HỒI THỨ BẢY THỪA TƯỚNG LÃ BẤT VI ĐƯA QUÂN DIỆT ĐÔNG CHU-CHÀNG NIÊN THIẾU DOANH CHÍNH LÊN NGÔI BÁU---
Chắc hẳn là âm hồn của vua Tần Chiêu Vương không thể nào ngờ rằng ở dưới hạ giới lại có một vở kịch đứng tên ngài viết di chiếu vào ngay buổi tối cuối cùng của tuần tế thứ bảy; mà vở diễn lại được thể hiện kỳ bí và uy nghiêm đến thế! Mặc dù tất cả những người có mặt không ai kịp suy nghĩ xem màn diễn ấy là do đâu và đằng sau nó là ai, họ chỉ kịp chấp nhận bản di chiếu mang danh Tần Chiêu Vương được viết bằng máu của “tam sinh” (bò, lợn, dê); và màn diễn ấy đã làm tan biến thành mây khói giấc mơ của Tử Hề, con trưởng của Hiếu Văn Vương, từng ôm ấp bấy lâu ngôi báu đông cung và của Đỗ Thương, người kế nhiệm Thái Trạch, đang dòm ngó mãi cái ghế thừa tướng. Tử Sở được phong làm thái tử; việc này đã có ngọc bội làm bằng chứng. Thêm vào đó, “Chiêu Vương” hiện hình thuyết pháp và mọi người dự lễ “tận mắt chứng kiến”. Cho nên ngôi báu thái tử thuộc về Tử Sở là không có gì phải bàn cãi nữa. Tuy âm mưu chiếm ngôi báu thái tử của Tử Hề và Đỗ Thương cuối cùng phải chịu thất bại, nhưng việc Tử Hề và Đỗ Thương lợi dùng thời cơ để thực hiện ý đồ của mình cũng làm cho hoàng hậu Hoa Dương, công tử Tử Sở và Lã Bất Vi “khách khanh” giật mình. Nay thì mọi chuyện đã êm đẹp rồi, nhưng cả ba người vẫn còn lo sợ. Cả ba người đều thấy rằng cái vinh, cái nhục và sự thành bại của họ là gắn liền chặt chẽ với nhau, tuy ba mà là một. Vì thế, cần phải làm thế nào để Lã Bất Vi có quyền và địa vị hơn nữa.
Tuy nhiên, nhà vua Hiếu Văn Vương lại có ý kiến riêng của ngài về việc lựa chọn thừa tướng. Trước đây, Tần Chiêu Vương quá chuyên quyền và bám giữ ngôi vị quá lâu, cho nên An Quốc Quân giữ chức thái tử trong một thời gian quá dài. Trong thời gian đó, lại không hề tham gia việc chính sự và quân sự của triều đình. Mãi đến khi đã năm mươi tám tuổi, mới được kế ngôi vua. Lúc này ngài hoàn toàn không còn đủ tài năng, trí tuệ và tinh lực để đáp ứng trọng trách. Cho nên, cần có một thừa tướng đắc lực phò tá, ngài mới có thể ứng phó công việc triều chính hàng ngày. Với suy nghĩ đó, Hiếu Văn Vương thấy có hai người có thể lựa chọn. Người thứ nhất là Đỗ Thương. Đỗ Thương đã phò tá tiên vương rất lâu. Trong suốt hai mươi năm chủ trì triều chính của Chiêu Vương, Đỗ Thương là bộ óc quan trọng của triều đình: Hơn nữa, ông ta là bậc bề trên đã dạy dỗ Tử Hề trưởng thành trong một thời gian lâu dài. Một người nữa là Thái Trạch. Ông này là người kế nhiệm Phạm Thư. Thái Trạch đã nêu lên những đường hướng cơ bản của chiến lược phát triển sắp tới. Ông ta đã thôi chức thừa tướng, đó là do quan hệ cá nhân căng thẳng lúc đó buộc ông ta phải rút lui; chứ thực ra, ông vẫn rất muốn đóng góp. Chỉ cần chọn một trong hai người đó làm thừa tướng, thì cái ngôi vua này của mình mới ổn.
