← Quay lại trang sách

Chương 10 Phép Thử Trong Xà Lim

Trong lâu đài Hamlet, bố con tôi gặp Quacey lạ thường, con quái vật nửa người nửa quỷ với những nụ cười hiền hậu, với đôi bàn tay khéo léo của nhân vật kịch thuyền trưởng Falstaff, người quản gia được ngài Lane thuê làm việc vặt sẵn sàng phục vụ khiến chúng tôi thích thú. Và giờ đây như thể hoàn tất một ảo ảnh, chúng tôi được một người đánh xe gốc Miền Tây tóc đỏ, cười toe toét lái xe đưa ra khỏi những khu rộng rãi ấy, người mà quý ông già bắt chúng tôi phải gọi là Dromio. Tự tin rằng ngón nghề của mình đã đạt mức thăng hoa, Dromio lái chiếc limousine bóng nhoáng của ngài Lane, với sự tinh tế của một luật sư Philadelphia và sự uyển chuyển của một nữ vũ công ba lê hàng đầu. Chuyến đi của chúng tôi đến vùng nông thôn theo sự hướng dẫn của ông ta trở thành một hành trình tuyệt đẹp, vui vẻ mà tôi tiếc nuối ước rằng nó sẽ kéo dài mãi.

Chuyến đi ấy đặc biệt dễ chịu vì những cuộc nói chuyện đầy tiếng cười của Drury Lane với bố tôi. Phần lớn thời gian tôi hài lòng ngồi giữa họ, mơ màng lắng nghe họ nói chuyện về những ngày xưa cũ, đặc biệt là những hồi tưởng về nhà hát của quý ông già. Cứ mỗi giây phút trôi qua tôi lại càng yêu mến ông hơn. Tôi đã biết điều gì đó về bí mật sức quyến rũ của ông. Ông luôn cố gắng làm tăng sức hấp dẫn bằng phong cách hóm hỉnh nhẹ nhàng, tất cả những gì ông nói dường như đều chuẩn không cần chỉnh, hơn thế nữa lại còn thú vị. Ông đã sống một cuộc sống đủ đầy hơn hầu hết mọi người, đã trải qua hết những tai ương; đã quen biết với tất cả những người xứng đáng quen biết trong kỷ nguyên vàng của kịch nghệ… Nhìn chung, ông là một người hấp dẫn.

Trong hành trình, một người bạn đồng hành dễ chịu cũng tốt ngang với một chiếc xe ngon, như Syrus người viết châm ngôn đã chỉ ra ở đâu đó. Và ở đây chúng tôi được hưởng trọn cả hai điều tuyệt vời nhất. Tiếc rằng nó kết thúc quá nhanh! Chẳng bao lâu chúng tôi đã xuống Thung Lũng, với dòng sông đang lấp lánh nằm một bên, nhà tù và Leeds nằm đâu đó ở giữa phía xa xa. Và tôi run rẩy nhận ra đây là một hành trình nơi cái chết rất có thể đang đợi chờ phía cuối con đường. Khuôn mặt nhỏ sắc sảo của Aaron Dow bắt đầu nhảy múa trong làn sương mù của những ngọn đồi, lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi rời lâu đài Hamlet, tôi để mặc những suy nghĩ u ám xâm chiếm đầu óc; vì suốt mấy tiếng dài dằng dặc của chuyến đi, Aaron Dow chỉ biết câm lặng, không một lần nào tên của ông ta được xướng lên - nên có lúc tôi đã quên đi bản chất đen tối của nhiệm vụ này. Một ý nghĩ chợt đến, lúc này tôi tự hỏi phải chăng chúng tôi đang trong chuyến đi với mục đích nhân từ vô vọng, bất lực cứu vớt con người tội nghiệp không phí cuộc đời hèn mọn của mình trên ghế điện.

Khi chiếc xe vo vo chạy trên đường cao tốc chính đến Leeds, không ai nói chuyện với ai. Chúng tôi chìm trong im lặng một lúc lâu, tôi nghĩ chúng tôi chắc cùng xúc động vì niềm tin phù phiếm đến khó chịu.

Bố tôi nói: “Được rồi, Patty, bố cho rằng chúng ta nên ghé vào khách sạn trong thị trấn, không thể cứ ở nhà Clay mãi được.”

“Bố nói sao cũng được,” tôi mệt mỏi đáp.

“Xì!” quý ông già nói. “Hai người chẳng cần phải làm thế. Vì có ta đi cùng nên ta cho rằng mình có tiếng nói trong kế hoạch này. Ngài thanh tra, ta đề nghị ngài cùng Patience nên tiếp tục ở nhà Elihu Clay, chỉ một thời gian nữa thôi.”

“Nhưng tại sao?” bố tôi phản đối.

“Vì nhiều lý do, mà chẳng có lý do nào quan trọng cả, nhưng đều nằm trong một chiến lược.”

“Có thể nói là,” tôi thở dài, “chúng ta quay trở lại để tiếp tục điều tra về Fawcett?”

“Đúng vậy,” bố tôi trầm tư nói, “mà bố vẫn chưa xong với tên lưu manh khốn kiếp… Nhưng ngài thì sao ngài Lane? Ngài không khỏe đâu, ý tôi là…”

“Không,” quý ông già mỉm cười. “Ta sẽ không quấy rầy nhà Clay đâu. Nhưng ta có một ý… Cha Muir sống ở đâu?”

