HỒI THỨ SÁU -BỀ TÔI PHÒ VUA, TRẢI BAO VINH NHỤC-CON NỐI NGÔI CHA, GIAN NAN THỬ THÁCH---
Năm ấy, Tần Chiêu Vương ngự giá thân chinh, ngạo mạn khinh đời, huyênh hoang rằng chỉ đánh một trận là hạ được thành Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu, nhưng rốt cuộc đã bị quân của Ngụy và Triệu đánh giáp công và đại bại, thương vong trên một nửa tướng sĩ. Đó thật sự là một đòn nặng nề giáng vào dã tâm bành trướng quân sự của vua Tần. Nhưng sức mạnh của tính hiếu thắng đã nâng đỡ ông ta; cái thói hay làm bộ làm tịch đã che giấu nỗi đau trong lòng nhà vua già. Trên con đường ròng rã mười mấy ngày từ Hàm Đan về Hàm Dương, Tần Chiêu Vương không bao giờ ngừng suy nghĩ để tìm một cách thức như thế nào nhằm ứng phó với sự nghênh đón và chiêm ngưỡng của thần dân Hàm Dương đối với đức vua. Tuy đã rất lao tâm khổ tứ, nhưng vẫn nghĩ không ra, bởi vì nhà vua chưa hình dung được mọi người sẽ đón tiếp mình như thế nào.
Nhưng khi cỗ “ngự xa” của nhà vua tiến dần đến dịch quán ở phía Đông Hàm Dương, thì cảnh tượng đập vào mắt ngài đã xua tan mọi âu lo của ngài. Nhà vua vui mừng ra mặt. Lần này trở về, nhà vua không muốn thấy khung cảnh tưng bừng náo nhiệt chào đón thường thấy như từ trước đến nay, vì nếu vậy thì sẽ biến thành sự chế giễu đối với thảm bại vừa qua. Nhưng đức vua cũng không muốn nhìn thấy cảnh tượng buồn tẻ và vắng lặng, nếu vậy thì đó lại là quá lạnh nhạt đối với bốn năm chinh chiến uổng công của ngài. Trước mắt nhà vua không phải sự phô trương cường điệu cũng không phải là những khuôn mặt rũ rượi ưu phiền. Ngài chỉ thấy một cỗ “xa giá” mà ngài vẫn dùng thường ngày đang chờ ngài; lá cờ thêu rồng phượng và nhật nguyệt có viền lượn sáng đang phất phới bay trước gió; đội kiêu binh tay cầm long đao đứng nghiêm kính cẩn đón chào. Người ra đón chỉ có một số ít đại thần văn võ quan trọng gồm Phạm Thư, Đỗ Thương, Mông Ngao, Trương Đường, không phải là toàn bộ triều đình đều ra nghênh đón. Người của hoàng gia cũng không phải tất cả thê thiếp, cung phi đều có mặt, mà chỉ có một số người trong đông cung và một số nhân vật thân cận của hoàng gia. Tất cả do thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân dẫn đầu. Nhưng người mà vị vua cao niên này chú ý nhiều nhất là Tử Sở và Lã Bất Vi đứng bên cạnh công tử. Tần Chiêu Vương đã chuẩn bị tinh thần từ trước, nên ngài ngẩng cao đầu mặt mày hớn hở, từ trên cỗ chiến xa từ từ bước xuống.
Vợ chồng thái tử và mọi người trong hoàng gia quỳ rạp xuống bên phải để bái chào đại vương. Thái tử nói:
- Nhi thần đưa phi tần, vương tôn đông cung và hoàng gia cung kính nghênh đón phụ vương thánh giá! [i]
- Chúng thần cung kính nghênh đón đại vương thánh giá.
Các đại thần do Phạm Thư dẫn đầu đứng một hàng bên trái, cứ phủ phục xuống đất.
Nét mặt nhà vua tươi cười rạng rỡ:
- Tất cả bình thân. - Nhà vua nói.
- Cảm tạ phụ vương!
- Cảm tạ ân điển đại vương!
Hai hàng người quỳ ở hai bên lóp ngóp đứng dậy; nhưng bỗng tất cả lại đồng thanh:
- Đại vương chinh chiến nhiều năm, hết sức gian nan vất vả! Có vẻ như việc nghênh đón đang diễn ra chưa đủ mức nhiệt thành đối với đấng quân chủ chí tôn.
Câu chúc tụng ấy đã làm cho Chiêu Vương cảm thấy rất lúng túng. Nhưng trong đầu nhà vua đã có chuẩn bị trước, nên ngài khoát tay rất tự nhiên và nói:
- Bụi trần chinh chiến chưa rửa sạch. Chuyện đó hãy tạm gác lại bàn sau. - Nói xong bèn vẫy tay gọi Tử Sở lại gần, đặt tay lên vai đứa cháu và nói - Nếu nói gian nan vất vả thì đều vì đứa cháu này đây!
- Cháu bất hiếu, làm liên lụy đến “tổ vương” phải thân chinh ra trận, trải bao chiến sự. Đó là tội lớn của cháu! - Tử Sở phủ phục xuống đất, tỏ ra vừa cảm kích vừa lo sợ, nước mắt lã chã, không dám ngước mắt nhìn lên.
- Công tử trở về bình an, đó là nhờ được thần uy của đại vương và các tiên vương phù hộ! - Rốt cuộc thì các đại thần cũng tìm được một lời chúc tụng phù hợp thực tế, lại vừa tỏ lòng trung thành và phải phép, giọng nói lại đều răm rắp và vang sảng.
Tần Chiêu Vương cảm thấy bản thân từ bị động đã chuyển sang chủ động, bèn nhanh nhẹn ra hiệu cho Tử Sở đứng dậy và đến gần, nói:
- Nói được lắm! Nói được lắm!
Sau đó, nhà vua lên xe rồng. Bọn thị vệ nội cung hô lớn: “Khởi giá hồi cung!”. Xe rồng từ từ đi về nội thành, phía trước là đội tiêu binh cầm long đao, phía sau là hoàng gia và các đại thần.
Buổi nghênh đón như vậy, Tần Chiêu Vương cảm thấy rất vừa lòng, vừa không quá đông người, không làm ầm ĩ ồn ào, cũng không thầm lặng quá mức. Đặc biệt, sự có mặt của Tử Sở giúp cho nhà vua có thể nói lảng sang một chủ đề khác, khỏa lấp được cái khó coi và sự hẫng hụt của một vị vua bại trận. Tối hôm đó, vợ chồng thái tử đưa Tử Sở đến vấn an nhà vua, ngài mới biết rằng buổi lễ vừa phải ban ngày là do Lã Bất Vi nêu lên sau khi đã suy xét rất cẩn thận. Vua Tần Chiêu Vương cảm thấy nhà đại thương gia Dương Địch này rất có cao kiến trong việc phán đoán tâm trạng con người để có những đối sách thích hợp. Những tài năng như vậy, nếu được sử dụng trong chính trị sẽ có tác dụng lớn hơn nhiều. Nhân sự việc này, nhà vua lại nghĩ tới những ấn tượng tốt khi ngài nghe Lã Bất Vi nói về công tử và nước Triệu lúc ông này gặp ngài trên đường đốc chiến ở Triệu; nghĩ vậy, ngài cho rằng việc sử dụng và giao trọng trách cho Lã Bất Vi là chuyện không cần bàn cãi nữa.
Nhà vua chỉ nghỉ ngơi ba ngày rồi lên triều như thường lệ. Ngài không muốn nghỉ lâu, mặc dù tuổi cao và quá mệt mỏi sau nhiều năm chinh chiến. Đó là vì ngài muốn nhanh chóng xóa bỏ ảnh hưởng tiêu cực do bại trận gây nên, lập lại uy quyền của mình. Nhà vua ngồi trên ghế rồng, đưa mắt nhìn xuống hàng ngũ chỉnh tề các đại thần đang bái phục chúc tụng mình. Ngài nghiêm sắc mặt, hỏi:
- Các khanh tưởng rằng trẫm mất bốn năm, đi xa hàng nghìn dặm, đưa hai mươi vạn người, đánh phạt nước Triệu, là thắng hay bại?