Nghĩ vậy, nhà vua bèn cho gọi Lã Bất Vi vào nội cung để gặp và nói cho Lã Bất Vi biết suy nghĩ của mình. Nhà vua nói:
- Trẫm nay tuổi đã cao, gần sáu mươi mới lên ngôi vị. Hàng ngày thiết triều, trăm công nghìn việc, rất khó chu toàn. Mong khanh góp ý giúp trẫm tìm một nhân tài để phong làm thừa tướng, phò tá cho trẫm và giúp việc trong triều.
Lã Bất Vi nghĩ rằng nhà vua cho gọi riêng mình, lại vừa bước vào đã thấy ngài nói ngay đến việc bổ nhiệm thừa tướng, cho nên, đây chắc chắn là ngài muốn chọn mình đây! Mặc dù nghĩ vậy nhưng Lã Bất Vi cũng phải làm một động tác để thăm dò ý tứ của nhà vua. Nghĩ vậy, bèn nói:
- Đại vương nói rất phải. Nước không thể một ngày không có Vua. Vua không thể một ngày không có thừa tướng. Chẳng hay đại vương đã chọn ai?
Hiếu Văn Vương nói rất trịnh trọng:
- Chỉ có hai người đã từng phụng sự tiên vương, đã có tài năng làm thừa tướng và cũng đã từng trải công việc đó.
- Nhưng chẳng hay đại vương muốn chọn ai? - Lã Bất Vi nghe nhà vua nêu lên những điều kiện đó, bèn hiểu ngay là mình không có phần, nên không khỏi cảm thấy chột dạ, tim đập mạnh. Tuy nhiên, ông ta cũng trấn tĩnh ngay lại và hỏi tiếp.
Hiếu Văn Vương nói với giọng thăm đò:
- Một người là Đỗ Thương, người kia là Thái Trạch, theo khanh thì ai hơn?
Đối với Đỗ Thương, Lã Bất Vi chẳng coi là gì, vả lại ông cũng đã từng cho ông ta lao đao một phen rồi, nên cố ý nói rất nghiêm túc:
- Tiên vương đã đích thân viết bằng máu bản thánh dụ, nói rằng nếu Đỗ Thương làm thừa tướng sẽ đắc thế chuyên quyền. Chẳng lẽ đại vương quên rồi hay sao?
- Sao mà quên được. Trẫm nghĩ rằng Tử Hề coi Đỗ Thương là thầy, quyền lực rơi vào tay ông ta, nhưng ta chỉ dùng Đỗ Thương làm phò tá, lại còn luôn luôn canh chừng, không để cho chuyên quyền. - Hiếu Văn Vương suy nghĩ quá đơn giản.
Lã Bất Vi nói với giọng rất nghiêm túc:
- Ông ta đã nắm được Tử Hề trong tay, tất sẽ có dã tâm chuyên quyền. Lời dạy của tiên vương cần được ghi nhớ!
Hiếu Văn Vương đành bác bỏ người thứ nhất vì cái gọi là “lời dạy của tiên vương”, và đành phải nêu người thứ hai:
- Vậy còn Thái Trạch thì như thế nào?
Khi bàn về Đỗ Thương, Lã Bất Vi đã suy nghĩ sẵn câu trả lời đối với người thứ hai. Lúc này, Lã Bất Vi tỏ ra có bộ óc rất sâu sắc, nhìn xa trông rộng, phản ứng nhạy bén, chẳng khác gì như một kỳ thủ có thể đi trước mười nước cờ, vì vậy ông mới được triều đình đại Tần trọng dụng. Ông thận trọng nhắc nhở nhà vua:
- Năm xưa Thái Trạch chỉ khua môi múa mép một thôi một hồi là đoạt được cái chức thừa tướng của Phạm Thư, và được tiên vương liệt vào hàng ái khanh. Nhưng chỉ làm việc được ba tháng thì trong triều đã nổi lên biết bao điều chỉ trích, nên phải cáo bệnh xin lui. Ông ta tiến rất nhanh mà rút cũng rất đột ngột. Hành động của ông ta thật bí hiểm, tâm địa ông ta thật khó lường, thần không thể biết được con người này lòng dạ nông sâu thế nào. Trong khi đó thì bệ hạ lại khoan dung nhân hậu như thế! Xin đại vương suy xét cho thật kỹ!
