← Quay lại trang sách

Chương 22 Đòn Chí Mạng

Ngài Lane chỉ ngón tay cong sang tôi. “Patience, cháu có thể giúp ta một việc lớn.” Tôi nhanh chóng đến bên ông, thở khó khăn. “Cháu làm ơn gọi cho thống đốc Bruno nhé. Tuổi già của ta…” Ông sờ tay lên tai và mỉm cười; dĩ nhiên ông bị điếc hoàn toàn. Phương pháp liên hệ duy nhất của ông với những người xung quanh đó là đọc môi.

Tôi gọi một cuộc điện thoại đường dài đến Tòa Bạch Ốc tại Albany, rồi đợi chờ với trái tim đập môi lúc một nhanh.

Trông quý ông già có vẻ trầm tư. “Bà Kaiser, trong khi bà đang ở trong văn phòng của bác sỹ với xác chết - bà không chạm vào cổ tay ông ấy chứ?”

“Không.”

“Bà có để ý những vết máu trên cổ tay ông ta không?”

“Có.”

”Và bà không hề chạm vào cái gì hết - cả trước và sau khi bác sỹ Fawcett chết?”

“Không, vì Chúa!”

Ông gật đầu, mỉm cười khi người trực điện thoại trả lời. “Thống đốc Bruno ạ?” Tôi nói, hít một hơi sâu. Tiếp theo tôi buộc phải chờ trong khi nửa tá thư ký nhắc lại tên tôi. Cuối cùng, “Đây là Patience Thumm, đang nói thay mặt ngài Drury Lane! Xin đợi một lát… Ngài Lane, ngài muốn nói với thống đốc chuyện gì ạ?”

“Nói với ông ta rằng vụ án đã giải quyết xong, rằng ông ta phải đến Leeds ngay lập tức. Bảo với ông ta có bằng chứng mới và không thể chối cãi hoàn toàn minh oan cho Aaron Dow.”

Tôi truyền đi tin nhắn của ông - Pat Thumm, công cụ của những kẻ bất tử! - phần thưởng cho tôi là tiếng thở hổn hển bên kia đầu dây. Tôi cho rằng không phải ai cũng có diễm phúc lắng nghe tiếng thở của thống đốc trên đầu dây. “Ta sẽ đến ngay! Cháu đang ở đâu?”

“Thống đốc Bruno, cháu ở nhà Cha Muir, ngay bên ngoài các bức tường nhà tù Algonquin.”

Khi gác máy, tôi thấy ngài Lane ngồi thụp xuống ghế. “Patience, cháu có thể là một cô bé ngoan. Bà Kaiser đây cần được nghỉ ngơi. Không phiền chứ, thưa Cha?” Rồi ông nhắm mắt lại, mỉm cười thanh thản. “Bây giờ chỉ còn một việc chúng ta phải làm là chờ đợi.”

Và chúng tôi chờ đợi suốt tám tiếng.

Lúc đó là chín giờ, hai tiếng trước thời điểm hành hình như đã định, một chiếc limousine to màu đen, hai cảnh sát tiểu bang đi kèm hai bên trên mô tô, đỗ lại bên ngoài cổng nhà Cha Muir. Ngài thống đốc với gương mặt mệt mỏi, dữ tợn xuống xe chạy lên những bậc thềm. Chúng tôi đang chờ ông ta trên hàng hiên, hai ngọn đèn trên cao đang tỏa ánh sáng le lói.

Sau khi được ngài Lane dặn đi dặn lại cố gắng tỏ vẻ như không có chuyện gì xảy ra, Cha Muir đã rời nhà từ hai tiếng trước. Dĩ nhiên ông cần phải có mặt trong các xà lim án tử. Từ những gì hai ông già trao đổi với nhau trước khi vị linh mục nhỏ nhắn đi khỏi, tôi đồ rằng Aaron Dow đã được dặn phải giữ niềm hy vọng.

Fanny Kaiser - đã tắm rửa, nghỉ ngơi và ăn tối xong - lặng lẽ ngồi trên hàng hiên như một bà già cô đơn với đôi mắt đỏ hoe. Chúng tôi chứng kiến cuộc gặp gỡ lịch sử với rất nhiều cảm xúc pha trộn. Thống đốc căng thẳng, bất ngờ nhảy nhót như một chú ngựa non. Fanny Kaiser khiếp sợ và thờ ơ. Ngài Lane lặng lẽ ngồi nhìn.

Chúng tôi nghe thấy vài câu trong cuộc đối thoại.

Người phụ nữ kể lại câu chuyện của mình. Có một thời điểm - câu nói lúc hấp hối của bác sỹ Fawcett - thống đốc đã hỏi bà ta thật kỹ lưỡng, nhưng bà vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Khi nghe hết câu chuyện, ngài Bruno đưa tay lên lau trán rồi ngồi xuống. “Ngài Lane, ngài lại thế rồi. Một nhà phù thủy Merlin hiện đại tạo ra những phép màu… Cùng đến nhà tù Algonquin ngay lập tức chặn đứng chuyện kinh khủng này lại.”

“Ôi, không,” quý ông già nhẹ nhàng nói. “Ôi, không, Bruno! Đây là vụ án phải áp dụng yếu tố bất ngờ khiến hung thủ mất nhuệ khí. Vì tôi không có bằng chứng xác thực, ngài biết đấy.”

“Vậy là ngài biết kẻ nào đứng sau hai vụ án mạng?” Thống đốc chậm rãi hỏi.