Một bầu không khí lặng ngắt như tờ bao trùm căn phòng rộng lớn. Câu hỏi khó này, ai trả lời được đây?
Nhà vua đưa mắt hướng thẳng vào hàng võ tướng, nói to:
- Vương Hột.
Vương Hột. đứng ra ngoài hàng, quỳ mọp xuống, vừa run vừa nói:
- Có thần!
- Ngươi nói bại hay thắng? - Vua Tần Chiêu Vương hỏi thêm, cố làm ra vẻ bình thản.
- Bại ạ... - Vương Hột nói rất khẽ, rõ ràng là cũng cảm thấy đau lòng.
- Tại sao lại nói vậy? - Tần Chiêu Vương tiếp tục cật vấn.
Vương Hột mồ hôi tuôn ra như mưa, nói tiếp:
- Mất bốn năm trời, thương vong mười vạn, không giành được một tấc đất, không chiếm được một thành trì, sao không gọi là bại?
Tần Chiêu Vương nhìn một lượt khắp mọi người, hỏi tiếp:
- Các khanh nhận xét thế nào?
- Chúng thần cho rằng đã thất bại rồi ạ! - Các đại thần đồng thanh trả lời.
Tần Chiêu Vương mỉm cười, gật đầu, quay sang phía Lã Bất Vi đang quỳ bên cạnh Tử Sở, hỏi:
- Lã khanh, ý của ngươi như thế nào? [ii]
- Theo ngu kiến của vi thần, như thế là thắng ạ! [iii] - Lã Bất Vi hơi ngẩng đầu lên, trả lời cung kính.
Các quan đại thần giương mắt nhìn nhau, chẳng ai dám hé răng.
- Tại sao nói vậy? - Tần Chiêu Vương hỏi.
Lã Bất Vi thẳng lưng nói một mạch, rất ngay thẳng:
- Việc chiến sự, ra quân là vì chính trị, chính trị là thực chất, còn quân sự là phép thuật. Bệ hạ ngự giá thân chinh, mất bốn năm ròng, tổn thất mười vạn, không chiếm một thành trì hay tấc đất nào. Về phép thuật, đó là thất bại. Nhưng uy quyền của đại vương được nêu cao, vũ lực của ta được khai triển, nước Triệu khiếp sợ, Hàm Đan lâm nguy. Nhất là công tử Tử Sở thoát khỏi kìm kẹp và trở về cố quốc, chấm dứt hai mươi năm làm con tin. Nói về thực chất, há chẳng phải là đại thắng, vì đã cảnh cáo sáu nước, răn đe chư hầu đó sao?
- Rất tốt. Rất tốt. Lời của Lã khanh, dù Tô Tần hay Trương Nghi [iv] cũng không bằng. - Chiêu Vương nói. ngài khoát tay ra hiệu cho Lã Bất Vi đứng dậy, sau nghiêm sắc mặt, nói tiếp - Theo trẫm, thất bại ở Hàm Đan, thứ nhất là do công tử nằm trong tay địch, Vương Hột trong thời kỳ đầu không tấn công mạnh. Thứ hai, Triệu được Nguy hỏa tốc đến cứu, quân ta bị đánh từ hai mặt: trước và sau lưng [v], nhất thời đảo ngược mạnh yếu, đến nỗi phải chịu thất bại sau bốn năm ròng rã với đội quân hai mươi vạn, không đáp ứng được ý nguyện của tiên vương và trọng trách của xã tắc. Trẫm không thể thoái thác tội lớn ấy.
Các đại thần thấy nhà vua nói rất xúc động, bèn vội khuyên ngài chớ quá tự trách:
- Bệ hạ nặng lời quá!
- Tuy nhiên, lần này trẫm đi đánh Triệu, vốn là muốn chiếm Hàm Đan để tiến tới tiêu diệt nước này, nhưng đồng thời lại còn nhằm cái đích là cứu cháu ta đang làm con tin bên ấy. - Tần Chiêu Vương càng nói càng hăng - Nay tác chiến tuy bại nhưng cháu ta công tử Tử Sở thoát khỏi tù ngục ở kinh đô nước Triệu, trở về cung nhà Tần, vào đông cung làm thừa tự, sau này thờ phụng tôn miếu. Đó là đại thắng của trận này! Các khanh thấy thế nào?
- Bệ hạ hoành quan thánh kiến [vi], chúng thần rất kính phục!
Dưới điện vang lên những lời a dua phỉnh nịnh. Nhưng trong khi tâng bốc nhà vua, các quan lại nhà Tần cũng không khỏi khâm phục sự khôn ngoan xảo quyệt của Lã Bất Vi, ông ta rất giỏi ăn nói, rất được lòng mọi người.
Tần Chiêu Vương lần này thiết triều nhằm nêu lên những câu hỏi mà ngài đã suy nghĩ rất kỹ, cốt dồn cho các đại thần không thể bàn cãi được; từ đó, khôn khéo đổ tội thất bại ở Hàm Đan cho người khác và các nguyên nhân khách quan. Còn về bản thân mình thì nói qua quýt cho xong chuyện, cũng nói vài lời nhận lỗi đấy, nhưng là nghĩ một đằng nói một nẻo. Cuối cùng nói rằng Tử Sở thoát hiểm trở về là một trong những mục đích của ông ta trong cuộc chiến tranh này. Điều này hoàn toàn trái ngược với bản tính độc đoán tàn nhẫn của Tần Chiêu Vương khi ông ta bỏ ngoài tai những lời khuyên của vợ chồng thái tử, cứ để cho đứa cháu nhỏ tuổi của mình (Doanh Dị Nhân) đi làm con tin, coi đứa cháu như cọng rơm cọng rác, vứt bỏ đi như không có. Nay ông ta lợi dụng việc Tử Sở quay về, coi như là chiến lợi phẩm để trút bỏ trách nhiệm thất bại lẽ ra phải gánh chịu. Lại còn huyênh hoang rằng mình đã rất quan tâm đến số phận của cháu mình. Hơn nữa, còn khẳng định rằng sau này Tử Sở sẽ kéo dài tôn miếu nhà Tần, là người kế vị ngôi vua hợp pháp. Các quan trong điều đương nhiên chỉ dám tung hô và ủng hộ. Vợ chồng thái tử tuy hiểu rõ chân tướng, nhưng cũng chỉ có thể im lặng, ngoài miệng cứ phải lải nhải cảm tạ muôn vạn ơn nặng tình sâu của phụ vương; và còn răn dạy Tử Sở phải ghi lòng tạc dạ sự quan tâm săn sóc của ông nội cũng như cái giá nặng nề mà ngài đã phải trả.
Người được lợi nhiều nhất trong cuộc chơi vừa rồi là Lã Bất Vi. Buổi tối một ngày trước khi có buổi thiết triều nói trên, vua Tần Chiêu Vương có hỏi ý kiến Lã Bất Vi về nguyên nhân thất bại của trận Hàm Đan. Lúc đó, Lã Bất Vi đã nghĩ rằng cần phải hướng dẫn dư luận. Vì vậy, ông ta nghĩ ra luận điệu nguy biện xảo quyệt, đi từ “chất” và “thuật” (phương pháp), để nói bừa rằng không phải là thất bại mà là thắng lợi về chất. Lúc thiết triều, Lã Bất Vi và Tần Chiêu Vương ngầm thỏa thuận với nhau: ông ta nói đại ra những ý kiến của mình, coi như đề tài làm nền cho cuộc bàn thảo; sau đó, nhà vua quy nạp lại, đổ tội gây ra thất bại cho người khác, vơ hết chiến lợi phẩm vào mình. Cái màn kẻ xướng người họa ấy rất ăn ý nhau, nên rất có kết quả. Vì vậy, tiết mục cuối cùng của buổi thiết triều này là thái tử An Quốc Quân tuyên đọc chỉ dụ của Tần Chiêu Vương dưới sự chủ trì của đích thân nhà vua. Chỉ dụ như sau:
Khanh Lã Bất Vi, tài trí siêu phàm; cứu vương tôn khỏi cảnh khốn cùng, góp cao kiến với An Quốc Quân thái tứ, nói năng trung thực, đạt lý thấu tình. Hoa Dương vui vẻ nhận con. Dị Nhân lại được ấm tình mẫu tử. Lại còn cứu khỏi lưỡi dao thần chết, đưa con tin thoát hiểm trở về. Tấm lòng ấy thật khẩn thiết nhiệt thành, thủy chung son sắt. Khi luận bàn chiến sự, phán đoán sâu sắc chính xác, sức du thuyết dọc đất ngang trời. Những công lao ấy, trẫm cho là rất lớn. Nay ra tuyên chiếu, phong làm thượng khanh [vii].