Lời nói của Lã Bất Vi không khỏi có chút dựng chuyện hoang đường, thổi phồng sự việc, vì vậy, đã làm cho Hiếu Văn Vương phải gạch bỏ hai người kia và chuyển sang Lã Bất Vi:
- Theo ý khanh, Trẫm cũng không cố chấp nữa; nhưng phải sớm tìm được người thích hợp, để giúp Trẫm xử lý công việc.
Lã Bất Vi biết rõ Hiếu Văn Vương rất sốt ruột, nhưng vẫn tránh câu trả lời thẳng, chỉ nói:
- Nếu nhân tài thích hợp mà gọi một tiếng đến ngay, thì ngay bây giờ thần chưa thể nghĩ ra, xin cho phép thần xem xét thêm.
Câu nói này của Lã Bất Vi nhằm để lót sẵn viên gạch cho con đường tiến thân của mình, chứ không vội vàng nhìn thấy mồi là vồ vào ngay.
Khi ra khỏi nội cung, Lã Bất Vi tìm ngay Tử Sở, nói riêng câu chuyện giữa ông ta và nhà vua cho Tử Sở biết; rồi viết một văn bản nói rất tỉ mỉ kế mưu của mình, xong nhờ Tử Sở đưa cho hoàng hậu Hoa Dương. Sau khi xem xong, hoàng hậu rất mừng vì Lã Bất Vi đã biết được Hiếu Văn Vương đã có suy nghĩ về việc chọn người làm thừa tướng. Vì vậy mới có kế mưu tuyệt vời này.
Nếu không, “bộ ba” này sẽ bị rớt lại đàng sau, thậm chí còn bị hất cẳng xuống vực sâu không biết chừng! Bà đã suy nghĩ kỹ và lén đốt bức thư viết trên lụa (kế mưu) của Lã Bất Vi để khỏi bị lộ. Sau đó, bà đến các phòng để xem xét tình hình các cung phi. Đặc biệt, bà đến phòng của Hạ Cơ, ngồi ở đó một lúc; nói cho Hạ Cơ biết tình hình gần đây của Hiếu Văn Vương, mãi đến gần tối mới về phòng mình. Hiếu Văn Vương vẫn chưa có quyết đoán gì, cho nên, sau khi cơm tối xong, ngài chủ động cho gọi hoàng hậu Hoa Dương và thái tử Tử Sở đến, nói cho hai người này biết câu chuyện chưa đến đầu đến đũa của ngài với Lã Bất Vi. Hoàng hậu trách ngài:
- Sao việc nhân sự trọng đại thế mà đại vương không bàn trước với thần thiếp?
Hiếu Văn Vương nói:
- Các người không hiểu hết các đại thần, nên trẫm thấy không cần bàn.
Tử Sở nói:
- Mẹ con nhi thần không thể suy nghĩ thay cho phụ vương, nhưng cũng có thể nêu một số ý kiến để phụ vương xem xét thêm.
Hiếu Văn Vương gật đầu cười và nói:
- Vậy thì bây giờ Trẫm có thể nghe các người nói đây.
Lúc này hoàng hậu mới nói:
- Thần thiếp cho rằng Lã Bất Vi nói đúng, Đỗ Thương và Thái Trạch không thể lại được giữ chức thừa tướng, vì không còn thích hợp nữa. Các đại thần khác, thần thiếp không hiểu lắm, nên không dám có ý kiến; nhưng tại sao đại vương không xem xét Lã Bất Vi?
Hiếu Văn Vương nói:
- Trẫm cũng có nghĩ tới, nhưng ngại rằng ông ta là một thương gia, chưa từng tham dự công việc triều chính, lại chưa bao giờ tham gia vào những việc đại sự của nhà nước, như thế thì có giữ được trọng trách một thừa tướng hay không? Huống chi ông ta đến nước Tần chúng ta còn ngắn ngày quá...