“Đúng.” Rồi thốt ra tiếng xin lỗi, quý ông già rút vào một góc hàng hiên với thống đốc Bruno, bình thản nói chuyện với nhau một lúc. Ngài Bruno cứ gật đầu suốt. Khi hai người quay lại với chúng tôi, cả hai cùng có vẻ nghiêm khắc.

“Bà Kaiser,” thống đốc nói khô khốc, “cảm phiền bà ở lại đây với các cảnh sát hộ tống tôi. Tôi cho rằng thanh tra và cô Thumm sẽ muốn tham gia việc này. Ngài Lane và tôi đã đồng ý về quá trình hành động. Không quá mạo hiểm đâu nhưng cần thiết. Và bây giờ… chúng ta sẽ đợi.”

Và chúng tôi lại chờ.

Còn nửa tiếng nữa là mười một giờ, tất cả chúng tôi rất lặng lẽ rời nhà Cha Muir. Trong nhà bao quanh là bốn thanh niên trẻ trung mặc quân phục, là Fanny Kaiser đầu cúi thấp.

Nhóm chúng tôi im lặng sải bước đến cổng chính nhà tù Algonquin. Lúc này trời đã tối, những ánh đèn nhà tù như bao nhiêu ánh mắt quỷ nhìn lên bầu trời đen kịt.

Tôi sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh rõ nét kinh hoàng của nửa giờ tiếp theo. Tôi không hiểu nổi thống đốc và ngài Lane đang mưu tính chuyện gì. Tôi phát ốm với nỗi sợ hãi rằng điều gì đó sẽ sai lầm. Nhưng từ khoảnh khoắc chúng tôi bước qua cửa vòm vào sân tù, mọi thứ cứ diễn ra êm ả một cách bí ẩn. Các lính gác đang làm nhiệm vụ phấn khởi trước sự hiện diện của thống đốc. Uy quyền của ông là đương nhiên không phải bàn cãi; ngay lập tức chúng tôi được vào trong. Ngay ngoài góc tứ giác, chúng tôi có thể thấy ánh đèn của khu xà lim án tử, cảm thấy không khí chuẩn bị đáng sợ từ bên trong những bức tường xám xịt, lạnh lẽo kia. Không một âm thanh nào phát ra từ các xà lim, mỗi cử động của lính gác đều cho thấy sự căng thẳng, bực dọc, bối rối.

Thống đốc giọng sắc lạnh ra lệnh lính gác cho phép chúng tôi vào không được nói gì về chúng tôi, cấm các lính gác trong tù không được rỉ tai nhau việc chúng tôi đến. Tất cả đều tuân lệnh mà không thắc mắc gì, cho dù tôi bắt gặp những ánh mắt hiếu kỳ… Và không cần nói gì, chúng tôi đợi chờ trong góc tối của sân tù đèn pha sáng trưng.

Kim phút trên đồng hồ đeo tay của tôi chầm chậm trôi. Bố tôi lẩm bẩm không ngừng kèm theo hơi thở.

Từ nét mặt căng thẳng của ông, giờ tôi đã hiểu kế hoạch của Drury Lane là đợi đến đúng phút cuối cùng trước khi bất đầu hành hình. Dĩ nhiên nguy hiểm đối với Dow được giảm xuống nhờ sự hiện diện của thống đốc; nhưng tôi thì chẳng thấy thoải mái chút nào. Và khi thời gian dần trôi, từng tích tắc đến thời điểm chết người kia, tôi ngày càng cảm thấy mình muốn hét lên lời phản đối, muốn lao như điên dại qua sân tù vào tòa nhà kềnh càng, câm lặng trước mặt chúng tôi…

Còn một phút nữa đến mười một giờ, thống đốc trở nên cứng rắn, nói điều gì đó rất ngắn ngủi với đám lính gác. Và rồi trong chớp mắt, tất cả chúng tôi cùng lao qua sân tù đến khu xà lim án tử.

Chúng tôi tới được xà lim tử tù đúng mười một giờ. Mười một giờ một phút, thống đốc Bruno gạt hai lính gác sang một bên, mở tung cánh cửa ra vào phòng hành quyết.

Tôi sẽ không bao giờ quên được nỗi kinh hoàng tột độ trên gương mặt mọi người khi chúng tôi lao vào phòng. Như thể chúng tôi là những kẻ phá hoại, mạo phạm điện thờ linh thiêng của một ngôi đền Xử Nữ hiện đại nào đó; hoặc là những kẻ Philistin đang làm ô uế tấm khăn trải bàn thờ của Cực Thánh. Những hồi ức của tôi về bối cảnh đó chỉ còn rời rạc, trong vắt như nhìn qua một lớp kính. Gần như bản thân mỗi khoảnh khắc đều chứa đựng cả một vòng đời, trong mỗi khoảnh khắc bất diệt ấy, từng nét mặt, từng cử động của bàn tay, cái gật đầu dường như cũng chết lặng trong không gian và thời gian.

Thực tế suýt ngộp thở vì phấn khích khiến tôi quên rằng, có lẽ đây là bối cảnh chưa từng thấy trong các buổi hành hình hợp pháp, rằng chúng tôi đang tạo ra giây phút kịch tính nhất trong lịch sử hình sự.

