng ấy, chán thật,” quý ông già lẩm bẩm. “Nói tiếp đi, Patience. Ta sẽ không rời mắt khỏi môi cháu đâu. Và phải chắc chắn cháu không được bỏ sót gì.”
Và thế tôi kể một câu chuyện dài về vụ giết thượng nghị sĩ Fawcett, mô tả mọi thứ với sự chuẩn xác của bác sỹ phẫu thuật - những biến cố, thông tin, những ấn tượng về mọi người. Ông ngồi đó như một pho tượng Phật bằng ngà, lắng nghe bằng mắt. Và có vài lần cặp mắt phi thường đó rực sáng, ông khẽ gật đầu như thể nhìn thấy điều gì đó cực kỳ quan trọng trong những gì tôi đã nói.
Tôi hoàn tất thiên truyện khi giải thích lời làm chứng của Carmichael trong nhà hàng, cập nhật thêm cho câu chuyện. Và rồi ông mạnh mẽ gật đầu và mỉm cười, nằm ngả lưng xuống mặt cỏ ấm.
Chúng tôi ngồi trong im lặng, ánh mắt bố hướng lên trời, nét mặt ngây ra đến lạ lùng. Tôi nhắm nghiền mắt lại, thở dài, tự hỏi lời phán quyết sẽ là gì. Phải chăng tôi đã bỏ lỡ gì đó trong phân tích của mình? Liệu ngài ấy có đề nghị tôi vạch ra giả thiết đã ăn sâu trong óc tôi sau bao nhiêu dòng suy nghĩ tràn đến?
Tôi mở mắt ra, ngài Lane đang ngồi dậy.
“Aaron Dow,” ông nói bằng giọng ấm áp nhẹ tênh, “là người vô tội.”
“Wow!” Tôi hét lên. “Bố, bây giờ bố nghĩ con gái mình thế nào hả?”
“Bố chưa từng nói hắn có tội, chết tiệt,” bố tôi lẩm bẩm. “Chính cái cách con đạt đến điều đó làm phiền bố thôi.” Ông chớp mắt hai lần vì mặt trời, rồi nhìn chằm chằm ngài Lane. “Làm sao ngài biết điều đó?”
“Vậy là ngài cũng đưa ra kết luận đó,” ngài Lane lẩm bẩm. “Ngài nhắc tôi nhớ đến định nghĩa về thơ phú của Samuel Johnson. Ông ta nói rằng tinh túy của thơ phú đó là sáng tạo - sáng tạo sản sinh sự kinh ngạc. Cháu đúng là một nhà thơ phi thường nhất đấy, Patience.”
“Thưa ngài,” tôi mạnh mẽ nói, “đó là cách nói của một quý ông đấy.”
“Giá mà ta trẻ hơn nữa, cháu yêu ạ… Giờ cho ta biết làm sao cháu quyết định rằng Aaron Dow không có tội.”
Tôi ngồi lại thật thoải mái trên lớp cỏ dưới chân ông, đắm chìm váo lập luận của mình.
“Trên cánh tay phải của thượng nghị sĩ Fawcett,” tôi bắt đầu, “xuất hiện hai vết trầy khác thường: một là vết thương do dao gây ra cách cổ tay một đoạn ngắn, vết còn lại - nhất định không phải do dao gây ra, theo lời bác sỹ pháp y Bull - cao hơn trên cánh tay khoảng bốn phân. Hơn nữa, bác sỹ Bull nói cả hai vết trầy được tạo ra ngay trước khi chúng cháu phát hiện ra xác chết, cũng vào khoảng thời gian xấp xỉ. vì những tuyên bố này khá trùng hợp với thực tế rằng tội ác bạo lực đã diễn ra không lâu trước đó. Cháu cảm thấy có lý do chính đáng để giả định rằng các vết trầy có khả năng được tạo ra trong lúc diễn ra vụ giết người.”