Khâm thử.
Trong khi thái tử An Quốc Quân đang nói lời cuối cùng: “Thánh chỉ đọc xong, mau mau tạ ơn”, Lã Bất Vi (đang phủ phục xuống đất) rất cảm kích, sụt sịt như đang khóc, khấu đầu lia lịa, miệng nói:
- Nhờ ơn thái tử tiến cử, được đại vương rủ lòng thương hại, tiểu thần mới được tham dự triều chính, phò tá quân vương. Xin thề đem hết sức mọn tài hèn, dốc bầu nhiệt huyết, vắt cạn trí óc, toàn ý toàn thân, tự thôi thúc mình phụng mệnh thánh vương, chăm chỉ chuyên cần, để báo đáp một phần nhỏ nhoi “long ân” trời biển của bệ hạ! - Sau đó đứng dậy đón nhận thánh chỉ.
Lúc ấy hoạn quan nội triều hô lớn “Bãi triều”. Tiếp sau đó, các cung nữ cầm quạt “rồng bay phượng múa dưới ánh mặt trời” vây lấy vua Tần Chiêu Vương và về cung. Còn lại thái tử An Quốc Quân, Tử Sở, Lã Bất Vi và Phạm Thư, Đỗ Thương, Mông Ngao, Trương Đường, Vương Hột... Tất cả đều cung kính đứng nhìn để tiễn đưa nhà vua rời triều, sau đó mới lần lượt ra về theo ngôi thứ của mình. Lã Bất Vi tuy được phong làm “khách khanh”, nhưng lại là thầy học của công tử Tử Sở, cho nên không xây nhà (phủ đệ) riêng, mà được dành riêng một cung trong khuôn viên của đông cung, để tiện cho ông ta trong việc dạy học Tử Sở.
Nếu so sánh Lã Bất Vi và Phạm Thư thì khác hẳn nhau. Tuy là đại thần trong triều cả, nhưng Lã Bất Vi thì nhẹ bước thanh vân, như diều gặp gió, hiển hách vinh quang. Còn thừa tướng Phạm Thư thì ngôi cao chực đổ, liên lụy nhiều điều, “tội” “nhục” xen kẽ. Nhớ lại năm nào, Phạm Thư gièm pha tướng Bạch Khởi (Vũ An Quân), không ngần ngại đánh mất thành quả chiến thắng nước Triệu (mà Bạch Khởi sắp giành được), cốt để củng cố quyền thế và địa vị của mình. Vì vậy, Bạch Khởi bị bãi chức, cuối cùng bị vua Tần ban chết. Lúc đó thì Tần Chiêu Vương chưa biết sự thật, về sau, ngài dần dần hiểu ra. Nhưng ngài cũng không truy cứu trách nhiệm của Phạm Thư, cốt để che giấu sai lầm của mình do quá nhẹ dạ cả tin nên đã trừng phạt không đúng. Tuy nhiên, đối với Phạm Thư, thì điều này đã trở thành một mối lo canh cánh trong lòng, không bao giờ nguôi ngoai đi được.
Nói chuyện xa là vậy, còn chuyện gần là việc Tần Chiêu Vương thiết triều vặn hỏi nguyên nhân thất bại ở Hàm Đan. Trong đó có việc hai vạn quân tăng viện của Tần đầu hàng quân Nguy. Tướng chỉ huy đạo quân này là Trịnh An Bình, một người do Phạm Thư tiến cử. Theo luật nhà Tần, Phạm Thư phải chịu liên đới trách nhiệm. Vua Tần thấy Phạm Thư từng có công lớn với đất nước, nên không trừng phạt. Nhưng trong đám quần thần, có nhiều người chỉ trích Phạm Thư về việc này, khiến Phạm Thư rất xấu hổ, ăn không ngon ngủ không yên.
Để lập công chuộc tội, Phạm Thư kiến nghị vua Tần Chiêu Vương dưa quân đánh diệt nhà Chu [viii], để lên ngôi hoàng đế. Sở dĩ Phạm Thư làm việc này là nhằm lợi dụng tâm lý vốn có của vua Tần Chiêu Vương: hiếu chiến, háo danh, háo công, luôn luôn muốn thôn tính thiên hạ để trở thành bá chủ. Trong khi đó, Tần Chiêu Vương cũng không cam tâm chịu đựng cái nhục thất bại ở Hàm Đan, nhất quyết phải tìm cách cứu vãn uy tín, giành lại uy quyền vốn có, bèn sai tướng Vương Hột đánh nước Tề. Hai người này đánh chiếm được một số thành trì, nhưng thành quả không lớn. Năm sau, lại sai tướng Doanh Liêu đánh nước Hàn, chiếm được thành Dương Thành và Phụ Thử, trực tiếp đe dọa nước Tây Chu ở bên cạnh.
Tây Chu lúc này đã ở vào thời kỳ cuối cùng của triều đại nhà Chu sau khi trải qua mấy trăm năm thay ngôi đổi chủ, biến động triền miên. Thế của nước Chu lúc này như ngọn đèn trước gió. Huống chi, lại còn phân chia thành Đông Chu và Tây Chu với hai hệ thống chính quyền riêng rẽ, một ở Lạc Dương, một ở Củng Huyện, lực lượng bị dàn mỏng, rất dễ bị đánh bại. Trong lúc đó, vua Noãn Vương nhà Tây Chu là người nhu nhược bất tài, không thể chống đỡ nổi quân Tần hùng mạnh đang áp sát chân thành, đến nỗi không dám nghênh chiến, sẵn sàng đầu hàng, quân sĩ chán nản, lòng người hoang mang. Phạm Thư bèn xúi giục vua Tần tập trung binh lực để đánh Tây Chu, kẻ chiêu tập các nước chư hầu để chống lại nước Tần, chứ không nên phân tán lực lượng. Nếu đánh dược Tây Chu thì sẽ lên ngôi hoàng đế, hoàn thành sự nghiệp bá chủ. Tần Chiêu Vương nghe lời Phạm Thư, sai đại tướng Doanh Liêu đưa hai mươi vạn quân đi qua Dương Thành, tấn công Tây Chu. Doanh Liêu đưa quân vây chặt ngoài thành, đánh trống thổi tù, rung trời dậy đất đập vỡ cổng thành. Vua Tây Chu Noãn Vương dẫn triều thần ra quỳ lạy xin hàng, dâng cho Tần toàn bộ ba mươi sáu thành trì, ba vạn nhân khẩu; lại còn tự mình đến Hàm Dương bái yết vua Tần Chiêu Vương, tự trách mình đã liên hợp chư hầu đem quân đến núi Y Khuyết để tấn công nước Tần, và xin chịu hình phạt.
Hạ nhà Chu lần này rất thuận lợi, Noãn Vương lại đích thân đến xin chịu tội, thái độ có vẻ rất khiếp sợ, đáng thương hại, nên không giết ông ta, chỉ cắt bỏ chữ “vương”, giáng xuống làm “công”, và cho phép ông ta đến ở tại đất phong là Lương. Vì làm một ông vua mất nước, phải sống lưu vong, Noãn Vương không khỏi tưởng nhớ quê hương đất nước nên đau buồn rồi sinh bệnh, không lâu sau thì chết.