“Trong căn nhà riêng bé nhỏ ngoài nhà tù,” tôi đáp. “Đúng không bố nhỉ?”

“Ừm. Cũng không phải là một ý tồi. Chẳng phải ngài nói ngài biết ông ấy sao?”

“Thực ra là biết rất rõ. Một con người đáng mến. Ta tin rằng mình sẽ ghé thăm ông ấy,” ông cười thầm, “đỡ phải trả tiền khách sạn. Hai người đi cùng với ta, sau đó Dromio sẽ đưa hai người quay về nhà Clay.”

Bố tôi chỉ đường cho tài xế, chúng tôi đi men theo thị trấn bắt đầu leo lên đồi, lấy bức tượng con voi ma mút xám xịt, khổng lồ xấu xí phía trên làm đích. Xe phóng vút qua nhà Clay rồi dừng lại cách lối vào chính của nhà tù không quá trăm thước. Trước mắt chúng tôi là ngôi nhà khung nhỏ kín mít cây thường xuân, bức tường đá của ngôi nhà nở tung tóe những bông hồng sớm, cùng hàng hiên với hai cái ghế xích đu lớn đang thiết tha mời mọc người ngồi.

Dromio bấm còi xe, cánh cửa trước bật mở đúng lúc ngài Lane bước lên bậc thềm. Trên ngưỡng cửa là Cha Muir, áo thầy tu xộc xệch, gương mặt già hiền từ đang nhăn nhó đau đớn khi cố nhìn qua cặp kính dày cộp xem ai đang đến thăm mình.

Một sự ngạc nhiên lớn xen lẫn vui sướng chậm rãi nở trên gương mặt ông khi nhận ra vị khách.

“Drury Lane!” ông kêu lên, nhiệt tình xiết chặt tay ngài Lane. “Ta không dám tin vào mắt mình. Ngài đang làm gì ở đây? Chúa ơi, ta rất vui được gặp ngài. Vào đi, vào đi.”

Chúng tôi không nghe thấy câu trả lời lí nhí của ngài Lane, trong một lúc mục sư cứ bi bô mãi. Sau đó nhòm thấy chúng tôi ngồi trong xe, ông liền vén vạt áo thầy tu rảo bước xuống bậc thềm.

“Thật vinh hạnh cho ta quá,” ông kêu lên, “Thực đấy, ta…” Gương mặt bé nhăn nheo của ông già cười rạng rỡ. “Hai người không vào à? Ta đã thuyết phục được ngài Lane ở lại - ngài ấy bảo rằng ngài ấy đang đi thăm thú Leeds - nhưng mời hai người vào uống tách trà chút đã, ta chắc chắn…”

Tôi vừa định đáp lời thì trông thấy người diễn viên già, từ trên hàng hiên lắc đầu dứt khoát.

“Chúng cháu rất tiếc,” tôi nói nhanh khi bố tôi chưa kịp mở miệng, “nhưng chúng cháu đang ở nhà ngài Clay, chỉ ghé qua đây thôi, Cha biết đấy. Để lúc khác ạ cho dù Cha đã rất tử tế, thưa Cha.”

Dromio vác hai va li hành ly nặng nề từ trên xe mang lên hàng hiên, cười ngoác miệng với ông chủ rồi quay lại xe đưa chúng tôi xuống đồi. Hình ảnh cuối cùng của hai ông già là dáng cao cao của ngài Lane biến mất vào trong nhà. Còn Cha Muir vẫn đứng nhìn theo chúng tôi, đôi mắt nuối tiếc u buồn.

•   •   •

Chúng tôi không gặp khó khăn gì khi lại đóng vai khách trong nhà Clay; thực ra, khi đến nơi chẳng có ai ở nhà ngoài Martha, bà quản gia nhiều tuổi; bà chào đón chúng tôi như một lẽ tự nhiên. Thế nên chúng tôi lại quay về các phòng ngủ cũ như thể chúng tôi là chủ, một tiếng sau khi bố con Jeremy quay về từ mỏ đá ăn trưa, chúng tôi đang lặng lẽ đợi chờ trên hàng hiên - với vẻ mặt còn bình tĩnh hơn hẳn chúng tôi cảm thấy, tôi e là vậy. Nhưng chẳng có chút dè dặt gì đằng sau lời chào nồng hậu của Elihu Clay, còn đối với Jeremy, anh nhìn tôi chằm chằm, mắt trố ra như thể tôi là ma quỷ hiện hình từng ghé thăm anh với những kết quả hết sức thú vị, anh những tưởng sẽ chẳng bao giờ còn mong gặp lại. Điều đầu tiên anh làm khi bình tĩnh lại đó là lôi tôi ra sau nhà đến một giàn mắt cáo nhỏ khuất sau nhiều lá cây cố gắng hôn tôi, cùng bụi đá trên mặt anh và bao nhiêu thứ khác nữa; khi khôn khéo tránh được vòng tay điêu luyện của anh, cảm thấy đôi môi anh lướt qua đầu tai trái, trong chừng mực nào đó, tôi biết rằng mình đã trở về nhà, và mọi thứ vẫn như xưa.

Chính buổi chiều hôm đó, tiếng còi xe inh tai khiến chúng tôi đứng bật dậy khỏi hàng hiên, ngước mắt lên chúng tôi thấy chiếc xe dài của ngài Lane lướt vào lối xe vào nhà. Dromio cười toét bên vô lăng, ngài Lane vẫy tay từ ghế sau.