Tôi trông thấy mọi người và mọi thứ. Trong chiếc ghế điện có Aaron Dow, ông già tội nghiệp. Đôi mắt ông ta nhắm nghiền. Một lính gác đang trói hai chân ông ta, người khác buộc dây đai qua người và người thứ ba trói hai cánh tay ông ta. Trong khi người thứ tư chết đứng khi đang đeo tấm vải lên đôi mắt Aaron Dow. Cả bốn người đều dừng ngay việc đang làm, mồm há hốc, hoàn toàn bất động. Đang đứng cách ghế điện vài mét, đồng hồ cầm trong tay, vẫn đứng y nguyên tại chỗ là cai ngục Magnus. Cha Muir như muốn ngất đi vì sung sướng, tựa vào một trong số ba lính gác ngục. Với những người còn lại… ba quan chức tòa án rõ rành rành, tôi sốc khi thấy gương mặt kinh ngạc lặng lẽ của Elihu Clay trong mười hai nhân chứng. Tôi chợt nhớ lại Jeremy đã nói gì với tôi. Tiếp theo là hai bác sỹ nhà tù, đao phủ với bàn tay trái đang bận chỉnh sửa máy móc gì đó trong tủ điện chết người của ông ta…

Thống đốc lạnh lùng nói: “Cai ngục, dừng hành hình lại!”

Aaron Dow mở mắt ra, gần như có hơi ngạc nhiên. Biểu hiện thoáng qua trong đôi mắt ấy là đờ đẫn. Như thể đây là một tín hiệu, đông đảo diễn viên trên sân khấu đã lấy lại sức sống. Bốn lính gác đứng quanh ghế điện có vẻ hoang mang, đồng loạt quay đầu về phía cai ngục dò hỏi. Ông ta chớp mắt, xem đồng hồ với vẻ mặt sững sờ vô hồn. Cha Muir thốt ra một tiếng kêu nhỏ không thể nghe rõ, sắc hồng hiện lên trên đôi má nhợt nhạt của ông. Những người khác nhìn chằm chằm rồi quay sang nhìn nhau. Tiếng xì xào nổi lên ngay lập tức tắt lịm khi cai ngục Magnus bước lên phía trước rồi nói: “Nhưng…”

Drury Lane nói nhanh: “Cai ngục, Aaron Dow vô tội. Chúng ta có lời khai mới tuyệt đối chứng minh ông ta không phạm tội ác để bị tử hình. Ngài thống đốc…”

Và rồi xảy ra một chuyện tôi chắc chắn chưa từng có tiền lệ trong những bi kịch luật pháp này. Thông thường ngay sau khi thống đốc ra lệnh hoãn ngay khi bước chân vào phòng hành hình, lập tức tử tù sẽ được trở lại xà lim, các nhân chứng và những người khác có mặt sẽ được xin lỗi, và đó sẽ là kết thúc buổi hành hình. Nhưng đây là một dịp rất đặc biệt, được lên kế hoạch đến từng li. Như lúc này tôi chắc chắn nó đòi hỏi phải được tiết lộ ngay lúc này. Nhưng điều thống đốc và ngài Lane hy vọng hoàn thành theo quy trình kịch tính này.

Tôi nghĩ họ đều quá choáng váng không kịp phản đối, nếu bất kỳ quan chức nào có mặt ở đây thắc mắc thứ tự ưu tiên của các nghi thức, chỉ cần thống đốc Bruno nghiến chặt bộ quai hàm ưa nhìn của ông đủ khiến họ câm lặng… Và tất cả bỗng tập trung khi quý ông già lặng lẽ bước đến chỗ chiếc ghế điện, đứng cạnh ông già bé nhỏ nằm bất động, được che phủ kín mít vừa giành được mạng sống từ bàn tay thần chết và bắt đầu lên tiếng. Ngay từ câu đầu tiên, toàn bộ khán thính giả của ông đã im lặng như trong thánh đường.

Bài trình bày ngắn gọn, nhanh chóng và rõ ràng hơn hẳn tôi từng nói, Drury Lane tường thuật lại những suy luận ban đầu từ vụ giết thượng nghị sĩ Fawcett; cho thấy rõ rằng Aaron Dow không thể phạm tội ác này, vì là người thuận tay trái; và làm thế nào chứng minh hung thủ là người thuận tay phải.

“Và,” quý ông già nói bằng giọng vui vẻ và xúc động, “thật hợp lý khi nói rằng hung thủ cố tình dùng tay trái trong khi thông thường hắn dùng tay phải, do đó hắn cố tình gây án giống như kiểu Aaron Dow sẽ làm. Nói cách khác, như chúng ta nói, hung thủ đang “gài bẫy” Aaron Dow vào một tội ông ta không gây ra.

“Bây giờ xin quý vị hãy hết sức chú ý. Để có thể gài bẫy Aaron Dow, hung thủ phải biết điều gì về Aaron Dow? Từ các thực tế như sau:

“Thứ nhất. Hắn phải biết rằng Dow không thể sử dụng được cánh tay phải sau khi vào Algonquin. Và giờ đây ông ta chỉ dùng được cánh tay trái;

“Thứ hai. Hắn biết rằng Dow thực sự có ý định đến thăm thượng nghị sĩ Fawcett vào đêm xảy ra án mạng. Và để biết được điều này, Dow đã chính thức được ra tù vào ngày hôm đó;

“Thứ ba. Hắn biết rằng Dow có động cơ phạm tội mang tính giả thuyết liên quan đến thượng nghị sĩ Fawcett là nạn nhân.”