“Vua mất thì nước không còn”. Đó là lý do mà Chiêu Vương nhà Tần đưa ra để ra lệnh cho Doanh Liêu đưa quân san bằng đền thờ tổ của nhà Chu. Đưa một đội thuyền lớn chở chín cái đỉnh lớn tượng trưng cho chủ quyền quốc gia của Chu từ Lạc Dương về Hàm Dương của Tần. Tuy nhiên, một ngày trước khi chở đỉnh về nước, bỗng dông bão nổi lên đùng đùng suốt đêm. Ngày hôm sau, chiếc đỉnh của Châu Dự trong số chín chiếc đỉnh của nhà Chu không cánh mà bay. Tìm mãi không thấy, Doanh Liêu và Trương Đường chỉ còn cách nói dối rằng chiếc đỉnh đó đã rơi xuống sông Tứ Thuỷ, mò mãi không thấy. Từ đó việc mất một chiếc đỉnh của nhà Chu trở thành câu chuyện bí hiểm thiên cổ, không ai giải thích nổi. May mà lúc ấy vua Tần Chiêu Vương đang say sưa vì diệt được Chu, lại lấy được đỉnh, nên việc mất một chiếc đỉnh, ngài cũng không thật chú trọng truy cứu nữa. Ngài đang vội lo mở rộng đền thờ nhà Tần để đặt tám chiếc đỉnh lớn mới giành được. Ngài lấy tên của tám quẻ [ix] trong sách Chu Dịch để đặt tên cho tám chiếc đỉnh và đặt chúng theo đúng vị trí của tám quẻ ấy. Đó là: càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn. Vua Tần coi đó là đã làm xong việc chuẩn bị để xưng đế.
Với tư cách là người chủ định việc đánh diệt nhà Chu, thừa tướng Phạm Thư có công lớn, vì vậy cái cảm giác mắc tội vốn có từ trước, nay cũng tiêu tan. Thay vào đó là một bộ mặt đắc chí.
Tiếp theo đó là triều đình nhà Tần mời các nước đến dự lễ tế đỉnh và nạp cống cho nhà Tần. Trong buổi lễ long trọng ấy, các nước Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn đã cử thừa tướng đến dự, riêng nước Ngụy không đến. Vua Tần Chiêu Vương cho rằng đó là làm nhục mình, bèn sai Vương Kê, tướng bảo vệ quận Hà Đông, đưa quân đột kích nước Ngụy. Nhưng Vương Kê là tướng chốt giữ biên giới, có quan hệ rất tốt với nước Ngụy, đã không tấn công Ngụy, mà còn thông báo cho Ngụy biết chủ trương đánh Ngụy của vua Tần. Sau đó, vua Ngụy vội vàng sai sứ sang Tần tạ tội. Lại còn đưa thái tử đến Tần làm con tin. Đây là một hiện tượng không bình thường, vì trước đó thì Ngụy không đến dự lễ tế đỉnh, tỏ ra ngạo mạn, sau thì hạ mình cung kính. Vua Tần Chiêu Vương rất hoài nghi. Ngài gọi tướng Vương Kê tới xét hỏi. Vương Kê nhận tội đã thông đồng với địch. Tần Chiêu Vương nổi giận, chém đầu Vương Kê ngay trước mặt triều thần. Điều đáng chú ý là Vương Kê cũng do Phạm Thư tiến cử. Nếu kết hợp việc này với việc Trịnh An Bình hàng Ngụy trong trận đại bại ở Hàm Đan (Trịnh An Bình cũng do Phạm Thư tiến cử), thì rõ ràng là Phạm Thư không phải ngẫu nhiên nhìn nhầm người! Lần này, Phạm Thư lẽ ra cũng phải chịu tội liên đới với Vương Kê và cũng bị xử tử. Thật là họa vô đơn chí.
Trong lúc Phạm Thư đang hoang mang lo lắng, thì Thái Trạch, một thuyết khách hùng biện của nước Yên đến Hàm Dương. Trước khi gặp vua Tần, Thái Trạch tung tin nói rằng mình là một hiền tài bác học hùng biện, chỉ cần được gặp vua Tần, thì nhà vua sẽ đưa ông ta lên làm thừa tướng, thay chân Phạm Thư. Phạm Thư tự cho mình là người biết rất rõ những việc từ thời “Tam hoàng Ngũ đế” [x], các học thuyết của bách gia chư tử; biết bao nhiêu nhà du thuyết hùng biện đều ngã gục trong tay ông, chẳng lẽ lại sợ một kẻ vô danh tiểu tốt như Thái Trạch giành mất chức vụ của mình? Nghĩ vậy, bèn cho mời Thái Trạch đến gặp. Khi Thái Trạch đến, thấy Phạm Thư, Thái Trạch cũng không quỳ xuống, chỉ chắp tay chào. Phạm Thư thấy bộ dạng và mặt mũi Thái Trạch xấu xí, hai vai rộng, mũi dẹt, lông mày dựng ngược, chân vòng kiềng, ông ta (Phạm Thư) trông thấy chẳng ưa mắt tí nào, bèn hỏi nhỏ Thái Trạch: “Có phải ông từng nói rằng ông sẽ làm thừa tướng thay tôi phải không?”. Thái Trạch bèn nói toạc ra, chẳng kiêng nể gì. Phạm Thư yêu cầu Thái Trạch nói rõ lý do. Thái Trạch than rằng kiến thức của ông (Phạm Thư) quá kém cỏi, một năm bốn mùa, hết xuân đến hạ, hết hạ đến thu, đông; cũng như người hiền tài sinh sau sẽ thay thế các bậc tiền bối, đó là quy luật rất tự nhiên, không thể tùy thuộc vào ý chí ai. Những người có công lớn rất xuất sắc của triều đại trước như Thương Ưởng của Tần, Ngô Khởi của Sở, Văn Chủng của Việt [xi] đều chết bất đắc kỳ tử. Vậy ông có muốn như vậy không? Phạm Thư biết rằng Thái Trạch đang nêu lên một vấn đề nan giải, nhưng vẫn nói rất cứng rằng, những người ấy trung với vua, giữ nghiêm luật pháp, hết lòng vì đất nước, dù đều bị xử tử, nhưng là chết quang vinh, chẳng có gì là không tốt. Thái Trạch nói:
- Người làm tôi phải gặp đức vua khoan dung nhân hậu, mới có thể hiến dâng trọn vẹn. Thử hỏi, xét về các mặt như: được mọi người tin cậy, có sự đôn hậu với mọi người, có tình nghĩa sâu nặng với bầy tôi và không trở mặt, bội bạc và trừng phạt công thần, thì đức vua mà ông phụng mệnh, có sánh được bằng Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương và Việt Vương Câu Tiễn từng trọng dụng Thương Ưởng, Ngô Khởi, và Văn Chủng hay không?
Phạm Thư nói ấp úng:
- Làm sao có thể sánh bằng được?
Đến đây Thái Trạch bèn nói thẳng ra những nhược điểm của Phạm Thư. Ông ta nói:
- Đức Vua của ông không bằng ba vị vua kia, công lao của ông cũng không bằng Thương Ưởng, Ngô Khởi và Văn Chủng. Ông lại còn đố kỵ và hãm hại người có tài, phản bội Bạch Khởi. Tướng Trịnh An Bình và tướng Vương Kê do ông tiến cử đều phản bội nhà Tần để quay sang Ngụy, người thì bị chu di họ tộc, người thì bị xử tử. Theo luật nhà Tần, lẽ ra ông phải lên đoạn đầu đài rồi. Vua Tần chưa trừng phạt ông, đó là còn may cho ông. Nhưng ông vẫn còn ngông nghênh tự đắc, khư khư giữ lấy chức quyền, không chịu tỉnh ngộ để tự động lui về. Nếu cứ để cho sấm sét giáng vào đầu rồi mới chạy, thì không kịp đâu. Cho nên tôi cho rằng ông làm như thế là không khôn ngoan chút nào.