Sau khi đã hướng dẫn cụ thể, ngài Lane nói: “Ngài thanh tra, ta rất tò mò về con người tội nghiệp đó trong nhà lao hạt Leeds,” như thể ông vô tình nghe được câu chuyện Aaron Dow ở đâu đó, và đang tranh thủ hỏi thăm.

Bố tôi nhắc lại ngay cho ông mà không hề bực mình, “Cha tuyên úy già đó đã kể cho ngài về anh ta rồi, tôi chắc vậy. Một vụ buồn. Vậy là ngài đang định vào thị trấn à?”

Tôi tự hỏi tại sao ngài Lane lại thận trọng khi nhắc đến mối quan tâm sắc sảo của mình với vụ này. Chắc chắn ông không nghi ngờ - tôi liếc nhìn gia đình Clay. Elihu Clay đang mỉm cười với sự sung sướng ngớ ngẩn trước hình ảnh đích thực của quý ông già, Jeremy mở to mắt kinh ngạc. Bất ngờ tôi nhận ra Drury Lane là một người nổi tiếng, từ thái độ thoải mái, dễ chịu của ông, tôi có thể đoán ông đã quen với sự nịnh nọt.

“Đúng,” ông đáp. “Cha Muir nghĩ rằng tôi có thể giúp được ông ấy. Tôi nên có mong muốn được gặp kẻ tội nghiệp đó. Liệu ngài sẽ thu xếp cho tôi chứ, thanh tra? Tôi hiểu rằng ngài có được đặc quyền với công tố viên.”

“Tôi có thể thu xếp để ngài gặp được ông ta. Patty, con cũng đi cùng luôn đi. Ngài sẽ không phiền chứ, Clay?”

Chúng tôi thốt ra lời xin lỗi khách sáo nhất có thể, hai phút sau chúng tôi đã yên vị cạnh ngài Lane trong chiếc limounsine tiến về thị trấn.

“Tại sao ngài không muốn họ biết chúng ta đến đây làm gì?” Bố tôi gặng hỏi.

“Không có lý do gì đặc biệt cả,” ngài Lane mơ hồ đáp. “Ta nghĩ rằng tốt hơn càng ít người biết càng tốt, thế thôi. Chúng ta không gieo rắc nỗi sợ hãi cho người của mình… Ra đó là Elihu Clay đấy à? Ngoài mặt thì có vẻ chân thành đấy, ta phải nói vậy. Kiểu thương nhân tự cho mình là đúng sẽ không lộ ra điều mờ ám trên mặt, tuy nhiên sẽ biến một giao kèo tàn nhẫn thành cuộc làm ăn hợp pháp.”

“Cháu nghĩ,” tôi gay gắt nói, “ngài chỉ đang chuyện phiếm thôi, ngài Lane, ngài có bí mật nào không đấy.”

Ông phá lên cười. “Cháu yêu ơi, cháu đang đánh giá thấp sự khôn ngoan của ta rồi. Chính xác như ta nói đấy. Hãy nhớ chuyện này còn mới lạ với ta, và ta phải cảm nhận theo cách của ta trước khi bước ra ánh sáng.”

Chúng tôi tìm thấy John Hume trong văn phòng.

“Vậy ra ngài là Drury Lane,” anh ta nói khi chúng tôi giới thiệu hai người. “Tôi đã từng hy vọng, thưa ngài. Ngài là một trong những thần tượng hồi trẻ của tôi. Cơn gió nào mang ngài tới đây thế?”

“Sự hiếu kỳ của người già,” ngài Lane mỉm cười. “Ta là kẻ vác tù và hàng tổng chuyên nghiệp mà, ngài Hume, chuyên đi soi mói chuyên người khác. Đã rời xa sân khấu đầy bụi rồi, không nghi ngờ gì giờ đây ta đi quấy rầy người khác… Ta rất mong muốn được gặp Aaron Dow.”

“Ái chà!” Hume nói, mắt liếc nhanh bố con tôi. “Tôi thấy ngài thanh tra và cô Thumm đây đã lấy hết can đảm. Vậy thì tại sao không? Như tôi đã giải thích nhiều lần trước đó, ngài Lane, tôi là một công tố viên không phải là đao phủ viên. Tôi vô tình tin rằng Dow phạm tội giết người. Nhưng nếu ngài có thể chứng minh điều ngược lại, tôi sẽ rất hạnh phúc. Tôi cam đoan với ngài, sẽ giúp luật sư hủy bỏ tuyên án.”

“Đó là công trạng của ngài, tất nhiên,” ngài Lane nói khô khốc. “Khi nào chúng ta có thể gặp Dow?”

“Ngay lập tức. Tôi sẽ đưa ông ta đến đây.”

“Không, không!” ông già đáp nhanh. “Chúng tôi sẽ không can thiệp đến mức ảnh hưởng tổ chức của ngài đâu, Hume. Nếu có thể, chúng tôi muốn đến nhà tù hạt gặp ông ta.”

“Như ngài muốn,” công tố viên nói, nhún vai viết ra một mệnh lệnh bằng giấy. Với mẩu giấy này, chúng tôi rời văn phòng thẳng tiến đến nhà tù hạt chỉ cách một quãng ngắn. Không lâu sau chúng tôi đi theo một người gác ngục dọc hành lang tối mờ, hai bên là những gian nhỏ có chấn song dẫn đến xà lim của Aaron Dow.