Tử Sở vội phản đối, Thái tử nói:
- Lã Bất Vi đã giúp nhi thần, đã làm một việc rất lớn là giúp hoàng hậu nhận con làm thừa tự, chính ông ta cũng là người đã xông vào hiểm nguy để cứu nhi thần từ cõi chết trở về. Đó chẳng phải là đại sự của nước Tần hay sao? Còn nói về thời gian dài hay ngắn, thì Thái Trạch đến Hàm Dương, chỉ bảy ngày được phong làm khách khanh, một tháng sau được đưa lên chức thừa tướng. Có ai có thời gian ngắn hơn thế nữa không?
Đến đây, Hiếu Văn Vương đã bị hai mẹ con hoàn toàn thuyết phục. Tiếp đó, hoàng hậu lại nêu lên mối quan hệ thân thiết giữa Lã Bất Vi và hai mẹ con bà để nhấn mạnh rằng Lã Bất Vi đã dốc hết tài sản và đưa cả nhà đến đây để cầu vinh, như vậy, ông ta chỉ còn một đường duy nhất là trung thành với chúng ta; vì thế, đó là phụ tá đáng tin cậy nhất của nhà vua. Cái chức thừa tướng không về tay ông ta thì còn ai nữa? Nghe vậy, Hiếu Văn Vương bèn quyết định phong Lã Bất Vi làm thừa tướng; tuy nhiên, vẫn lo ngại rằng trong số các lão thần sẽ có người không phục. Hoàng hậu liền đề nghị, mấy hôm nữa là Tết ngày rằm tháng Giêng, nhân dịp này nên mời các đại thần cùng chung vui, rồi nhân tiện thăm dò ý kiến của họ. Nhà vua và thái tử đều tán thành. Cuộc nói chuyện giữa ba người đã đưa đến kết quả đúng như sự gợi ý và dự kiến của Lã Bất Vi.
Đêm hôm rằm tháng Giêng, trong khuôn viên cung đình, đâu đâu cũng treo đèn kết hoa, người dự hội đi lại như mắc cửi. Các hoàng thân quốc thích, các công chúa công tử, các văn võ đại thần, vừa thủng thẳng bách bộ, vừa xem hoa ngắm đèn, vừa chuyện trò to nhỏ. Họ cầu phúc cho năm mới, và cũng không quên bàn chuyện chính sự triều đình. Có người nêu lên câu hỏi rằng, nhà vua mới vừa mãn lễ tang bảy tuần chay tiên vương đã lên ngai thiết triều, nhưng ghế thừa tướng vẫn bỏ trống, chẳng biết vị quan văn nào có may mắn được giao trọng trách đó? Thế là mọi người nhao nhao lên, đoán già đoán non, người này người nọ, rất rôm rả. Vừa lúc ấy, nhà vua và hoàng hậu đi qua, nghe họ bàn tán vậy, bèn thừa dịp hỏi dò suy nghĩ của họ. Tất nhiên là khi đứng trước mặt nhà vua thì mọi người không dám nói, cứ ấp a ấp úng, chẳng ai chịu nói rõ ý kiến của mình. Rốt cuộc phải đến lượt hoàng hậu Hoa Dương đứng ra góp chuyện. Bà nói:
- Để giúp vui, ta cùng nhau chơi trò “phù loan” [i] một lúc.
Nghe vậy, mọi người vui vẻ hẳn lên. Thế là nhà vua hoàng hậu, Tử Sở... đi trước, các đại thần ùn ùn chen bước theo sau, cùng đến chỗ “đình ngắm mây” (át vân đình), ngồi thành vòng tròn. Một người bảo thị vệ nội cung gọi thầy cúng cô đồng đến. Một lát sau, một thầy cúng và hai cô đồng khiêng một khung gỗ lớn đựng đầy cát (sa bàn) đến đặt vào chính giữa. Sau khi thắp hương, đèn, thầy cúng đứng ở phía đầu, tay trái giơ cao làm động tác cầu khấn thần linh, tay phải đặt lên ngực, mồm lầm rầm tụng niệm nhỏ to. Hai cô đồng đưa tay làm cho mặt cát rất phẳng phiu, không để một chỗ nào lồi lõm không đều. Sau đó, mỗi người cầm một đầu của một thanh gỗ dài, ở giữa thanh gỗ đó lại có lắp một thanh gỗ nhỏ hơn, được lắp thẳng đứng tại điểm giữa của thanh gỗ ngang đó, mũi nhọn của thanh gỗ vừa chạm vào mặt cát, hơi ngập một chút xuống cát.