“Chúng ta hãy cùng thảo luận chuyện này theo thứ tự,” quý ông già nhẹ nhàng nói tiếp. “Kẻ nào có thể biết rằng Dow không thể dùng được cánh tay phải khi ở Algonquin? Cai ngục Magnus cho chúng tôi biết rằng ông ta không hề gửi hay nhận thư từ, không hề có ai đến thăm trong suốt mười hai năm. Và hơn thế nữa, ông ta không gửi lá thư nào qua các kênh chính thức. Thông qua kênh không chính thức do Tabb, trợ lý thủ thư chuyên gửi lậu thư trong tù thiết lập, Dow chỉ gửi đi một lá thư: mảnh giấy tống tiền ban đầu gửi đến thượng nghị sĩ Fawcett, và chúng ta biết trong tờ giấy đó viết gì. Chẳng có dòng nào về cánh tay phải của ông ta hết. Ngoài ra Dow chưa từng bước ra khỏi nhà tù giữa thời điểm cánh tay phải của ông ta bị liệt mười năm trước, và thời điểm ông ta chính thức được thả. Ông ta không có gia đình cũng như bạn bè. Đúng là chẳng có một ai ở thế giới ngoài kia đến gặp Aaron Dow trong suốt quãng thời gian này. Tôi muốn nhắc đến chính thượng nghị sĩ Fawcett, người đã đến thăm xưởng mộc của nhà tù - đúng dịp đó Dow mới nhận ra ngài thượng nghị sĩ. Dựa vào lời khai, chúng ta có lý do tin rằng thượng nghị sĩ không nhận ra Dow, và chắc chắn có khả năng rằng trong một căn phòng quá nhiều tù nhân như thế, thượng nghị sĩ không chỉ không nhận ra Dow mà còn không nhớ rằng có chuyện không ổn với cánh tay phải của Dow. Thế nên chúng ta có thể bỏ qua điều đó.” Ngài Lane khẽ mỉm cười. “Nói cách khác, chúng ta có đủ quyền để giả sử khả năng lớn rằng, người duy nhất có thể biết chuyện Dow mất cánh tay phải, chính là kẻ có liên quan với nhà tù - là bạn tù, tù nhân được hưởng đặc quyền hoặc thường dân đều đặn làm việc cho Algonquin.”

Sự im lặng ảm đạm bao trùm phòng hành hình có ánh sáng chói chang. Chính tôi cũng đi đến một kết luận như thế - có lẽ không sắc sảo tới mức này, nhưng tôi đã nhìn thấy những dấu hiệu. Và tôi cũng biết điều gì sẽ đến. Những người khác vẫn ngồi im trên dãy ghế dài, như thể chân họ đã nhúng quá sâu vào xi măng.

“Có một lời giải thích khác,” ngài Lane nói tiếp. “Rằng kẻ đã gài bẫy Dow và do đó hắn phải biết rằng Dow là người thuận tay trái trong khi ở Algonquin, chắc phải nắm vững thông tin này cũng như tất cả thông tin khác liên quan tới Dow, từ một kẻ đồng lõa nào đó ở bên trong nhà tù.

“Một trong những giải thích này là chính xác. Giải thích nào? Tôi sẽ chứng minh rằng cái giả thuyết mạnh mẽ hơn - rằng kẻ gài bẫy Dow bản thân hắn cũng ở trong nhà tù Algonquin - cũng là một giả thuyết chính xác.

“Bám sát theo giả thuyết này. Có năm phong bì đóng dấu niêm phong trên bàn làm việc của thượng nghị sĩ Fawcett khi ông ta bị đâm chết. Một trong số các phong bì này mang lại một đầu mối quan trọng. Hẳn tôi đã không lần theo nếu không có Quý cô Patience Thumm cho tôi biết, với một màn tóm tắt vụ án mạng đầu tiên đáng ngưỡng mộ. Phía trên phong bì ấy có một vết kẹp giấy - để tôi sửa lại, không phải một mà là hai vết. Vì trên mặt phong bì, có hai vết kẹp giấy rõ nét ở hai phía, một vết ở bên trái, và tương tự một vết ở bên phải. Thế nhưng phía trên bức thư được công tố viên mở ra, chỉ có một vết kẹp giấy được phát hiện phía trong! Nhưng làm sao một cái kẹp giấy lại có thể để lại hai dấu vết khác nhau trên hai phía đối diện của cùng một bề mặt?”

Ai đó thở ra một hơi dài. Quý ông già rướn người về phía trước, hoàn toàn che khuất Aaron Dow vẫn đang ngồi trên ghế điện. “Tôi sẽ chỉ cách cho mọi người. Carmichael, thư ký của thượng nghị sĩ Fawcett, đã chứng kiến ông chủ của anh ta gấp rút bỏ lá thư này vào phong bì, sau đó nhanh chóng dán kín. Nếu theo cảm nhận thông thường, trong khi đóng nắp phong bì để dán kín, thượng nghị sĩ đã tạo ra một vết kẹp giấy bên trong. Nhưng chúng tôi đã phát hiện hai vết ở những nơi khác nhau. Chỉ có thể có một lời giải thích.” Ông ngừng lại một lúc. “Ai đó đã mở phong bì dán kín, lấy thư ra sau đó bỏ lại nó vào phong bì. Nhưng hắn đã bỏ sai vị trí. Sau đó khi dán kín, một lần nữa hắn đóng nắp phong bì. Nên hắn tạo ra vết kẹp giấy thứ hai bên trong. Nhưng lần này, nó xuất hiện ở phía bên kia mặt phong bì. Vì vết kẹp giấy lúc này xuất hiện ở vị trí hoàn toàn khác.

“Giờ thì kẻ nào có thể đã mở phong bì này?” Quý ông già nói tiếp, giọng khô khốc. “Như chúng tôi đã thấy, chỉ hai cá nhân có khả năng liên quan: Chính ngài thượng nghị sĩ và một người khách duy nhất Carmichael đã thấy, đi vào rồi bước ra khỏi ngôi nhà, trong thời gian xảy ra án mạng - vị khách này theo mô tả, chắc chắn vừa là hung thủ vừa là kẻ đốt thư, tro tàn của lá thư được phát hiện trong lò sưởi.