Hồi ở Vienna tôi được một bác sỹ phẫu thuật trẻ nổi tiếng mời đến xem một bệnh viện mới. Khi chúng tôi xuất hiện từ một phòng mổ lúc đó không sử dụng, tôi nhớ rằng một người hơi xanh xao đang ngồi trên một ghế dài cách đó vài thước đứng lên nhìn bác sỹ. Rõ ràng ông ta nghĩ rằng chủ nhà của tôi đến từ một trong các phòng mổ, nơi người ông ta quan tâm đang được làm phẫu thuật. Tôi sẽ không bao giờ quên được gương mặt người đàn ông tội nghiệp đó. Một khuôn mặt nhìn chung là giản dị, giờ đây bao trùm là nét mặt phức tạp nhất - nỗi sợ hãi phờ phạc khổ sở cạnh tranh với niềm hy vọng yếu ớt, gắng gượng…

Khi Aaron Dow nghe tiếng chìa khóa lanh canh trong ổ khóa xà lim, ngước nhìn nhóm nhỏ chúng tôi đứng đó, gương mặt ông ta quặn lại chỉ còn như một nét biểu cảm. Tôi tự hỏi đã xảy ra chuyện gì với cái vẻ “tự mãn” mà công tố viên Hume đã mô tả vài ngày trước, khi anh ta cho rằng Dow đã phản mình sau khi đối mặt với bác sỹ Fawcett. Đây không phải là kẻ bị buộc tội chắc chắn mình sẽ được ân xá. Niềm hy vọng từng lấp lánh trên chiếc mặt nạ đau khổ và sợ hãi đó đang ở vào trạng thái le lói nhất. Đó là hy vọng chập chờn của một con thú bị săn đuổi, cảm nhận thấy mình không còn đường thoát. Những đường nét nhỏ sắc sảo của ông ta bị nhơ bẩn, cứ hệt như thể ông ta là một bức vẽ bằng chì than ai đó lỡ tay làm nó nhòe nhoẹt. Con mắt ông ta nhìn trừng trừng như ma trơi, viền quanh một màu đỏ, một vòng cung thâm quầng đỏ ngầu. Râu ria lâu ngày không cạo, quần áo ông ta cáu bẩn. Đối tượng đáng thương nhất tôi từng chứng kiến, tim tôi như bị ai bóp nghẹt khi thấy vẻ ngoài của ông ta. Tôi liếc nhìn Drury Lane, gương mặt ông rất nghiêm nghị.

Người gác ngục lười nhác mở tung cửa ra cho chúng tôi, ra hiệu chúng tôi bước vào, đóng chặt rồi khóa lại.

“Xin chào, xin chào,” Aaron Dow u ám thốt lên, căng thẳng ngồi trên mép chiếc giường tồi tàn của ông ta.

“Chào Dow,” bố tôi nói với sự thân mật miễn cưỡng. “Chúng tôi dẫn một người tới gặp ông. Đây là ngài Drury Lane. Ông ấy muốn nói chuyện với ông.”

“Ồ.” Ông ta chỉ nói có thế, nhưng nhìn chằm chằm ngài Lane như con chó chờ được ném xương.

“Xin chào Dow,” quý ông già nhẹ nhàng nói, bất ngờ nghiêng đầu liếc nhìn ra ngoài hành lang. Người gác ngục hai tay khoanh trước ngực, đứng dựa vào bức tường trống đối diện xà lim, rõ ràng đang gà gật. “Ông không phiền trả lời vài câu hỏi chứ?”

“Bất cứ điều gì, ngài Lane, bất cứ điều gì,” Dow rền rĩ, giọng thiết tha.

Tôi nghiêng người tựa vào bức tường đá gồ ghề, hơi cảm thấy buồn nôn. Bố tôi thọc hai tay vào túi áo, lẩm bẩm câu gì đó chỉ mình ông nghe thấy, với cách thức vô hại nhất, ngài Lane đang hỏi tù nhân những câu hỏi vô nghĩa, lắng nghe những câu trả lời mà chúng tôi đã biết, hoặc có lý do để tin rằng Dow sẽ chẳng bao giờ hé lộ. Tôi đứng thẳng người lại. Việc này để làm gì nhỉ? Ông già này đang nghĩ cái gì thế? Cuộc ghé thăm khủng khiếp này nhằm mục đích gì?

Họ tiếp tục rì rầm chuyện trò, ngày càng trở nên quen biết nhau - và ngày càng chẳng đi đến đâu cả. Tôi thấy bố tôi không ngừng bước xa khỏi bức tường rồi quay lại, vẻ mặt cực kỳ bối rối.

Thế rồi nó đến. Khi tù nhân còn chưa kịp kết thúc bài diễn văn cay đắng và trước sự kinh ngạc của chúng tôi, quý ông già bỗng rút phắt cây bút chì ra khỏi túi ném mạnh về phía Dow, như thể ông có cách hành hình khác thay vì ghim chặt Dow xuống giường.

Tôi biết mình đã kêu lên, bố tôi nguyền rủa trong kinh ngạc, nhìn ngài Lane như thể ông già này đột nhiên mất trí. Nhưng ngài Lane đang nhìn trừng trừng tù nhân một cách có chủ đích khiến tôi hiểu ra… về phần tù nhân, miệng ông ta há hốc, theo bản năng giơ lên cánh tay trái hòng tránh bị quả tên lửa đâm phải. Lúc đó tôi nhận ra cánh tay phải khô héo, lõng thõng thò ra khỏi ống tay áo của ông ta vô dụng đến thế nào.