“Đánh giá tốt đấy,” quý ông lẩm bẩm. “Đúng, cháu có lý do chính đáng. Nói tiếp đi.”
“Suy nghĩ này khiến cháu thấy thú vị ngay từ đầu. Làm sao hai vết trầy khác nhau - tức là hai vết trầy được tạo ra với các lực khác nhau cơ bản - tuy nhiên lại xuất hiện cùng một lúc? Khi ngài ngừng lại để suy nghĩ, thì sẽ thấy đó là điều bất thường nhất. Cháu là một phụ nữ rất đa nghi mà, ngài Lane, nên cháu đã quyết định rằng vấn đề này phải được giải quyết ngay lập tức.”
Ông cười rộng ngoác. “Ta sẽ chắc chắn không phạm tội giết người, Patience, nếu cháu đang ở cách hiện trường trong bán kính mười ngàn dặm. Sắc sảo lắm, cháu yêu! và cháu đã kết luận như thế nào?”
“Vết thương do dao gây ra được giải thích rất dễ dàng. Từ vị trí xác chết trên ghế sau bàn làm việc, việc tái hiện lại nội dung tội ác đó rất đơn giản. Kẻ sát nhân chắc phải đứng trước mặt nạn nhân của hắn, phía trước bàn làm việc hoặc đứng chếch sang bên một chút. Hắn cầm lên con dao rọc giấy nằm trên bàn rồi tấn công nạn nhân. Giờ chuyện gì đã xảy ra? Thượng nghị sĩ theo bản răng chắc phải giơ cánh tay phải lên tránh cú đâm. Và con dao sượt cổ tay ông ta, để lại một vết trầy sắc lẹm. Đây là bức tranh duy nhất cháu có thể dựng lại từ các thông tin.”
“Như ảnh chụp vậy, cháu yêu. Hoan hô. Rồi thì sao? Còn vết trầy kia?”
“Cháu đang nói đến nó đây. Vết trầy kia không phải do dao gây ra, hoặc ít nhất cũng không do cùng con dao đó gây ra như vết thương trên cổ tay thượng nghị sĩ, bởi vì vết trầy này - mờ nhạt và lởm chởm. Vết trầy thứ hai này xuất hiện trên cánh tay của thượng nghị sĩ cùng thời điểm lưỡi dao chém vào cổ tay ông ta. Cụ thể vết trầy này cách vềt trầy do dao gây ra bốn phân trên cánh tay phải.” Tôi hít một hơi sâu. “Tức là vật gây ra nó là lưỡi dao sắc nhưng không bén nằm cách con dao trong tay kẻ sát nhân khoảng bốn phân.”
“Ngưỡng mộ.”
“Nói cách khác, giờ đây chúng ta phải tìm thứ gì đó trên tay kẻ sát nhân gây ra vết trầy thứ hai. Thứ gì có thể nằm trong tay kẻ sát nhân cách con dao trong nắm tay của hắn bốn phân.”
Quý ông già gật đầu dứt khoát. “Kết luận của cháu, Patience?”
“Một sợi dây chuyền của phụ nữ,” tôi đắc thắng reo lên, “được nạm ngọc hoặc có chạm khắc, đã cào xước cánh tay trần của Fawcett - ông ta đang mặc áo sơ mi dài tay, nhớ không - trong khi con dao đang sượt qua cổ tay ông ta!!”
Bố tôi lầm bầm trong hơi thở, ngài Lane mỉm cười. “Lại sắc sảo, cháu yêu ạ, nhưng nên hạn chế. Vậy là một phụ nữ đã giết thượng nghị sĩ Fawcett? Không nhất thiết đâu, vì có một thứ trên tay người đàn ông tương ứng về vị trí với chuỗi hạt trong tay người phụ nữ, khi cánh tay giơ lên…”
Tôi ngu ngốc nhìn chằm chằm. Sai lầm đầu tiên của tôi? Những ý nghĩ giận dữ sôi lên trong đầu tôi. Rồi: “À, ý ngài là khuy măng sét của người đàn ông? Dĩ nhiên! Cháu đã nghĩ tới rồi, nhưng làm sao đó qua trực giác cháu cảm thấy chuỗi hạt của người phụ nữ khả thi hơn.”