“Phải chăng thượng nghị sĩ một lần nữa mở thư của chính mình ra xem sau khi Carmichael đi khỏi, và trước khi người khách kia ghé thăm? Đồng ý, về lý thuyết ông ta có thể làm thế. Nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng chung, xin hỏi quý vị: Tại sao ông ta lại phải mở thư của chính mình ra? Để chỉnh sửa à? Nhưng chẳng có sự chỉnh sửa nào hết; các lá thư trong phong bì đều tương ứng chính xác với những tờ giấy than. Để nhớ lại những gì ông ta đã đọc cho người khác viết, hoặc đánh máy sao? Vớ vẩn! Có một tờ giấy than vẫn còn nằm lù lù trên bàn làm việc.

“Nhưng dù có gạt chuyện này sang bên, đặt giả thuyết nếu thượng nghị sĩ muốn mở phong bì, ông ta hẳn sẽ xé phong bì ra và thay bằng phong bì mới sau đó. Đặc biệt vì ông ta đã nói với Carmichael rằng có thể phải gửi những lá thư này vào sáng hôm sau. Nhưng rõ ràng đây không phải là phong bì mới, nó vẫn còn nguyên các vết kẹp giấy. Và nếu nó là phong bì mới, thì phong bì đó hẳn sẽ chỉ mang một vết kẹp giấy. Do đó, phong bì này không những là được mở ra từ trước, mà nó cũng chính là phong bì được dán kín lúc đầu. Sao làm được việc đó? Có một cái bình pha cà phê chạy điện gần bàn làm việc. Cái bình này vẫn còn ấm sau vụ án mạng, rõ ràng lúc đó (trong bối cảnh không có bằng chứng cho thấy làm sao có thể mở thư), lá thư đã được hơ trên nắp bình pha cà phê. Chúng ta đã đến được điểm then chốt của vấn đề! Phải chăng thượng nghị sĩ đã cho hơ lá thư của chính mình trên nắp bình pha cà phê?”

Từ những cái gật đầu của tất cả mọi người, rõ ràng khán giả của quý ông già đang căng thẳng, nín thở đồng cảm với phép biện chứng của ông. Khẽ mỉm cười ông nói tiếp.

“Vậy nếu thượng nghị sĩ Fawcett không mở phong bì đó, thì chắc chắn vị khách đến thăm là người mở nó. Người duy nhất bước vào và rời khỏi ngôi nhà trong thời gian xảy ra vụ án mạng.

“Giờ thì chính xác cái gì ở phong bì này thu hút sự chú ý của vị khách - nói cách khác, chính là hung thủ - điều gì đã ép buộc hắn đánh mất sự thận trọng, phải mở phong bì ngay giữa hiện trường vụ án? Lá thư được gửi cho cai ngục Magnus của nhà tù Algonquin, với một ghi chú trên phong bì “Quảng cáo tại Algonquin.” Xin lưu ý, điều này có tầm quan trọng lớn nhất.”

Tôi bắt gặp hình ảnh gương mặt Elihu Clay; nó thâm tím, ông ta xoa cằm bằng những ngón tay run rẩy.

“Từ đầu đến giờ chúng ta có hai khả năng, và sẽ gọi chúng là: một - khả năng lớn - rằng hung thủ có liên quan đến nhà tù; hai - khả năng yếu - rằng hung thủ không có liên quan với nhà tù nhưng có một đồng lõa bên trong cung cấp cho hắn thông tin cần thiết. Bây giờ cho rằng khả năng thứ hai là lớn, cho rằng hung thủ không có liên quan đến nhà tù, là kẻ ngoài cuộc nhưng hắn có một kẻ chỉ điểm bên trong nhà tù. Hắn sẽ nhận được lợi ích đáng kể gì khi mở xem lá thư liên quan đến ‘những trường hợp thăng chức đề xuất’ trong nhà tù Algonquin? Nếu hắn là một kẻ ngoài cuộc, chắc chắn bản thân hắn chẳng được gì từ điều này cả. Vậy còn đối với kẻ chỉ điểm trong tù thì sao? Nhưng sao phải quan tâm nhỉ? Nếu kẻ đồng lõa của hắn có được thăng chức đi nữa, có lẽ cũng chẳng ảnh hưởng gì đến cá nhân hung thủ; nếu chuyện này không diễn ra, hắn cũng vẫn chẳng mất gì. Chúng ta có thể hoàn toàn yên tâm mà nói chắc chắn rằng, một kẻ ngoài cuộc theo giả thuyết hẳn sẽ không mở lá thư đó ra đọc.

“Nhưng chính hung thủ đã mở lá thư đó! Do vậy hắn phải nằm trong khả năng lớn của chúng ta - nói tóm lại, hắn là kẻ quan tâm đến nội dung bất kỳ lá thư nào liên quan đến chuyện thăng chức của Algonquin. Tôi nói là kẻ nào đó có liên quan đến nhà tù.” Ông ngừng lại, một bóng mây nghiêm nghị phủ trên gương mặt ông. “Thực sự khi tôi nói với các vị hung thủ là ai, các vị sẽ khám phá một lý do thú vị hơn lý do tôi đã trình bày. Tuy nhiên, vào lúc này, tôi sẽ không nói gì nhiều, mà chỉ đưa ra nguyên tắc chung rằng hung thủ có liên quan đến nhà tù.