“Cái ý tưởng quái gì thế này?” Dow kêu ré lên, co người lại trên giường. “Cố gắng… cố…”

“Đừng để tâm gì đến tôi hết,” ngài Lane lầm bầm. “Đôi khi tôi hay bị thế, nhưng thực sự chẳng làm hại ai đâu. Giúp tôi một việc được không, Dow?”

Bố tôi đã thoải mái lại, cười toét tựa lưng vào tường.

“Một việc ư?” tù nhân run rẩy hỏi.

“Phải,” quý ông già đáp, cúi khom người nhật chiếc bút chì dưới sàn lên. Ông quay đầu có tẩy của bút chì về phía Dow. “Làm ơn đâm tôi đi, được không?”

Cái từ “đâm” làm lóe lên ánh thông tuệ le lói trong con mắt ướt của người tù. Ông ta nắm chặt lấy chiếc bút chì bằng tay trái, e dè tấn công ngài Lane một cách vụng về.

“Ha!” ngài Lane thốt lên thỏa mãn, bước lùi lại. “Một cú đâm xuất sắc. Nào, thanh tra, ngài có vô tình mang theo một mẩu giấy nào không?”

Dow trả lại bút chì với vẻ bối rối. Bố tôi càu nhàu. “Giấy? Để làm cái quái gì?”

“Cứ xem như một trò khác thường nữa của ta đi,” ngài Lane nói với nụ cười thầm. “Nhanh nào, nhanh nào thanh tra, ngài đang lề mề đấy!”

Bố tôi lẩm bẩm rồi chìa ra một cuốn sổ tay bỏ túi, quý ông già nhận lấy rồi xé một trang trắng.

“Giờ thì,” ông nói khi thọc tay vào túi, bí mật lục lọi cái gì đó, “ông tin rằng chúng tôi không hại ông rồi chứ?”

“Vâng. Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ làm bất kỳ điều gì ngài nói.”

“Một đồng minh tuyệt vời.” Ông lôi ra một bao diêm nhỏ, quẹt một que diêm, rồi bằng sự bình tĩnh tuyệt vời, ông châm lửa vào tờ giấy. Nó cháy bùng lên, ông lơ đãng thả rơi nó xuống sàn, bước lùi lại như thể đang chìm trong suy tư.

“Ngài đang làm gì thế?” Tù nhân kêu lên. “Muốn cái thứ chết tiệt này cháy bùng lên à?” Nhảy dựng khỏi giường, ông ta bắt đầu điên cuồng dẫm lên tờ giấy đang cháy bằng chân trái, cứ thế dập liên tục cho đến khi chỉ còn lại tro.

“Và như thế, ta cho rằng,” ngài Lane lẩm bẩm với nụ cười mỉm, “ngay cả đám bồi thẩm đoàn cũng bị thuyết phục đấy, Patience. Còn thanh tra, giờ thì ngài tin chưa?”

Bố tôi làu bàu: “Nếu không được chứng kiến tận mắt, hẳn tôi đã không bao giờ tin. Càng sống chúng ta càng được học thêm.”

Tôi thấy nhẹ nhõm, cười khúc khích, “Sao vậy, bố thực sự đang cải đạo à! Aaron Dow, ông là người rất may mắn đấy.”

“Nhưng tôi chẳng giúp…” người tù bắt đầu nói, bối rối.

Ngài Lane vỗ tay lên đôi vai tả tơi của ông ta. “Kiên cường lên, Dow,” ông hiền từ nói. “Tôi nghĩ chúng tôi sẽ đưa được ông ra ngoài.”

Sau đó bố tôi gọi người gác ngục, anh ta bước qua hành lang, mở khóa xà lim cho chúng tôi ra ngoài. Dow lao đến túm chặt lấy các chấn song sắt, vươn cổ háo hức nhìn theo chúng tôi.

Nhưng lúc chúng tôi bước vào hành lang đáng sợ, một linh cảm xấu ùa đến với tôi. Vì người gác ngục với bộ chìa khóa loảng xoảng sau lưng chúng tôi có nét mặt rất lạ lùng trên gương mặt thô kệch. Nó khiến tôi chợt nghĩ đến ác quỷ, dù tôi tự nhủ với mình rằng chỉ là tưởng tượng. Lúc này tôi tự hỏi liệu anh ta có thực sự đang gà gật khi đứng đối diện xà lim bên kia hành lang. Ôi dào! Rốt cục ngay cả nếu có theo dõi, anh ta có thể gây ra chuyện gì chứ? Tôi liếc nhìn ngài Lane, nhưng ông đang thả bước chìm trong suy tư, tôi cho rằng ông không để ý gương mặt người gác ngục.

Chúng tôi quay về văn phòng công tố viên, lần này phải đứng chờ mỏi gối ở phòng ngoài nửa tiếng. Trong thời gian đó, ngài Lane ngồi hai mắt nhắm nghiền, rõ ràng đang ngủ. Bố tôi thực sự phải vỗ vai ông khi thư ký của Hume cuối cùng cũng nói rằng chúng tôi có thể vào. Ông đứng lên ngay lập tức lầm bầm lời xin lỗi, nhưng tôi chắc chắn ông đang chìm trong suy nghĩ về điều gì đó nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi.

“Ngài Lane,” Hume tò mò nói khi chúng tôi ngồi trong văn phòng anh ta, “ngài đã gặp ông ta. Giờ ngài nghĩ sao?”