Ông lắc đầu. “Nguy hiểm đấy, Patience. Đừng bao giờ làm thế. Phải nghiêm túc tuân thủ những khả năng logic… Vậy là giờ chúng ta đã biết rõ được kẻ thủ ác sẽ là đàn ông hay phụ nữ.” Ông yếu ớt mỉm cười. “Có lẽ đây chỉ đơn thuần là một trường hợp nhận thức chưa hoàn chỉnh. Giáo hoàng nói rằng tất cả những mối bất hòa là do không hiểu sự hòa hợp. Ai biết được chứ? Nhưng nói tiếp đi, Patience, cháu làm ta cảm thấy thú vị quá.”
“Bây giờ, ngài Lane, không biết đàn ông hay phụ nữ sử dụng con dao đó và gây ra hai vết trầy, chỉ chắc chắn được một điều thôi: kẻ sát nhân dùng tay trái để chém thượng nghị sĩ Fawcett.”
“Làm sao cháu biết điều đó, cháu yêu?”
“Với logic đơn giản ạ. vết thương do dao gây ra nằm trên cổ tay phải của thượng nghị sĩ, còn vết trầy do khuy măng sét gây ra cách bốn phân trên cổ tay ông ta, tức là vết trầy do khuy măng sét nằm bên trái vết thương do dao gây ra. Đến giờ rõ ràng chưa ạ? Giờ giả sử hung thủ cầm dao trong tay phải, vết trầy do khuy măng sét gây ra hẳn sẽ xuất hiện bên phải vết thương do dao gây ra, như khám nghiệm ban đầu sẽ cho thấy điều đó. Nói cách khác, con dao trong tay phải luôn luôn mang nghĩa là vết trầy do khuy măng sét gây ra nằm ở bên phải; tương tự nếu con dao nằm trong tay trái. Nhưng thực tế là gì? Thực tế là vết trầy do khuy măng sét gây ra xuất hiện bên trái vết thương do dao gây ra, do đó cháu kết luận rằng hung thủ dùng tay trái để thực hiện cú đâm. Trừ phi hắn là kẻ lập dị và dĩ nhiên thế là ngu ngốc.”
“Thanh tra,” quý ông già nhẹ nhàng nói, “ngài nên tự hào về con gái mình đi. Vẫn không thể tin nổi,” ông thì thầm, mỉm cười với tôi, “rằng một phụ nữ lại có thể suy luận sắc bén đến vậy. Patience, cháu là… một viên ngọc đấy. Nói tiếp đi.”
“Đến giờ ngài vẫn đồng ý à, ngài Lane?”
“Ta kiệt sức vì sự cứng rắn không thể tránh khỏi trong logic của cháu,” ông cười thầm. “Cho đến giờ thì hoàn hảo. Nhưng cẩn thận đấy, cháu yêu, cháu đã quên đưa ra một điểm rất quan trọng”
“Đâu có ạ,” tôi trả miếng. “Ôi trời! Ý cháu là cháu quên không đưa ra, nhưng chỉ vì cháu chưa đi đến đó… Aaron Dow, kẻ đã thụ án tại nhà tù Algonquin mười hai năm hoặc hơn là người thuận tay phải - một thực tế được đưa ra, với những thực tế khác nữa trong câu chuyện của cai ngục Magnus. Đấy có phải là điều ngài nghĩ đến không ạ”
“Đúng vậy. Ta tò mò muốn biết sao cháu nghĩ được thế.”