“Một suy luận nữa từ các thực tế của tội ác đầu tiên. Theo cai ngục Magnus có lần cho tôi biết, quy trình của nhà tù rất cứng nhắc; chẳng hạn, họ sẽ không bao giờ thay thế các lính cai ngục có ca làm việc cố định. Hung thủ của chúng ta, là kẻ chúng ta giờ đây đã cho rằng hắn có liên quan đến nhà tù Algonquin, đã ra tay sát hại thượng nghị sĩ Fawcett - vào lúc nào? - vào ban đêm. Do đó, bất kể trong nhà tù kia hắn giữ chức vụ gì, rõ ràng hắn không thuộc biên chế những lính gác làm ca đêm cố định; nếu không, hắn sẽ không thể có thời gian rời khỏi đây kịp thời để giết người tại nhà thượng nghị sĩ Fawcett. Thế cho nên hoặc hắn phải là lính gác ngục làm ca ngày cố định; hoặc là ai đó làm việc không theo giờ giấc cụ thể nào cả. Tất cả những điều nàỵ có tính chất cơ bản. Hãy lưu ý đến nó trong khi tôi chuyển sang một hướng đi khác.”

Giọng ông ngày càng sắc sảo hơn theo từng phút trôi qua. Gương mặt ông đang chìm trong những nếp nhăn suy tư. Ông nhìn khắp xung quanh phòng, tôi trông thấy một số nhân chứng như hơi co lại trên những chiếc ghế dài cứng. Giọng nói lạnh lùng vang vọng đó, chùm sáng chói lóa, chiếc ghế điện, con người bất động ngồi trên đó, rồi những bộ đồng phục… Chẳng trách họ đang cảm thấy khó chịu. Làn da tôi đang nhức nhối.

“Và bây giờ,” quý ông già nói tiếp bằng giọng nhanh và rõ, “là tội ác thứ hai. Đúng đắn khi cho rằng cả hai tội ác đều liên quan đến một mảnh rương tương đồng thứ hai. Mối liên kết của Dow đối với cả hai mảnh, mối quan hệ máu mủ giữa hai nạn nhân… Giờ thì Dow đang là người vô tội trong vụ án mạng đầu tiên, giả sử rằng ông ta cũng vô tội trong vụ án mạng thứ hai; bị gài bẫy trong vụ thứ nhất và cả trong vụ thứ hai. Chúng ta có khẳng định điều này không? Có. Dow chưa hề nhận được tin nhắn nào của bác sỹ Fawcett nói rõ rằng thứ Tư sẽ là ngày trốn khỏi Algonquin. Nhưng Dow có nhận được một lá thư, cứ cho rằng là của Fawcett, bảo rằng hãy vượt ngục vào ngày thứ Năm. Đơn giản điều này có nghĩa là, ai đó đã chặn trước tin nhắn ban đầu của Fawcett (mà chúng tôi tìm thấy trên bàn làm việc của ông ta, tại hiện trường vụ án mạng đầu tiên), rồi gửi một tin nhắn khác sang cho Dow, nói rằng thứ Năm sẽ là ngày vượt ngục. Kẻ chặn trước tin nhắn ban đầu của Fawcett - hắn còn có thể là ai nữa, ngoài kẻ đầu óc đen tối ngay từ đầu lợi dụng Dow trong các hoạt động đáng ghê tởm của hắn; hay nói cách khác, là kẻ đang gài bẫy Dow?

“Vậy chúng ta có cái gì? Khẳng định kết luận rằng hung thủ có liên hệ với nhà tù là chính xác. Vì việc chặn trước được tin nhắn là bằng chứng có cơ sở, cho thấy việc này được kẻ nào đó thực hiện ngay trong nhà tù, kẻ biết rõ hệ thống ngầm của nhà tù đang tuồn các tin nhắn vào ra khỏi nhà tù, kẻ đã chặn trước tin nhắn của Fawcett, giữ lại rồi thay bằng tin nhắn chính hắn ngụy tạo, một tin nhắn giả mạo.

“Nhưng bây giờ chúng ta đi đến một yếu tố quan trọng của lời giải, thưa quý vị. Tại sao hung thủ lại có mong muốn thay đổi thời gian vượt ngục của Dow, từ thứ Tư sang thứ Năm? Vì hung thủ có ý định gài bẫy Dow trong vụ sát hại bác sỹ Ira Fawcett, và vì Dow vô tội trong vụ giết Ira Fawcett, nên điều thiết yếu đối với hung thủ - và xin hãy lưu ý điều này - là hắn phải giết Fawcett vào đúng cái đêm Dow được tự do sau khi vượt ngục! Nếu hung thủ thay đổi ngày vượt ngục từ thứ Tư sang thư Năm, lý do chỉ có thể là chính hắn không thể giết bác sỹ Fawcett vào ngày thứ Tư, mà chỉ làm được điều đó vào ngày thứ Năm!” Ngài Drury Lane với gương mặt gầy căng thẳng, ngón tay trỏ của ông giơ lên. “Ha, tại sao hắn không thể làm thế? Quý vị sẽ hỏi như vậy. Từ tội ác đầu tiên chúng ta biết rằng, hắn không hề làm ca đêm một lần nào cả, và do đó lẽ ra hắn phải được tự do gây án vào bất kỳ đêm nào, chứ không riêng gì đêm thứ Tư. Và câu trả lời khả dĩ duy nhất,” ông đứng thẳng người dậy, tạm ngừng, “đó là một chuyện gì đó, nằm ngoài lịch hoạt động thông thường trong tù, khiến hung thủ bận rộn vào tối thứ Tư! Nhưng đã xảy ra chuyện gì vào đêm thứ Tư, một đêm trước khi Ira Fawcett bị sát hại, trái thông lệ bình thường sẽ cầm chân một kẻ có liên quan với nhà tù nhưng không làm ca đêm? Thưa quý vị, tôi sẽ nói rằng đây là trọng tâm trong vụ án của chúng ta, và kết luận đưa ra không thể tránh khỏi như quy luật tự nhiên. Vào đêm thứ Tư ấy diễn ra một buổi hành hình trên ghế điện ngay trong chính căn phòng hành hình kinh hoàng này, vụ hành hình một người có tên là Scalzi. Và tôi xin nói thêm rằng, kết luận này là không thể tránh được như Ngày Tận Thế vậy: Hung thủ giết hai anh em nhà Fawcett là kẻ phải có mặt tại buổi hành hình Scalzi!”