“Trước khi ta băng qua đường đến nhà tù hạt tuyệt vời của ngài, ngài Hume,” quý ông già nhẹ nhàng đáp, “Ta chỉ tin Aaron Dow không phạm tội giết thượng nghị sĩ Fawcett. Giờ thì ta biết như thế.”

Hume nhướng đôi lông mày. “Mọi người làm tôi kinh ngạc đấy. Trước tiên là cô Thumm, tiếp theo là ngài thanh tra và giờ là ngài Lane. Một tràng ý kiến ghê gớm chống lại tôi. Ngài có phiền cho tôi biết điều gì khiến ngài nghĩ Dow vô tội không?”

“Patience, cháu yêu của ta,” ngài Lane đáp, “cháu đã dạy cho ngài Hume bài học logic chưa đấy?”

“Anh ta không nghe đâu ạ,” tôi ảo não đáp.

“Ngài Hume, nếu ngài chịu mở rộng tâm trí, vui lòng cứ làm thế trong vài phút tới nhé. Hãy quên hết mọi thứ ngài biết về vụ án đi, và cô Thumm sẽ cho ngài biết lý do tại sao cả ba chúng tôi đều cho rằng Aaron Dow là người vô tội.”

Và thế, lần thứ ba trong nhiều ngày tôi nêu lại giả thuyết của mình, lần này vì lợi ích của John Hume; cho dù trong thâm tâm, trước khi bắt đầu tôi biết một người với cái miệng ương bướng, dòng máu tham vọng thế kia sẽ không quan tâm đến logic đơn thuần. Khi tôi thuật lại hết tất cả những suy luận từ thông tin (tôi có bao gồm lời chứng của Carmichael nhưng không nói đến tên anh ta), Hume lắng nghe với thái độ lịch thiệp hoàn hảo, có vài lần anh ta gật đầu và tôi cho rằng, đôi mắt anh ta ánh lên nét ngưỡng mộ. Nhưng khi tôi nói xong thì anh ta lắc đầu.

“Cô Thumm thân mến của tôi,” anh ta nói, “thật tuyệt vời đối với một phụ nữ - hay đàn ông cũng vậy thôi - nhưng với tôi chuyện này hoàn toàn không tin được. Thứ nhất, không bồi thẩm đoàn nào tin một phân tích như thế, ngay cả khi họ có thể hiểu được nó. Thứ hai, nó mắc phải những lỗi nghiêm trọng…”

“Lỗi?” Ngài Lane có vẻ tò mò. “Hồng nào cũng có gai, những đài nước thì có bùn, và ai cũng mắc sai lầm như Shakespeare từng nói ở một trong những vở Sonnet của ông ta. Tuy nhiên, ngài Hume, tôi lại muốn ngài chỉ ra xem có tha thứ được không. Những sai lầm gì vậy?”

“Lấy chuyện không tin nổi như chân trái và chân phải. Đơn giản cô không thể đưa ra tuyên bố như thế - rằng một người bị mất mắt phải và cánh tay phải sớm muộn sẽ là người thuận chân trái. Nghe ngớ ngẩn kiểu gì. Tôi thắc mắc tính xác thực của nó về mặt y tế. Và nếu điểm này sụp đổ, ngài Lane, toàn bộ giả thuyết của cô Thumm cũng sụp đổ theo.”

“Thấy chưa?” bố tôi càu nhàu, giơ hai tay lên.

“Sụp đổ? Thưa quý ngài,” quý ông già nói, “đó là một trong số vài vấn đề trong vụ này mà tôi sẵn sàng cam đoan rằng nó không thể lay chuyển!”

Hume cười toét, “Ồ, thôi nào ngài Lane, ngài không thể nói thế. Ngay cả việc cho rằng nói chung là đúng đi nữa…”

“Cậu đã quên,” ngài Lane lẩm bẩm, “rằng chúng tôi vừa đến thăm Dow.”

Công tố viên nghiến hai hàm vào nhau. “Ra thế đấy! Các người đã…”

“Chúng tôi đã đặt vấn đề khái quát, ngài Hume, chúng tôi nói rằng một người có tiền sử bệnh tật cụ thể như Aaron Dow liên quan đến việc sử dụng hai bàn tay, hai bàn chân hẳn sẽ thay đổi từ cá nhân thuận chân phải sang cá nhân thuận chân trái. Nhưng như ngài nói, việc đặt ra quy tắc không chứng minh được một trường hợp cụ thể.”

Ngài Lane, ngừng lại, mỉm cười yếu ớt. “Và chúng tôi đã làm được điều ấy. Đó là mục đích ban đầu của tôi khi đến Leeds. Để chứng minh rằng Aaron Dow sẽ dùng chân trái thay vì chân phải thực hiện hành động không chủ tâm.”

”Và ông ta đã làm thế?”

“Đúng vậy. Tôi ném cái bút chì về phía ông ta, và ông ta giơ cánh tay trái lên trước mặt để tránh bị ném trúng. Tôi bảo ông ta cố gắng đâm tôi đi, ông ta thực hiện nỗ lực đó bằng cánh tay trái - Điều này khiến tôi hài lòng thấy rằng người này bây giờ thuận tay trái rồi, rằng cánh tay phải của ông ta thực sự đã bị liệt. Sau đó tôi châm lửa đốt một tờ giấy, và trong cơn hốt hoảng ông ta đã dập tắt nó bằng chân trái. Ngài Hume, tôi cho rằng đó là bằng chứng.”