Phạm Thư hiểu ra vấn đề, bèn nói:
- Ngài nói đúng, tôi đã từng nghe câu cách ngôn: “Cứ theo đuổi mãi thì sẽ đánh mất cái đã giành được; có rồi mà vẫn thấy chưa đủ thì sẽ đánh mất cái đã có”! Lời dạy của ngài, làm cho tôi sáng ra rất nhiều. Tôi nhất định làm theo ý của ngài. - Nói xong bèn cung kính mời Thái Trạch ngồi lên ghế trên, coi như thượng khách.
Phạm Thư giữ Thái Trạch ở lại làm bạn với mình, ăn ở chân tình, tỏ ra hết sức khâm phục Thái Trạch có tư duy sâu sắc và nhạy bén, có kiến thức độc đáo và sâu rộng. Đặc biệt, nhờ có gợi ý và cảnh báo của Thái Trạch, mà Phạm Thư hiểu ra vấn đề, thấy rõ rằng vinh quang hay nhục nhã, thành công hay thất bại, đều phụ thuộc lẫn nhau, tương phản nhau nhưng cũng tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Thực tiễn càng diễn ra như vậy trong một thể chế lấy “nhân trị” làm nhân tố quyết định. Vì vậy, con người trong cuộc phải biết xử sự đúng mực với “công quá [xii] vinh nhục” ; tức là phải biết như thế nào là đủ, chớ quá tham lam; khi được hiển vinh phải biết tránh điều nhục; khi lập được công phải nhớ đến sai lầm, không tiến lên được nữa tự khắc thoái lùi. Như vậy mới giữ được tiếng thơm đến cùng. Nghĩ đến đây, Phạm Thư cảm thấy như trút bỏ được gánh nặng trong lòng, tâm tình nhẹ nhàng thoải mái hẳn lên.
Mấy hôm sau, sau khi tham dự thiết triều, Phạm Thư đến nội cung bái yết Tần Chiêu Vương. Ông nói:
- Tâu hoàng thượng, có người khách tên là Thái Trạch, ở Sơn Đông đến, là người hùng biện kỳ tài, biết rõ chuyện của vua Hạ, Thương, Chu [xiii]; am hiểu cơ nghiệp của ngũ bá Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công... Đặc biệt, Thái Trạch nắm rất vững tình hình hiện tại, sự biến động của thế sự. Thật là một cây đại thụ mà nền chính sự đại Tần ta có thể dựa vào.
Tần Chiêu Vương hỏi lại một cách thận trọng:
- Có ngôi sao tuấn kiệt như vậy ư?
Phạm Thư đáp chân thành:
- Vi thần đã đi khắp chư hầu, trải nghiệm sâu rộng, quen biết rất nhiều anh tài hiền sĩ, nhưng không ai bằng Thái Trạch.
- Nhưng so với thừa tướng thì như thế nào? - Chiêu Vương một lần nữa thăm dò thâm ý của Phạm Thư.
Thừa tướng nói rất khiêm nhường:
- Thần không bằng ạ! Thần không bằng ạ!
Tần Chiêu Vương vẫn ngần ngại. Ngài hỏi:
- Quả thật như vậy ư?
- Bệ hạ có bao giờ thấy hạ thần khen người khác giỏi hơn mình chưa?
Lúc này Tần Chiêu Vương mới thật tin. Ngài bảo Phạm Thư truyền chiếu, cho gọi Thái Trạch vào nội cung để ngài trực tiếp hỏi chuyện. Ngài nêu lên hàng loạt vấn đề như sự thăng trầm, hưng thịnh, suy vong của các triều đại trước ra sao? Thực trạng của các nước hiện nay và sự đối đầu giữa các nước đó với nhau, nguyên nhân tại sao? Xu thế phát triển của các nước...? Thái Trạch đối đáp lưu loát, phân tích sâu sắc, trích dẫn phong phú. Tần Chiêu Vương tỏ ra rất hài lòng, bèn phong Thái Trạch làm “khách khanh”.
Sau khi Thái Trạch được bổ nhiệm không bao lâu, Phạm Thư bèn viện cớ có bệnh nên trao lại ấn tín thừa tướng cho Tần Chiêu Vương. Chiêu Vương không nghe, bắt Phạm Thư dù bị ốm cũng cứ phải tham dự chính sự. Phạm Thư bèn nói bệnh quá nặng, không thể làm việc được nữa. Tần Chiêu Vương đành phải chấp nhận cho Phạm Thư từ nhiệm, bãi chức thừa tướng của ông. Về sau, Chiêu Vương rà soát lại cẩn thận các tấu trình của Thái Trạch về nội chính, ngoại giao, chính trị, kinh tế, đều thấy rất hài lòng. Ngài rất mừng, bèn phong Thái Trạch làm thừa tướng, giao cho việc chuẩn bị chiến lược bành trướng sang phía Đông, đánh diệt hoàn toàn nhà Chu.
Chỉ mấy tháng sau khi Thái Trạch được giao chức thừa tướng, đã có lời ong tiếng ve đả kích ông, cài bẫy làm hại ông. Thái Trạch sợ bị đố kỵ, do đó, có thể bị giết, cho nên cũng cáo bệnh và trao lại ấn tín thừa tướng. Sau đó, Thái Trạch ở lại nước Tần mười mấy năm, hiến kế bày mưu cho Tần Chiêu Vương, Hiếu Văn Vương (An Quốc Quân) và Trang Tương Vương (Tử Sở), tham gia bàn thảo đại sự của nhà Tần; cuối cùng phò tá Tần Thủy Hoàng. Sau cùng, Thái Trạch được cử đi sứ nước Yên. Ở cương vị này, ông cũng thu được kết quả rất tốt, nâng cao được uy tín của Tần. Bao năm sau, nước Yên khiếp sợ trước sức mạnh của nhà Tần, đã chủ động bày tỏ thiện chí với Tần, và đưa thái tử Đan sang Tần làm con tin. Do những cống hiến to lớn và phẩm chất của mình, Thái Trạch được tôn vinh là Cương Thành Quân [xiv].
Tại sao Phạm Thư và Thái Trạch lại có vai trò quan trọng như vậy trong lịch sử thời kỳ tiên Tần?[xv] cố nhiên đó là do họ có công lớn trong thời kỳ phò tá Tần Chiêu Vương. Điều quan trọng hơn là do họ biết kịp thời quả quyết rút lui khi đã đạt tới đỉnh cao hiển vinh của mình, như thế mới giữ được cải tiết tháo, danh thơm lúc cuối đời. Quả là họ đã làm theo đúng câu cách ngôn trong sách “Thư kinh”[xvi]: “Thành công chi hạ, bất khả cửu xứ” (“khi đã thành công, không thể ở lâu). Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, nhiều người ganh đua chèn ép nhau, đố kỵ nhau, thậm chí đấu đá hãm hại nhau, họ (Phạm Thư và Thái Trạch) làm như vậy là khôn ngoan, tinh đời. Đúng như nhà viết sử Tư Mã Thiên từng tóm lược rằng: câu “dài tay áo, dễ múa; lắm tiền tài, dễ buôn” mà Hàn Phi nói cũng có nghĩa là: người có tài trí xuất chúng, thường biết cách sử dụng và phát huy cái thế mạnh đó của mình.
Lịch sử thời bấy giờ cho thấy, Phạm Thư và Thái Trạch đã thăng tiến đến chức đại thần, thừa tướng, lại giữ được trọn vẹn công danh đến cuối đời, thật là quá hiếm. Bởi lẽ biết bao hiền tài khác đương thời, hoặc là suốt đời sáng vác ô đi tối vác về không có gì khởi sắc; hoặc là công lao hiển hách nhưng rồi bất đắc kỳ tử! Cho nên cái thành công của hai nhân vật trên là ở chỗ họ hiểu rõ cái ranh giới của vinh và nhục và biết kịp thời tiến và lùi.