Sự im lặng mênh mông lấp đầy căn phòng. Tôi thấy sợ phải thở, sợ phải quay đầu, sợ phải di chuyển mắt. Không ai cử động; trông chúng tôi chắc không khác gì bộ sưu tập những bức tượng sáp dưới con mắt rực lửa của quý ông già mạnh mẽ đứng cạnh chiếc ghế điện, người đang bắn ra từng từ một câu chuyện về hung thủ, và bi kịch của một phán quyết cuối cùng sắp đến.

“Cho phép tôi liệt kê,” cuối cùng ông nói, giọng ông không còn phấn khích mà thay vào đó lạnh lùng như đá thạch, “những tiêu chí hung thủ của chúng ta cần đáp ứng - những tiêu chí rút tỉa từ thực tế hai vụ án mạng, sắc sảo như thể đích thân hung thủ đã tạc nó lên bề mặt đĩa thời gian.

“Một. Hung thủ thuận tay phải.

“Hai. Hắn có liên quan đến nhà tù Algonquin.

“Ba. Hắn không phải là người làm ca đêm.

“Bốn. Hắn có mặt trong buổi hành hình Scalzi.”

Một lần nữa tất cả im lặng, lần này không gian ấy có thể sờ vào được, đang đập thình thịch.

Quý ông già mỉm cười. “Tôi thấy quý vị đã bị ấn tượng.” Ông bất ngờ nói tiếp. “Đặc biệt khi những ai từng có mặt trong buổi hành hình Scalzi, các quý vị, lẫn những kẻ có liên quan đến nhà tù đều có mặt ở đây đêm nay, ngay trong chính căn phòng này! Vì tôi được cai ngục Magnus thông báo rằng, nhân viên nhà tù Algonquin có mặt tại các buổi hành hình không bao giờ thay đổi.”

Một trong các lính gác phát ra một âm thanh nhỏ trống rỗng, như một đứa trẻ sợ hãi. Mọi người theo quán tính đều nhìn vào hắn, rồi lại nhìn Drury Lane.

“Và như thế,” quý ông già chậm rãi nói, “chúng ta tiến hành loại trừ. Ai đã từng có mặt tại buổi hành hình Scalzi? Hãy nhớ rằng, hung thủ của chúng tôi phải đáp ứng đủ bốn tiêu chí tôi vừa liệt kê ra…

“Mười hai công dân có uy tín ở tuổi trưởng thành, các nhân chứng theo quy định của luật pháp. Nên các quý vị,” ông nói với những con người cứng nhắc trên dãy ghế dài, “không cần thiết phải sợ hãi. Theo định nghĩa này không ai trong số quý vị có liên quan đến nhà tù. Quý vị là những nhân chứng thường dân, và như thế không phù hợp với Tiêu Chí Số Hai, khả năng này có thể được loại bỏ.”

Khi một người đàn ông trong số mười hai người trên ghế dài như trong nhà hát thở dài, vài người kín đáo rút khăn tay chấm mắt.

“Ba quan chức tòa án theo luật định phải chứng kiến án tử hình chính thức được thực thi. Họ được loại trừ cũng với lý do tương tự.”

Ba người được nhắc tới thay chuyển thế ngồi.

“Bảy lính gác tù,” Drury Lane mơ màng nói tiếp. “Tôi giả sử cũng là bảy người đã có mặt tại buổi hành hình Scalzi. Nếu tôi không hiểu nhầm lời xác nhận của cai ngục.” ông ngừng lại. “Loại! Tất cả các cậu đều chính thức làm ca đêm - vì các cậu luôn có mặt tại những buổi hành hình, vốn luôn được tổ chức vào buổi đêm - và điều này hoàn toàn trái ngược với Tiêu Chí Số Ba. Không ai trong số các cậu là hung thủ.”

Một trong số bảy người đội mũ xanh thì thầm gì đó khủng khiếp kèm theo hơi thở. Bầu không khí căng thẳng ngày càng trở nên không chịu nổi; nó kêu răng rắc trong không gian nén chặt cảm xúc.

Tôi kín đáo liếc nhìn bố tôi; cổ ông đỏ lựng lên. Thống đốc đứng im như tượng gỗ. Đôi mắt Cha Muir vô hồn. Cai ngục Magnus hầu như nín thở.

“Đao phủ,” giọng nói điềm tĩnh, đều đều vẫn tiếp tục. “Loại! Trong cả buổi hành hình Scalzi - mà tôi đã may mắn được tham dự - tôi đã thấy anh ta bật công tắc bằng tay trái. Tuy nhiên, theo Tiêu Chí Số Một, hung thủ thuận tay phải.”

Tôi nhắm mắt lại, trái tim tôi đập thình thành trong tai như trống dồn. Giọng nói tạm ngừng; rồi lại tiếp tục sắc sảo, đầy đặn, vang vọng vào những bức tường trần trụi của căn phòng đáng sợ. “Hai bác sỹ theo luật định phải có mặt để chắc chắn kẻ bị hành hình đã chết thật.” Ông mỉm cười lạnh lùng. “Việc tôi không thể loại trừ hai quý ông này,” ông nói với hai người đứng như hóa đá cầm hai cái túi màu đen, “đã khiến tôi không thể giải quyết sớm vụ này. Nhưng hôm nay, bà Fanny Kaiser đã cung cấp một đầu mối nhất định loại trừ cả hai người. Cho phép tôi được giải thích.