“Thế này ạ. Hai năm sau khi ông ta đến Algonquin, ông ta gặp một tai nạn làm liệt cánh tay phải. Và thế là ông ta học cách dùng tay trái như một phong cách riêng. Nói ngắn gọn, trong vòng mười năm ông ta trở thành người thuận tay trái.”
Bố tôi ngồi dậy. “Bây giờ chúng ta đến đây rồi,” ông phấn khích nói. “Đây là nơi chúng tôi khó hiểu, ngài Lane.”
“Ta lại nghĩ ta biết chuyện gì đang làm phiền hai người,” quý ông già nói. “Tiếp đi, Patience.”
“Đối với cháu,” tôi quả quyết nói, “thì rất rõ ràng. Mặc dù cháu phải thừa nhận mình chẳng có căn cứ gì ngoài phán đoán và quan sát để hỗ trợ ý kiến của mình - nhưng cháu vẫn cho rằng bán cầu não phải và bán cầu não trái (có phải là thuật ngữ không nhỉ?) hoạt động tương đương nhau như với chân và tay.”
“Nói tiếng Anh đi,” bố tôi càu nhàu. “Con có cái suy nghĩ đấy từ chỗ quái nào thế?”
“Bố! Con muốn nói là một người thuận tay phải dĩ nhiên sẽ thuận chân phải; và tương tự như thế thuận tay trái nghĩa là thuận chân trái. Con biết mình là người thuận tay phải, và con luôn luôn bước chân phải lên trước khi làm hầu hết mọi việc; và con cũng nhận ra điều này ở những người khác nữa. Nào, có phải cháu đang đưa ra giả định công bằng không, ngài Lane?”
“Ta hiếm khi có căn cứ về những chủ đề này, Patience. Nhưng cho đến giờ ta tin ý kiến của giới y học sẽ xác minh lời cháu. Tiếp theo là gì?”
“Nếu ngài chấp nhận điều đó, lý lẽ tiếp theo đó là nếu một người thuận tay phải không thể sử dụng được cánh tay yêu thích của mình, và phải học cách dùng tay trái, như Aaron Dow đã làm suốt mười năm, vậy thì trong tiềm thức ông ta sẽ bắt đầu dùng chân trái để đạp bàn đạp nữa, bất chấp thực tế là hai chân ông ta không bị làm sao. Đó là điểm bố cháu nghi ngờ nhiều nhất. Nhưng nó dường như logic, đúng không ạ?”
Ông nhíu mày. “Ta e rằng cháu không thể luôn luôn áp dụng logic vào các thực tế sinh lý học, Patience.” Tim tôi chùng xuống, nếu vấn đề này bị bác bỏ thì toàn bộ phần thân bài tranh luận của tôi sẽ sụp đổ.
“Nhưng mà,” và tôi lại thấy tràn trề hy vọng, “có một thực tế khác từ câu chuyện của ngài mà cực kỳ hữu ích. Và đó là bên mắt phải của ông Aaron Dow đó cũng bị hủy hoại đồng thời với cánh tay phải bị tê liệt.”
“Điều này giải thích được mọi chuyện thế nào?” bố tôi hỏi, bối rối.
“Nó làm thay đổi đáng kể các vấn đề đấy, thanh tra. Vài năm trước ta đã có dịp tư vấn một quan chức về chủ đề này. Ngài còn nhớ vụ Brinker mà câu hỏi về tay trái và tay phải trở nên quan trọng không?” Bố tôi gật đầu. “Vị quan chức được tôi tư vấn bảo tôi rằng, lý thuyết bán cầu não trái và phải được ngành y tế chấp nhận nhiều nhất là lý thuyết thị giác. Nếu tôi nhớ chính xác câu anh ta nói, lý thuyết thị giác duy trì quan điểm rằng, ở trẻ sơ sinh tất cả những cử động chủ động phụ thuộc vào hình ảnh. Anh ta cũng nói rằng các xung động thần kinh có liên quan với thị lực, bàn tay, bàn chân, nói, viết, tất cả đều bắt nguồn từ một vùng não tương tự - ta quên mất thuật ngữ chính xác rồi. Thị lực đòi hỏi cả hai mắt, nhưng mỗi con mắt là một chủ thể của chính nó, các hình ảnh của mỗi con mắt đạt ý thức hoàn toàn độc lập và riêng rẽ. Một trong hai con mắt như một ‘kính ngắm’ có chức năng như kính ngắm của súng. Con mắt nào dùng để ngắm sẽ quyết định cá nhân đó thuận tay trái hay tay phải. Nếu thị lực của một mắt bị hỏng, khả năng của thị lực sẽ được chuyển sang con mắt kia.”