Thái Trạch biết sống “khôn sống mống chết”, “có thân phải biết lo thân”, “quân tử phòng thân” (“minh triết bảo thân”, “cấp lưu dũng thoái”), cho nên ông đã giữ được tiếng thơm và khí tiết cho đến cuối đời. Như vậy: có thể nói, ông đã “công thành danh toại”. Chính Thái Trạch đã viết nên những trang sử hết sức lạ lùng và bí hiểm của nước Tần và của cả Trung Quốc. Đó là vì ông đã chỉ làm thừa tướng mấy tháng rồi từ chức. Trong thời gian bốn năm, kể từ khi ông từ chức (năm 255 trước Công nguyên, năm thứ 52 Chiêu Vương) cho đến năm Chiêu Vương mất (năm thứ 56 Chiêu Vương), không thấy có ghi chép ai kế vị thừa tướng của Thái Trạch, mặc dù lúc đó việc chép “quốc sự” hàng ngày đã rất có nề nếp. Đó là điều vô cùng kỳ lạ của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi đó. Hơn nữa, đàng sau cái vỏ bề ngoài đầy màu sắc kỳ bí đó, lại ẩn giấu một sự thật lịch sử bí hiểm. Sự thật đó được ghi trong sách “Chiến Quốc sách. Tần sách” (mặc dù những điều ghi chép của “Chiến Quốc sách. Tần sách” về Lã Bất Vi đến Hàm Dương du thuyết, khác rất xa so với những ghi chép của nhà chép sử Tư Mã Thiên trong “Sử ký” như sau: Lã Bất Vi nói với Dương Tuyền Quân, em hoàng hậu vua Tần rằng, nhà vua tuổi đã cao, hoàng hậu không có con, Tử Hề được kế vị cơ nghiệp của vua, Đỗ Thương lại phò tá Tử Hề. Một khi nhà vua băng hà, Tử Hề được lập làm thái tử, Đỗ Thương được trọng dụng...”. Tử Hề là con trưởng của An Quốc Quân, từ nhỏ được sống và trưởng thành trong cung đình; cho nên, Tử Hề đương nhiên là người được An Quốc Quân chọn làm thái tử để kế vị ngôi vua sau này. Nhưng khi vua Tần Chiêu Vương mất, thái tử An Quốc Quân kế vị ngôi vua, nhìn lại bốn năm trước đó (từ khi Thái Trạch thôi làm thừa tướng), nhân vật thực tế làm công việc của Thái Trạch trong “thời gian chân không” đó, phải là Đỗ Thương. Nhưng tại sao sử liệu nhà Tần không ghi chép việc đó? Nguyên nhân như sau:
Từ lâu, Tử Hề đã dòm ngó cái ngôi báu thái tử đông cung. Vì vậy, khi vua Chiêu Vương (ông nội của Tử Hề mất, cha là thái tử An Quốc Quân kế vị ngôi vua, nhân lúc mọi người đang bận rộn với việc quốc tang, Tử Hề đã để cho thừa tướng Đỗ Thương triệu tập các đại thần để bàn bạc và nhất trí ủng hộ việc lập Tử Hề làm thái tử. Sau khi quyết định như vậy, bèn mời An Quốc Quân đến (lúc này là Hiếu Văn Vương). Thừa tướng Đỗ Thương nói với nhà vua mới rằng: Theo phép tắc truyền thống và thể chế truyền ngôi xưa nay của nhà Tần, thì con trưởng của nhà vua phải được lập làm thái tử. Đó là việc làm chính đáng, không ai ngăn cản được. Lúc ấy Hiếu Văn Vương đang trong thời gian làm lễ tang cho vua cha, lại vừa mới gánh vác trọng trách quốc sự, trăm công nghìn việc, rối như mớ bòng bong, ruột gan như lửa đốt; nay lại bị Đỗ Thương và các đại thần hùng hổ gây sức ép. Vì vậy ngài buộc phải đồng ý lập con trưởng Tử Hề làm thái tử.
Tin trên được lan ra, Tử Sở và Lã Bất Vi rất bàng hoàng vì quá bất ngờ, bèn vội đến gặp hoàng hậu Hoa Dương bẩm báo:
- Thần được biết bệ hạ đã nghe theo ý kiến của thừa tướng Đỗ Thương và các đại thần, lập Tử Hề làm thái tử. Hoàng hậu sẽ làm gì bây giờ, xin mau quyết sách.
- Vừa qua, đại vương phải hầu hạ thuốc thang cho tiên vương. Nay lại đang thời gian lễ tang, không có lúc nào để nhìn ngó tới việc lập thái tử. Không ngờ thừa tướng Đỗ Thương đã thừa cơ tấn công trước, còn đại vương đang ở trong thế “thân cô thế cô”, đành phải gật đầu chấp nhận. Ta tuy là hoàng hậu và đứng chủ chánh cung nhưng rất ít tham dự chính sự. Vả lại, sự việc diễn ra rất mau lẹ, bất ngờ, không kịp đối phó. - Hoàng hậu Hoa Dương nói, tỏ ra rất bối rối, bế tắc.
Tử Sở buồn rầu than vãn:
- Thầy Lã Bất Vi khuynh gia bại sản, bản thân con suýt nữa chết cay chết đắng trong nhà tù của Triệu; cha mẹ cũng đã khắc chữ vào ngọc bội nhận con làm thừa tự; hằng mong sẽ được sắc phong đúng như những gì đã làm. Nhưng... - Tử Sở không dám nói tiếp những gì thực tế đã diễn ra, chỉ nức nở nghẹn ngào.
Lúc này, Lã Bất Vi dùng chiến thuật lùi để tiến, nói rất khéo rằng:
- Vi thần đã cố gắng làm thỏa lòng hoàng hậu trong việc nhận con thừa tự, đã giúp công tử thực hiện ước mơ quay về với người thân, thần đã hết sức chèo chống một mình, nhưng nay đã đổ hết xuống biển xuống sông, thật là uổng công vô ích. Tuy nhiên, hoàng hậu và công tử không phải chỉ mất cái danh nghĩa mẹ nuôi và danh phận con trưởng mà thôi. Vì nếu như Tử Hề và Đỗ Thương nắm được quyền thế, hoàng hậu ắt sẽ bị bãi chức chánh cung, công tử lại sẽ bị vứt bỏ. Chẳng lẽ hoàng hậu và công tử lại để cho ý tưởng to lớn năm nào phút chốc trở thành mây khói?
- Đúng thế, thưa mẫu hậu! Tử Hề và Đỗ Thương nhất quyết không bỏ qua cho mẹ con ta. Bây giờ phải làm như thế nào đây? - Tử Sở bất giác khóc nức nở.
Hoàng hậu Hoa Dương cũng không cầm được nước mắt, nói với Lã Bất Vi như cầu khẩn:
- Tình hình đột biến. Lòng ta rối như tơ vò, rất mong Lã tiên sinh mau mau tìm cách ứng phó...
Lã Bất Vi ngập ngừng giây lát rồi nói:
- Muốn tháo khuy phải tìm người đã cài khuy. Không ai khác ngoài thánh thượng. Nếu ngài không ra tay, thì vô phương cứu chữa.
- Người đời nói: Vua không nói chơi. Nay đại vương đã hứa rồi! - Hoàng hậu Hoa Dương nói, trong lòng rất lo lắng.
Tử Sở cũng gật đầu lia lịa và nói:
- Đúng thế! Cái khó chính là ở chỗ đó.
- Đại vương đã lên ngôi, nhất quyết không thể nói lời rồi lại nuốt lời. Nhưng việc này nếu thẳng thắn can gián, rất sợ nói năng không khéo sẽ làm hỏng việc. - Lã Bất Vi thận trọng hơn; ông nói ra những điều mà mình suy nghĩ.
- Tiên sinh nói rất phải, vậy thì làm thế nào để khỏi hỏng việc? Hoàng hậu tỏ ra sốt ruột, hỏi lại.
- Mỗi khi có quốc tang thì cả nước đều đau thương cho nên phải xuất phát từ tình hình đại cục để góp ý với đại vương, như vậy mới làm vơi bớt nỗi đau buồn của ngài, nhằm giữ vững ngôi vị chánh cung hoàng hậu, và bảo vệ danh phận con trưởng của công tử.
Hoàng hậu thở dài, nói:
- Lúc này mà cứ nói đại cục với tiểu cục làm gì cơ chứ? ngay cái thân phận của ta dây còn chưa yên nữa là!