Công tố viên im lặng. Tôi có thể thấy trong thâm tâm anh ta đang đấu tranh với vấn đề này và đang gặp khó khăn. Một nếp nhăn sâu hằn trên làn da giữa hai mắt anh ta. “Mọi người sẽ phải cho tôi thời gian,” anh ta càu nhàu. “Tôi không thể… thật đấy, tôi không thể tự bắt mình phải tin vào thứ…thứ…” Anh ta nôn nóng gõ lên bàn. “Chỉ là đối với tôi nó không phải là bằng chứng! Nó quá nhanh, quá thiếu thực tế, quá suy diễn. Bằng chứng về sự vô tội của người này không - à, không đủ xác thực.”

Đôi mắt quý ông già ngày càng lãnh đạm. “Ngài Hume, tôi nghĩ rằng trong hệ thống pháp lý của chúng ta, một người được xem là vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội, chứ không phải theo bất kỳ cách nào khác!”

“Và ngài Hume,” tôi buột miệng, không dằn được tính nóng, “tôi đã nghĩ rằng ngài phải là người biết điều hơn thế!”

“Patty,” bố tôi nhẹ nhàng nói.

Hume đỏ mặt. “Tôi sẽ xem xét chuyện đó. Giờ nếu mọi người không phiền, xin làm ơn - tôi còn rất nhiều việc phải làm…”

Chúng tôi chia tay nhau cứng nhắc, dạo bước xuống con phố trong im lặng.

“Ở thời của mình, bố từng gặp những thằng khốn cứng đầu,” bố tôi giận dữ nói, khi chúng tôi vào xe của Dromio, “nhưng cái thằng lỏi con này thì đúng là lần đầu!”

Ngài Lane ngồi chìm trong suy tư, chăm chú nhìn cổ áo của Dromio. “Patience, cháu yêu,” ông nói bằng giọng buồn, “ta tin rằng chúng ta thua rồi, cháu nói chỉ phí lời thôi.”

“Ý ngài là sao ạ?” Tôi háo hức hỏi.

“Ta e rằng, chàng Hume đầy tham vọng này sẽ chỉ coi trọng ý thức công lý của anh ta thôi. Lúc đó khi chúng ta đang ngồi nói chuyện, ý nghĩ này chợt đến với ta. Chúng ta đã phạm một sai lầm nghiêm trọng, anh ta có thể dễ dàng chiếu tướng chúng ta nếu chứng minh được chúng ta đã cẩu thả…”

“Sai lầm ư?” Tôi kêu lên, hốt hoảng. “Chắc chắn ngài nói đùa, ngài Lane. Làm sao chúng ta phạm sai lầm được?”

“Không phải chúng ta, con gái, mà là ta.” Ông chìm trong im lặng, và rồi: “Luật sư của Dow là ai? Hay là chẳng có kẻ nào hết vậy?”

“Một luật sư địa phương tên là Mark Currier,” bố tôi càu nhàu. “Clay đang cho tôi biết về ông ta hôm nay. Tôi không biết tại sao ông ta nhận vụ này, trừ phi ông ta cho rằng Dow có tội, rằng Dow thật sự có năm mươi nghìn đô la cất đâu đó.”

“Thế à? Văn phòng ông ta ở đâu?”

“Trong tòa nhà Scoharie, liền kề tòa án.”

Ngài Lane gõ lên tấm kính. “Quay lại Dromio, đưa chúng tôi quay về thị trấn. Tòa nhà bên cạnh tòa án.”

Mark Currier là một quý ông tuổi trung niên béo ú, đầu hói bóng lộn và rất tinh khôn. Gã chẳng cố gắng tỏ ra mình bận rộn; khi chúng tôi bước vào, gã đang vắt vẻo (như phiên bản rút gọn của ngài Tutt * ) trên chiếc ghế quay, hai chân gác lên bàn, miệng hút điếu xì gà cũng mập gần bằng gã, hai mắt sung sướng ngắm tác phẩm điêu khắc trên thép phủ bụi của ngài William Blackstone trên tường. “A!” gã nói bằng giọng lười nhác sau khi chúng tôi tự giới thiệu bản thân, “đúng là những người tôi muốn gặp. Xin thứ lỗi vì đã không đứng dậy - người tôi hơi mập. Ở tôi mọi người sẽ thấy vẻ oai nghiêm của luật pháp phối hợp hài hòa… Cô Thumm, Hume bảo tôi rằng cô có thông tin nóng về vụ của Dow.”

“Anh ta nói với ngài điều đó lúc nào?” Ngài Lane đột ngột hỏi.

“Vừa gọi cho tôi một phút trước. Thân thiện, đúng không?” Currier dò xét chúng tôi bằng đôi mắt bé sắc sảo. “Sao không cho tôi tham gia với? Chúa mới biết tôi sẽ cần tất cả sự giúp đỡ tôi có thể trong cái vụ khốn kiếp này.”

“Nghe này, Currier,” bố tôi nói. “Chúng tôi chẳng hề quen biết ngài. Điều gì khiến ngài nhận vụ này?”

Tay luật sư cười như một con cú béo ị. “Câu hỏi lạ lùng đấy, thanh tra. Điều gì khiến ngài hỏi vậy?”

Hai bên chăm chú nhìn nhau ôn tồn. “À không có gì,” cuối cùng bố tôi đáp, nhún vai. “Nhưng hãy cho tôi biết với ngài đây không phải là bài tập, hay ngài có thực sự tin vào sự vô tội của Dow không?”