“Cháu hiểu ngài đang nói tới đâu,” tôi chậm rãi nói. “Nói cách khác, căn cứ theo lý thuyết thị giác, một người thuận tay phải ngắm bằng mắt phải, và nếu người đó mất mắt phải và dùng mỗi mắt trái, khả năng thị lực được chuyển sang và ảnh hưởng đến cá nhân đó về mặt sinh lý, nhờ thế anh ta trở thành người thuận tay trái.”
“Đại thể đúng vậy. Dĩ nhiên, như ta hiểu, còn các yếu tố khác như thói quen nữa. Nhưng chắc chắn Dow đã sử dụng mỗi mắt trái trong mười năm, tương tự như thế là cánh tay trái. Trong trường hợp đó, ta cảm thấy chắc chắn anh ta hẳn bị thói quen đó chi phối, thần kinh anh ta cũng có sự thay đổi, để cũng trở thành một người thuận tay trái.”
“Wow!” Tôi nói. “Cháu có duyên với những con số lẻ! Thu được câu trả lời đúng dù thông tin không chính xác… Bây giờ ngài thấy đấy, nếu đúng là trong mười năm qua Aaron Dow đã thuận chân trái cũng như tay trái, vậy chúng ta có một mâu thuẫn đáng quan tâm trong bằng chứng.”
“Cháu vừa chứng minh rằng,” ngài Lane động viên nói, “hung thủ phải dùng tay trái để sao cho trùng khớp một cách chuẩn xác với Dow. Vấn đề là gì?”
Tôi châm một điếu thuốc bằng những ngón tay run rẩy. “Cháu sẽ thảo luận nó dưới một góc độ khác. Ngài còn nhớ cháu đã nói trong câu chuyện của mình, rằng có dấu giày trong lớp tro của lò sưởi - dấu giày chân phải. Từ các thông tin khác chúng cháu biết rằng ai đó đã đốt cái gì đó rồi dập lửa, hành động này giải thích cho dấu giày đó. Giờ thì với dập lửa - cháu sẽ cạo đầu ai phủ nhận điều này - đó hoàn toàn là một hành động vô tình.”
“Không nghi ngờ gì nữa.”
“Nếu ngài muốn dập lửa, ngài sẽ phải dùng chân là chủ yếu. À, cháu sẽ thừa nhận rằng đôi khi chỉ vì tiện với vị trí đứng, ngài có thể dập bằng chân trái ngay cả khi ngài thuận chân phải. Nhưng điều này không đúng với người dập tro tàn trong lò sưởi. Vì như cháu đã nói với ngài, chúng cháu thấy dấu mũi giày chân trái trên tấm thảm trước mặt lò sưởi, nơi thứ gì đó đang bị đốt. Tức là hung thủ đang ở vào vị trí có thể dễ dàng dùng cả hai chân. Trong trường hợp này, rõ ràng hắn sẽ dập lửa bằng chân thuận của mình. Nhưng hắn đã dập lửa bằng chân nào? Bằng chân phải! Vậy thì hắn là kẻ thuận chân phải, và do đó là thuận tay phải!”
Bố tôi cằn nhằn gì đó không thể hiểu nổi. Quý ông già thở dài rồi nói: “Và tất cả điều này dẫn cháu đến sự mâu thuẫn nào?”