“Hung thủ gài bẫy Dow giết hại bác sỹ Fawcett cũng biết rằng Dow phải xuất hiện tại văn phòng, một thời gian ngắn sau khi vượt ngục. Lúc đó điều tối quan trọng đối với hung thủ, đó là trước khi hắn bỏ đi phải chắc chắn rằng nạn nhân đã chết, tức là không thể nói, không thể tiết lộ danh tính hung thủ thật sự với Dow - hay với bất kỳ ai có thể đến không hẹn trước. Điều tương tự cũng xảy ra với hung thủ giết thượng nghị sĩ Fawcett; hung thủ đã phải tấn công hai lần. Đòn tấn công đầu tiên khiến nạn nhân chưa chết hẳn, nên hắn phải tấn công lần nữa. Để chắc chắn, quý vị biết đấy.

“Giờ đây trên cổ tay bác sỹ Fawcett chúng tôi thấy những dấu vết ba ngón tay đầy máu. Không nghi ngờ gì nữa, chúng cho thấy rằng hung thủ phải sờ mạch đập của nạn nhân sau khi đánh gục ông ta. Tại sao? Rõ ràng để chắc chắn nạn nhân đã chết. Nhưng hãy lưu ý chi tiết quan trọng này!” Giọng ông vang rền như sấm. “Bất chấp sự đề phòng của hung thủ khi xem mạch - nạn nhân vẫn còn sống sau khi hung thủ đã bỏ đi; và Fanny Kaiser khi đến hiện trường vài phút sau đó đã thấy bác sỹ Fawcett cử động, nghe thấy ông ta giải oan cho Dow. Cho dù ông ta đã chết trước khi kịp tiết lộ tên hung thủ thật sự… Làm sao điều này lại giúp loại trừ hai bác sỹ nhà tù của chúng ta có mặt tại buổi hành hình Scalzi - và cả ở đây đêm nay, quý vị sẽ hỏi vậy đúng không? Và đây là câu trả lời.

“Cứ cho rằng một trong số hai quý ông này là hung thủ. Vụ án xảy ra trong một phòng mạch. Trên mặt bàn làm việc chỉ cách thi thể có vài mét, là một hộp dụng cụ y tế của chính nạn nhân - và chẳng hạn trong đống đồ nghề y tế ấy có bao gồm ống nghe. Đúng, có khả năng một bác sỹ khi bắt mạch một kẻ hấp hối cũng không thể phát hiện một nhịp đập nhỏ nhoi của sự sống. Nhưng một bác sỹ trong một phòng mạch, với đầy đủ trang thiết bị cần thiết trong tay, theo kế hoạch bắt buộc phải chắc chắn rằng nạn nhân của mình đã chết, tôi dám nói hắn sẽ phải chắc như đinh đóng cột! ống nghe. Một cái gương chẳng hạn; nghĩa là bất kỳ cách nào mà các bác sỹ có thể dùng để xem nạn nhân chết thật hay chưa.

“Do đó chúng ta có thể nói rằng không một bác sỹ nào, có đầy đủ phương tiện trong tay để chắc chắn về cái chết của nạn nhân, lại có thể bỏ đi khi nạn nhân còn sống. Hẳn là hắn sẽ phát hiện dấu hiệu sự sống của nạn nhân, rồi bóp chết nó khi giáng cho nạn nhân thêm một cú nữa. Hung thủ đã không làm thế. Do đó, hung thủ không phải là một bác sỹ, và cũng không thể là hai bác sỹ nhà tù này, những người đã được loại trừ.”

Tôi có thể đã thét lên vì căng thẳng. Nắm đấm to lớn của bố tôi đặc quánh lại với cơ bắp; những gương mặt trước mắt chúng tôi như đeo các mặt nạ tái nhợt.

“Cha Muir,” Drury Lane tiếp tục với giọng thấp. “Hung thủ giết anh em nhà Fawcett trong cả hai vụ là một. Nhưng bác sỹ Fawcett bị giết vào lúc quá mười một giờ một chút. Từ mười giờ trở đi đêm hôm đó, vị linh mục tốt bụng này ngồi cùng tôi trên hàng hiên nhà ông ấy, nên không thể nào gây án được. Vậy thì tất nhiên, ông ấy cũng không thể là người giết thượng nghị sĩ Fawcett.”

Và thế, trong màn sương mù đỏ rực trôi bồng bềnh giữa hai mắt tôi và những gương mặt tái mét kia, tôi nghe thấy một giọng nói rộn ràng cất lên. “Một trong số hai mươi bảy người trong căn phòng này là hung thủ giết hại anh em Fawcett. Chúng ta đã loại trừ hai mươi sáu người. Chỉ còn lại một người. Và hắn… Quý vị hãy bắt hắn đi, không được để hắn thoát! Thumm, đừng để hắn sử dụng khẩu súng ngắn đó!”

Căn phòng nổ tung với những âm thanh, tiếng quát tháo, gầm gừ, vật lộn. Kẻ nằm trong tâm điểm cơn lốc đó, kẻ đang bị đôi tay cứng như thép của bố tôi tóm gọn, kẻ có nét mặt biến dạng tím tái, kẻ có đôi mắt đỏ rực đến man dại, là cai ngục Magnus.