Currier kéo dài giọng: “Thì hắn có tội còn quái gì nữa.”

Chúng tôi nhìn nhau. “Nói tiếp đi, Patty,” bố tôi nói bằng giọng u ám.

Và thế, trong nỗi mệt mỏi vì dường như phải nói đến lần thứ một trăm, tôi lặp lại phân tích các thông tin của mình. Mark Currier lắng nghe không chớp mắt, không gật đầu, không mỉm cười; tôi đồ rằng gần như không quan tâm nữa. Nhưng khi tôi nói xong, gã lắc đầu - giống hệt John Hume. “Khá. Nhưng không có tác dụng đâu cô Thumm. Cô sẽ không bao giờ thuyết phục được bồi thẩm đoàn, toàn những thằng nhà quê, với câu chuyện huyên thuyên đó đâu.”

“Công việc của ngài là thuyết phục bồi thẩm đoàn với câu chuyện đó,” bố tôi ngắt lời.

“Ngài Currier,” quý ông già nhẹ nhàng nói. “Hãy quên bồi thẩm đoàn đi một lát. Thế ngài nghĩ sao?”

“Có khác biệt gì đâu, ngài Lane?” Gã phả khói thành từng hơi ngắn, như trong bộ phim về hải quân. “Dĩ nhiên tôi sẽ cố gắng hết sức. Nhưng chắc mọi người không nghĩ rằng, chút trò bịp bợm trong xà lim của Dow hôm nay có thể cứu mạng hắn đấy chứ?”

“Mạnh mồm đấy, ngài Currier,” tôi đáp. “Làm ơn giải thích đi.” Và khi nói câu này, tôi để ý ngài Lane ngồi lún sâu hơn một chút vào ghế, đôi mắt ngài chất chứa đầy nỗi đau.

“Cô vừa tiếp tay cho công tố viên rồi,” Currier nói. “Chẳng nhẽ cô không biết là tốt hơn hết đừng có thử nghiệm với bị cáo mà không có nhân chứng à?”

“Nhưng chúng tôi là nhân chứng!” Tôi kêu lên.

Bố tôi lắc đầu, Currier mỉm cười. “Hume sẽ dễ dàng cho thấy rằng tất cả mọi người có thành kiến. Chúa biết rằng cô đã đi gần như cả thị trấn này, nói với người ta rằng Dow vô tội như thế nào.”

“Vào thẳng vấn đề đi,” bố tôi càu nhàu, ngài Lane càng lún sâu hơn vào ghế.

“Được rồi, tôi sẽ nói. Ngài có nhận ra ngài đã để mình dính vào vụ gì không? Hume sẽ nói rằng ngài đã thả Dow để diễn trò tại tòa án!”

Tên gác ngục! Tôi nghĩ, và giờ thì tôi biết linh cảm của tôi được dựa trên thực tế. Tôi không ngừng tránh nhìn ngài Lane; ông đã kiệt quệ và hoàn toàn ngồi im trên ghế.

“Đúng như ta đã e sợ,” cuối cùng ông lẩm bẩm. “Ta chợt nghĩ đến điều đó trong văn phòng của Hume. Sai lầm của ta, và ta chẳng tìm ra lời biện minh nào cho sai lầm đó.” Đôi mắt tuyệt vời của ông phủ màu u ám; rồi ông đơn giản chỉ nói: “Tốt lắm, ngài Currier. Vì sự ngu dốt của ta đã dẫn đến thất bại này, ta sẽ tiến hành khắc phục theo cách duy nhất của ta - bằng tiền. Tiền thuê ngài là bao nhiêu thế?”

Currier chớp mắt, rồi nói chậm rãi. “Tôi làm chuyện này vì thấy tiếc cho con người tội nghiệp đó…”

“Đúng vậy. Nói số tiền của ngài ra đi, Currier. Có lẽ nó sẽ kích thích ngài bày tỏ sự cảm thông hào hùng hơn.” Quý ông già rút ra cuốn séc từ trong túi, sẵn sàng cây bút máy trong tay. Trong một lúc, chỉ nghe thấy tiếng thở khò khè của bố tôi. Rồi Currier lạnh lùng chụm các đầu ngón tay vào nhau, nói ra một con số khiến tôi loạng choạng, bố tôi há hốc mồm kinh ngạc.

Nhưng ngài Lane im lặng viết séc rồi đặt xuống trước mặt luật sư. ”Đừng tiết kiệm gì cả. Ta sẽ trả các hóa đơn.”

Currier mỉm cười, hai lỗ mũi mập mạp của gã khẽ run rẩy khi liếc nhìn sang bên cạnh tấm séc trên bàn. ”Ngài Lane, với khoản chi phí như thế này, tôi đủ sức cãi cho cả Ma Cà Rồng Dusseldorf đấy.” Gã nhét tờ séc cẩn thận vào trong chiếc ví cũng béo như gã. ”Điều đầu tiên chúng tôi sẽ phải làm đó là tìm kiếm các chuyên gia.”

”Phải! Ta đang nghĩ…”

Cuộc đối thoại vẫn cứ tiếp tục, tôi nghe như tiếng vo ve. Chỉ một điều rõ ràng tôi nghe thấy. Rằng trừ phi xảy ra phép màu nào phá tan nó, bằng không hồi chuông báo tử vẫn đang reo trên đầu Aaron Dow.