“Đến mâu thuẫn này: Dù kẻ nào sử dụng con dao đi nữa, hắn dùng tay trái. Dù kẻ nào dập lửa đi nữa, hắn là kẻ thuận tay phải. Nói cách khác, có vẻ như liên quan đến hai tên; một kẻ thuận tay trái ra tay giết người; và một kẻ thuận chân phải thì đốt mảnh giấy rồi dập tắt.”
“Nói thế thì có gì sai đâu cháu yêu?” ông già nhẹ nhàng hỏi. “Có liên quan đến hai tên như cháu nói. Thế thì sao?”
Tôi nhìn trừng trừng. “Ý ngài không phải thế hay sao?”
Ông cười thầm. “Ta có ý gì?”
“Dĩ nhiên ngài đang đùa cháu! Để cháu nói tiếp. Làm sao kết luận này lại ảnh hưởng đến Aaron Dow? Không cần biết Dow dính líu như thế nào, chắc chắn ông ta không phải người đốt tờ giấy rồi dập tắt. Vì ông ấy hẳn sẽ dập bằng chân trái như chúng ta đã phân tích, và chúng ta biết đốm lửa được dập bằng chân phải.”
“Rất tốt. Thế tờ giấy được đốt vào mốc thời gian nào? Tập giấy trên bàn làm việc là tập mới - chỉ có hai tờ giấy bị mất.”
“Các vết thương chí tử của thượng nghị sĩ Fawcett đã bắn máu ra bàn làm việc chỗ ông ta ngồi; vì có một vết máu lớn hình vuông góc trên bàn thấm, góc vuông được tạo thành bởi một góc của tập giấy khi nó còn nằm trên bàn thấm. Khi bố con cháu phát hiện ra, tờ giấy trên cùng của tập giấy ghi chú trống trơn - không dính máu. Nhưng sao có thể thế được? Nếu tờ giấy trên cùng đó là tờ giấy nằm trên bàn vào thời điểm thượng nghị sĩ bị giết, chắc chắn sẽ bị bắn máu, bởi vì bàn thấm phía dưới tập giấy có dính máu. Vậy thì tờ giấy sạch bố con cháu thấy không phải là tờ giấy nằm trên cùng tập giấy ghi chú khi máu bị bắn ra từ các vết thương của thượng nghị sĩ. Nói cách khác, chắc chắn phải có tờ giấy khác nằm phía trên nó bị bắn máu, và tờ giấy đẫm máu đó đã bị xé khỏi tập giấy ghi chú, bỏ lại tờ giấy sạch nằm bên dưới. Tờ giấy bọn cháu đã tìm thấy.”
“Chính xác.”
“Bây giờ chúng ta đã giải thích được một trong hai tờ giấy bị mất: nó nằm trong phong bì được gửi cho Fanny Kaiser, và chắc đã được chính Fawcett sử dụng trước khi bị giết. Vậy tờ giấy bị mất duy nhất - tờ giấy bị đốt trong lò sưởi mà đích thân bố cháu đã khẳng định xuất phát từ tập giấy ghi chú trên bàn - chắc chắn phải là tờ giấy bị xé khỏi tập giấy ghi chú, tờ giấy thấm máu lẽ ra phải nằm ở đó nhưng đã bị xé. Nhưng nếu tờ giấy bị mất đã dính máu, nó chắc phải bị xé đi sau vụ án mạng, chính do vụ án mạng làm bắn máu ra tờ giấy đó ngay từ đầu. Do đó tờ giấy này cũng bị đốt cháy sau vụ án mạng và được dập tắt sau đó. Ai đã đốt nó? Có phải hung thủ không? Nhưng nếu hung thủ là kẻ đốt tờ giấy đồng thời cũng là kẻ dập lửa, vậy thì Dow, người mà cháu đã chứng tỏ rằng không thể là người làm việc đó, thì cũng không thể là kẻ giết người!”