Tử Sở vội thúc giục Lã Bất Vi:
- Xem ra thầy Lã Bất Vi đã suy nghĩ cả rồi, vậy xin thầy đến bẩm tấu với đại vương là hay nhất.
- Ồ! Không thể được. Không thể được. Việc này có liên quan đến số phận của ba người chúng ta ở đây, nếu một trong ba chúng ta di nói chuyện này sẽ chẳng hay ho gì. - Lã Bất Vi vừa nói vừa xua tay.
- Ngài và ta không đi nói, vậy ai nói cho đây? - Hoàng hậu nói thêm, bà thấy khó gỡ quá.
- Việc này rồi sẽ có cách...
Lã Bất Vi cười có vẻ bí hiểm. Nói xong, Lã Bất Vi hạ giọng, thì thầm to nhỏ với hai mẹ con hoàng hậu. Người ngoài chẳng nghe rõ ông ta nói gì, chỉ thấy ông mặt mày hớn hở, còn hoàng hậu và công tử thì rất chăm chú lắng nghe. Sau khi bàn định xong xuôi, Tử Sở và Lã Bất Vi rời ngay khỏi đông cung, để khỏi bị lộ, gây nghi ngờ cho mọi người. Còn hoàng hậu Hoa Dương thì tỳ tay nghiêng đầu vào mép bàn để tĩnh tâm nhớ lại mọi việc mà Lã Bất vi vừa nói, để theo kế đó mà hành sự.
Theo tục lệ cổ, dù nhà vua chết vì lý do gì (bệnh, tử trận, bị thích khách giết) lễ tang đều phải tiến hành đủ bốn mươi chín ngày, chia làm bảy tuần. Chỉ khác nhau ở mức độ: hậu hay bạc (mỏng), đơn sơ hay phong phú (phồn). Ngày cuối cùng của mỗi tuần, đều phải làm lễ tế rất long trọng, để tỏ lòng thương nhớ của con cháu; và cầu thần linh và tiên vương ban phúc. Lúc này, tang lễ của Chiêu Vương đã đến tuần thứ bảy (tuần cuối cùng). Hiếu Văn Vương đang bận rộn tíu tít về công việc đó. Hoàng hậu Hoa Dương chờ đến khi Hiếu Văn Vương về đông cung và ăn cơm xong, bà bèn vội vàng bảo cung phi mang canh đến cho ngài. Sau đó, bà mới hỏi han đến lễ tế cuối cùng. Hiếu Văn Vương nói mọi việc đều sẵn sàng rồi và dặn dò các bộ phận hữu quan phải làm mọi việc theo đúng giờ đã định. Hoàng hậu thở dài nói rằng tiên vương tuổi cao, bị bệnh lâu ngày, lúc sắp mất không còn tỉnh táo, còn sinh ra lú lẫn, không nói một điều gì về quốc sự và những việc về con cháu, làm cho người làm dâu như bà rất không yên tâm. Vì vậy, đại vương có thể nêu chuyện này trong văn tế tuần chay cuối cùng này, để xem anh linh của tiên vương có phán xét gì không?
Hiếu Văn Vương liên tục cảm tạ hoàng hậu. Ngài nói rằng bà đã suy nghĩ rất chu toàn, thật đáng mặt người chủ trì đông cung; và sai ngay thị vệ nội cung báo cho “chủ lễ” viết thêm nội dung vừa kể vào phần cuối của văn tế. Vừa vặn lúc ấy, Tử Sở và Lã Bất Vi bước vào để “vấn an” đại vương. Hoàng hậu bèn nói rằng việc này không cần đến ai khác, cứ bảo ngài Lã Bất Vi đến bảo “chủ lễ” sửa soạn văn tế cho thật tốt. Bà còn sai người đi mời thầy cúng và bà đồng nổi tiếng nhất ở Hàm Dương đến cúng bái và làm lễ phù phép để cầu xin anh linh tiên vương giáng thế. Lã Bất Vi nói ngay: “Xin tuân mệnh thánh dụ của bệ hạ và ý chỉ của hoàng hậu”. Nói xong bèn cúi mình lui ra.
Vào giờ Dậu (từ năm đến bảy giờ chiều) của ngày thứ bảy tuần chay cuối cùng, lễ tế long trọng uy linh được tiến hành tại thái miếu nhà Tần. Có mặt đông đủ các thành viên hoàng gia, thừa tướng, tướng lĩnh, các đại thần người nước khác (khách khanh), các sứ giả và con tin các nước. Mọi người đều đến để thành kính tiễn đưa anh linh tiên đế quang vinh của đại Tần. Khói hương nghi ngút, ánh đuốc lung linh, sáng rực lửa vàng, chuông khánh rền vang, trống dậy liên hồi, nhạc buồn trầm lắng, trướng bay rợp trời. Chưa bao giờ có một cuộc cúng tế linh hồn người quá cố trang nghiêm long trọng hoành tráng đến thế. Thật là không tiền khoáng hậu.
Mọi chuyện đang diễn ra theo đúng trình tự đã sắp xếp từ trước. Sau khi dâng rượu và hiến tế “tam sinh” (bò, lợn, dê), nhà vua Hiếu Văn Vương dẫn đầu con cháu và quần thần khấu đầu ba lần, sau quỳ phủ phục xuống đất. Chủ lễ hắng giọng, cất cao lời đọc văn tế, lúc trầm lúc bổng, lúc chậm lúc nhanh, phân minh tiết tấu. Cuối cùng là các thầy cúng bà đồng chạy ra, tay cầm kiếm, vừa đi vừa nhảy múa, tóc xõa lồng bồng, đeo mặt nạ nền đen trắng đỏ với hình vẽ khuôn mặt hung ác dữ tợn ghê sợ, áo rộng thùng thình, mồm hát nghêu ngao, nhạc đệm rập rình. Trong cảnh tượng rộn ràng uy nghi đó, bỗng một thầy cúng nhảy lên bàn tế nói to lên rằng:
- Ta là Chiêu Vương nước đại Tần đây!
Mọi người nghe vậy liền phủ phục xuống đất, khấu đầu lia lịa:
- Xin đón tiên vương giáng thế!
Chỉ nghe vị “Chiêu Vương” ấy dõng dạc nói to:
- Nay vừa mãn bảy tuần đại tế, ta về nghe cúng lễ. Vừa nghe văn tế, được biết vua tôi các ngươi tưởng nhớ đến ta, trung hiếu đôi bề, ta có lời khen - Nói xong ngài thét lớn - Đưa huyết tam sinh lại mau!
Chủ lễ vội bê một chậu huyết lại trước mặt ngài “Chiêu Vương”. Ngài vội dúng ngón trỏ vào huyết và viết trên tấm vải thô trải trước bàn tế, di chiếu như sau (dịch ý):
Ta là Chiêu Vương, tháng trước về trời..
Bảy tuần nghe tế, triền miên quốc sự.
Thái tử Quốc Quân, nối ngôi vương vị.
Tuổi gần sáu mươi, thể chất suy nhược.
Việc lập thái tử, phải thật cẩn trọng.
Tử Hề tuy trưởng, nhưng lực bình thường.
Đỗ Thương làm “tướng” đắc thế chuyên quyền.
Nội tình rối loạn, ắt có ngoại xâm.
Tử Sở hiền sáng, chí hiếu chí trung.
Hoa Dương nhận con, ngọc bội làm “bằng”.
Đã trình tiên tổ, bố cáo chư hầu.
Cấp tốc sắc phong, ra mặt thiên hạ.
Kế thừa cơ nghiệp, mở mang đại Tần.
Sau khi viết xong, ngài “Chiêu Vương” đưa ngón tay còn đầy huyết vào mồm, nuốt chửng ngon lành. Sau đó, thét lớn: “Đại vương ta hồi quy!”, rồi ngã vật xuống đất, hai mắt trợn ngược, chỉ còn lòng trắng, mồm sùi bọt mép, chân tay co giật, lên cơn động kinh. Một lúc sau mới thôi, nằm im như chết.