“Đấy, đấy!” quý ông già nhẹ nhàng kêu lên.”Đừng nhanh quá thế, Patience. Cháu đang giả sử rằng kẻ giết người và kẻ dập lửa là một người. Nhưng cháu có thể chứng minh được không? Vì có một cách chứng minh điều đó, cháu biết đấy.”
“Ôi, trời đất!” Bố tôi rên rỉ, rầu rĩ nhìn chằm chằm xuống chân.
“Bằng chứng? Nhất định rồi! Giả sử rằng hung thủ và kẻ dập lửa là hai người, như ngài nói. Theo lời bác sỹ Bull, vụ giết người xảy ra vào lúc mười giờ hai mươi. Carmichael đã đứng gác bên ngoài từ mười giờ kém mười lăm đến mười rưỡi, chỉ trông thấy một người đi vào nhà trong khoảng thời gian đó, và cũng chính người đó bước ra. Hơn thế nữa, cảnh sát đã lục soát toàn bộ ngôi nhà và không tìm thấy ai đang trốn. Không có ai rời khỏi nhà giữa thời điểm Carmichael phát hiện xác chết và khi cảnh sát đến. Không có lối ra nào khác ngoài cửa ra vào Carmichael đã theo dõi, vì tất cả các cửa ra vào và cửa sổ khác được phát hiện đã bị khóa từ bên trong…” Bố tôi lại rên rỉ. “Ôi, nhưng nó đẹp lắm, ngài Lane! Vì điều này có nghĩa là không liên quan đến hai người, chỉ có một người từ đầu chí cuối, do đó chỉ một người trong căn phòng có người chết, ra tay giết người, đốt bức thư rồi dập lửa. Nhưng như cháu đã cho thấy, Aaron Dow không thể nào là người dập lửa, nên ông ta cũng không thể là hung thủ. Vậy, Aaron Dow là người vô tội như ông ta đã từng thế mười năm về trước!”
Rồi tôi ngừng lại thở lấy hơi, chờ được tuyên dương và vì mệt mỏi.
Ngài Lane trông có vẻ hơi buồn. “Ngài thanh tra, giờ đây tôi nhận ra mình đã biến thành một kẻ vô dụng của xã hội như thế nào. Ngài đã có được một Sherlock Holmes thực sự, còn việc gì để tôi làm trong cái thế giới này nữa. Cháu yêu à, đó là một phân tích tuyệt vời. Cháu đã hoàn toàn đúng - cháu đã tiến đến tận mức này.”
“Lạy Chúa tôi,” bố tôi kêu lên, vùng đứng dậy, “ngài định nói là sẽ còn nữa cơ à?”
“Còn khá nhiều nữa đấy, thanh tra, và còn quan trọng hơn nhiều.”
“Ngài muốn nói,” tôi háo hức, “rằng cháu vẫn chưa đưa ra được kết luận tự nhiên? Dĩ nhiên, có chuyện này - nếu Dow vô tội, vậy thì ai đó đang gài bẫy ông ta.”
“Và?”
“Và kẻ trừng phạt Dow, kẻ đang gài bẫy ông ta thuận tay phải. Hắn đã dùng tay trái nhằm tạo sự tương đồng rất khớp với Dow, biến Dow thành hung thủ. Tuy nhiên, việc hắn vô tình sử dụng chân phải cho thấy hắn thực sự thuận tay phải.”
“Hừm. Đó không phải điều ta muốn nói. Cháu đã bỏ sót, hoặc không xem xét những yếu tố khác dẫn đến những suy luận còn giật mình hơn nhiều, cháu yêu!”
Bố tôi giơ cả hai tay lên. Về phần mình, ngoan ngoãn nói: “Vâng?”
Ngài Lane ném sang tôi cái nhìn sắc lẹm, bốn mắt chúng tôi giao nhau một lúc. Rồi ông mỉm cười. “Vậy là cháu cũng nghĩ ra rồi đúng chưa?”
Ông lại chìm trong mơ màng, tôi nghịch nghịch một nhánh cỏ khi tự hỏi có nên nói hay không …
“Nghe này!” Bố càu nhàu. “Bố cũng phải quyết liệt đây. Mới tình cờ nghĩ đến nó. Được rồi, Patty, hãy trả lời câu này. Làm thế quái nào con có thể chắc chắn thằng cha để lại dấu mũi giày trên thảm cũng là kẻ dập lửa? Bố thừa nhận điều này có thể đúng. Nhưng nếu con không thể chứng minh được thật nhanh, thì cái lý thuyết tuyệt vời của con đâu hết rồi thế?”
“Nói cho ông ấy nghe đi, Patience,” Ngài Lane nhẹ nhàng đáp.
Tôi thở dài. “Bố tội nghiệp ơi! Chắc bố lẫn lộn khủng khiếp rồi. Chẳng phải con đã nói rằng chỉ liên quan đến một người thôi sao? Chẳng phải con đã hỏi Carmichael rằng anh ta có bước chân lên tấm thảm gần lò sưởi không, anh ta nói không đấy sao? Chẳng phải chúng ta đã nghe ngài Hume nói rằng những dấu chân đó không thể là của thượng nghị sĩ Fawcett đó sao? Vậy thì còn ai nữa có thể để lại dấu mũi giầy ngoài kẻ sát-nhân-đốt-thư dập lửa?”
“Được rồi, được rồi! Giờ chúng ta làm gì?”
Ngài Lane nhướng cặp lông mày. “Thanh tra thân mến của tôi ơi! Điều này hiển nhiên rồi còn gì?”
“Cái gì hiển nhiên?”
“Dĩ nhiên là hành động. Ngài phải quay về Leeds ngay lập tức để gặp Dow.”
Tôi nhíu mày; việc này quá sức đối với tôi. về phần bố tôi, ông hoàn toàn bối rối. “Gặp Dow? Vì Chúa, để làm gì chứ? Lão ngu si tội nghiệp đó khiến tôi sợ đấy.”
“Nhưng việc đó cực kỳ quan trọng đấy, thanh tra,” Ngài Lane vụt đứng dậy khỏi khoảnh đồi, quàng chiếc áo choàng vải bông lên vai. “Ngài phải gặp Dow trước phiên tòa…” Ông bất ngờ trở nên rất suy tư, đôi mắt ông bỗng sáng lên. “Nói thật, ngài thanh tra ạ, sau khi suy nghĩ kỹ càng, tôi tin rằng tôi thích được tham gia vụ này. Ngài có nghĩ là còn phòng cho tôi không, hay liệu anh bạn John Hume của ngài có đuổi tôi ra khỏi Leeds không?”
Tôi kêu lên: “Hura!” bố tôi thực sự trông rất vui sướng: “Ngài biết không, đây đúng là một ý tuyệt vời. Tôi sẽ bị nguyền rủa mất nếu không vui sướng khi tự ngài giải quyết vụ này, đối với Patty mà nói.”
“Nhưng tại sao ngài lại muốn gặp Dow?” tôi hỏi.
“Patience thân mến của ta, chúng ta đã xây dựng một giả thuyết tuyệt vời từ những thông tin nhất định. Giờ thì,” ngài Lane khoác cánh tay trần lên vai bố tôi, nắm lấy tay tôi, “chúng ta sẽ không tạo giả thiết nữa và tiến hành thí nghiệm thôi. Và cho dù thế,” ông nói thêm với cái nhíu mày, “chúng ta vẫn chưa ra được khỏi rừng đâu.”
“Ý ngài là gì ạ?”
“Chúng ta vẫn chưa thể khám phá được,” quý ông lặng lẽ đáp, “ai là kẻ đã giết thượng nghị sĩ.”