Những thầy mo thầy cúng khác và cô đồng vội đến vây xung quanh, kẻ nói người hô: “Buổi tế hôm nay, trung hiếu thật lòng, rung cảm trời đất, tiên vương giáng trần, viết lời thánh dụ. Vì vậy mà ngài thuật sư này mệt mỏi quá mức...” Hiếu Văn Vương vội sai người trọng thưởng cho đám thầy mo cô đồng.
Việc tiên vương giáng trần viết thánh dụ diễn ra trước hàng trăm con mắt. Bản thánh dụ nền trắng chữ đỏ, chỉ rõ chọn ai làm thái tử, lại còn nói Tử Hề bất lực, Đỗ Thương không thể tin cậy vì ông ta sẽ gây ra rối loạn nội bộ, do đó dẫn đến ngoại xâm. Điều này là đại sự quốc gia, ai dám không nghe, ai dám kháng chỉ! Vì vậy, Tử Hề bị giáng xuống làm dân thường, Đỗ Thương cũng không được dùng nữa.
Chú thích:
[i] Thánh giá: thánh là thần thánh, chế độ cũ gọi vua là "thánh". Thánh thượng cũng vậy. "Giá" ở đây có nghĩa là đến, nhưng chỉ vua "đến" mới gọi là giá. "Giá lâm" cũng vậy. - ND.
[ii] Lã khanh: Lã Bất Vi. Khanh là chức quan trong triều đình như thượng khanh, công khanh. Vua gọi người dưới là khanh - ND.
[iii] Thần có nhiều nghĩa: Thần là bộ trưởng như ngoại giao đại thần. Thần là quan lại tự xưng với vua. Vi thần là chức quan nhỏ (vi là nhỏ). Thần còn có nghĩa: những gì thuộc về nhà vua: thần dân (dân của vua), thần thiếp (thiếp của vua)...
[iv] Tô Tần người nước Tần, được vua Chiêu Vương nhà Tần sai sang nước Tề làm phản gián, được vua Tề phong làm thừa tướng. Sử sách còn ghi lại nhiều thư từ và du thuyết của Tô Tần.
Trương Nghi, ngày sinh không rõ, mất năm 310 trước Công nguyên. Thừa tướng nước Tần có công phò tá Huệ Văn Quân lên ngôi vua và du thuyết các nước phục tùng nước Tần - ND.
[v] Xem phần sau hồi thứ sáu này.
[vi] Hoành là rộng lớn, thánh là thần thánh. Hoành quan thánh kiến, nghĩa là có con mắt nhìn sâu rộng, nói ra như thần thánh - ND.
[vii] Nguyên văn là "khách khanh", tức là người nước khác, được phong làm "khanh", đại thần của triều đình - ND.
[viii] Nhà Chu: triều đại nô lệ thứ ba của Trung Quốc, sau nhà Hạ và nhà Thương (Ân). Ra đời từ thế kỷ 11 trước Công nguyên, năm 256 trước Công nguyên bị nhà Tần diệt, tất cả hơn 800 năm, tổng cộng có 34 đời vua. Từ năm 772 trước Công nguyên, gọi là Đông Chu, vì năm đó, Chu Bình Vương dời đô về Lạc Ấp (so với kinh đô cũ, Lạc Ấp, nay thuộc địa phận tỉnh Hà Nam, nằm về phía Đông). Cũng vì vậy, thời kỳ trước năm 772 gọi là Tây Chu. Riêng Đông Chu cũng chia làm hai thời kỳ. Đông Chu thời Xuân Thu (772 - 481 trước Công nguyên); và Đông Chu thời Chiến Quốc (475 - 221 trước Công nguyên) - ND.
[ix] Tám quẻ: tức là tám quẻ cơ bản trong sách Chu Dịch. Tất cả chỉ có hai vạch: vạch liền và vạch đứt. Mỗi quẻ gồm ba vạch. Trong Chu Dịch (Kinh Dịch) có sáu mươi tư quẻ, tức 8 x 8 = 64.
[x] Tam hoàng: ba nhà vua trong truyền thuyết của thời đại nguyên thủy Trung Quốc. Theo sách Từ Hải, có bảy giả thuyết khác nhau về Tam Hoàng. 1. Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Thái Hoàng. 2. Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng. 3. Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông. 4. Phục Hy, Thần Nông, Chúc Dung. 5. Phục Hy, Thần Nông, Hồng Công. 6. Phục Hy, Hoàng Đế, Thần Nông. 7. Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông.
Ngũ đế: năm nhà vua trong truyền thuyết thời đại nguyên thủy Trung Quốc, sau Tam Hoàng, trước nhà Hạ (thế kỷ XXI-XXVI trước Công nguyên). Có năm giả thuyết khác nhau về Ngũ Đế. 1. Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Khốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuần. 2. Thái Hao, Viêm Đế, Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Chuyên Húc. 3. Thiếu Hạo, Đế Khốc, Đế Chí, Đường Nghiêu, Ngu Thuần. 4. Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Đế Khốc, Đế Chí, Đế Nghiệp. 5. Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuần - ND.
[xi] Thương Ưởng: (380-338 trước Công nguyên), chính khách rất nổi tiếng thời Chiến Quốc. Người nước Vệ. Sau sang giúp nhà Tần thực hiện nhiều cải cách quan trọng, trong đó có việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp (nông nghiệp là gốc). Nhờ có Thương Ưởng, nên nước Tần hùng mạnh. Sau bị quý tộc nhà Tần vu cáo, bị xử cực hình: xé xác, chết năm mới 42 tuổi - ND.
Ngô Khởi: năm sinh không rõ, mất năm 381 trước Công nguyên. Người nước Vệ, làm tướng ở nước Lỗ, sau làm tướng ở nước Ngụy. Có nhiều chiến công lớn, rất được trọng dụng. Sau bị người nước Sở âm mưu hãm hại, phải chạy sang nước Sở, giúp Sở hùng mạnh, sau bị quý tộc Sở giết - ND.
Văn Chủng: người nước Sở (địa phận tỉnh Hồ Bắc hiện nay). Năm 494 trước Công nguyên, nước Việt bị nước Ngô đánh bại, Văn Chủng hiến kế, Việt sai người sang Ngô hối lộ, nên không bị mất nước. Sau vua Việt là Câu Tiễn sang làm con tin ở Ngô ba năm, Văn Chủng ở lại điều hành việc nước, Câu Tiễn về nước, phong làm thừa tướng. giúp Việt hùng mạnh, tiêu diệt được nước Ngô; công lao rất lớn. Sau, Câu Tiễn nghe lời gièm pha, ban cho tự sát - ND.
[xii] Công: công lao. Quá: sai lầm.
[xiii] Hạ Thương Chu: Hạ là triều đại nô lệ đầu tiên của Trung Quốc, thế kỷ XXI đến thế kỷ XVI trước Công nguyên. Nhà Thương: thế kỷ XVI-XI trước Công nguyên. Nhà Chu: thế kỷ XI - năm 221 trước Công nguyên - ND.
[xiv] Cương Thành Quân: thực ra sau khi trao trả ấn tín. Thái Trạch đã được tôn vinh là Cương Thành Quân. Có nghĩa vị "quân" đã làm xong những công việc cơ bản, việc then chốt. Quân là một danh hiệu cao quý thời cổ đại dành cho vua chư hầu, khanh tướng, hoàng thân, quốc thích, đại phu có nhiều ruộng đất - ND.
[xv] Tiên Tần: nước Tần ra đời từ năm 837 trước Công nguyên. Từ đó đến năm 221 trước Công nguyên, lịch sử Trung Quốc gọi là tiên Tần. Từ năm 221 đến 207 trước Công nguyên, gọi là triều đại nhà Tần - ND.
[xvi] "Thư kinh" tức là sách "Thượng thư", hoặc chỉ gọi đơn giản là "Thư". "Thượng Thư" nghĩa là sách nói về thời thượng cổ, một trang sách kinh điển của Nho giáo. Tổng hợp các văn bản lịch sử thượng cổ Trung Quốc và một số tác phẩm nói về các sự tích thời cổ đại. Tương truyền do Khổng Tử biên soạn - ND.