Sau khi mọi việc đã xong xuôi, thầy cúng đứng ở phía trên bèn nhắm mắt lại, hỏi mọi người:
- Thiên sư đã giá lâm, các người có việc gì cứ hỏi!
Chưa ai kịp mở mồm, thì thái tử Tử Sở đã nhanh nhẩu hỏi:
- Phụ vương đã lên ngồi ở ngai vàng, nhưng thừa tướng vẫn còn khuyết. Dám hỏi ai là người xứng đáng, xin thánh nhân phán truyền!
Bỗng thầy mo ngẩng đầu lên trời, lẩm bẩm điều gì đó, rồi dõng dạc tuyên bố:
- Thiên sư đã có lời phán truyền, xin hãy nhìn kỹ vào sa bàn.
Mọi con mắt đều đổ dồn vào mặt cát phẳng lặng. Bỗng thấy cái đầu nhọn của thanh gỗ thẳng đứng kia bắt đầu chuyển động. Nó tự động vẽ ngang rồi vẽ dọc, sang trái rồi sang phải, từng chữ từng chữ cứ lần lượt hiện ra trước mắt mọi người:
Ngày rằm cúng “phù loan”, thánh nhân đã lo toan.
Hai khẩu mở to mồm, ngậm lại là “tiêu” luôn.
Chữ Hàn còn một nửa; thừa tướng của nhà Tần [ii].
Khi thanh gỗ ngừng chuyển động, thầy cúng nói to:
- Phán truyền đã xong, thần xin bái biệt!
Mọi người có mặt đều nhìn rõ mấy cây được viết rõ trên mặt cát và đều hiểu nội dung của nó: Lã Bất Vi làm thừa tướng phò tá vua Tần. Bỗng chốc có tiếng nói nhao lên từ mọi phía. Người thì tỏ ra rất kinh ngạc, người thì rất vui mừng và hoan hô, người thì thở dài thất vọng. Bỗng có người nói:
- Thánh nhân ở trên trời mà linh thiêng như vậy. Thật tuyệt vời!
Nhưng cũng có người lắc đầu bĩu môi:
- Ý trời hay là ý người?
Nhưng dù cho mọi người nói ngược nói xuôi thế nào, thì nhà vua, hoàng hậu và thái tử đã tin chắc vào lời phán truyền, tức là Lã Bất Vi phải là người thích hợp nhất để làm thừa tướng. Lã Bất Vi tỏ ra rất bất ngờ, tuy được trọng vọng nhưng không khỏi lo âu. Mới đầu, ông xua tay không dám nhận. Nhưng cuối cùng, ông nói:
- Đã là ý trời thì xin tuân lệnh nhà vua. Vi thần xin đem hết tài hèn sức mọn để phò tá đại vương, kế thừa cơ nghiệp đại Tần.
Như vậy, Lã Bất Vi được nhà vua Hiếu Văn Vương phong làm thừa tướng vào năm đầu tiên niên hiệu Hiếu Văn Vương (năm 250 trước Công nguyên). Lúc ấy là đầu năm, lúc mà Hiếu Văn Vương đang trong thời kỳ để tang vua cha, chưa làm lễ lên ngôi, thừa tướng cũng chưa được chính thức bổ nhiệm. Cũng may là hồi đó, các chư hầu đều đang ra sức khôi phục nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh liên miên, khôi phục sức mạnh của đất nước. Vì vậy, nước Tần đang chịu tang cũng được nghỉ ngơi một thời gian. Hiếu Văn Vương nhân lúc quan hệ ngoại giao tương đối hòa dịu, gửi thư cho vua Triệu là Hiếu Thành Vương, yêu cầu cho đưa vợ con thái tử Tử Sở về Tần.
Khi Tử Sở vượt ngục ở ngoại thành Hàm Đan để chạy về Tần tám năm trước, vua Triệu hết sức tức giận, lúc đó ngài đã xử tử ngay Công Tôn Càn. Nhưng viên quan gác cổng thành ăn hối lộ của Lã Bất Vi thì vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Bởi vì, Lã Bất Vi có giấy thông hành của triều đình nhà Triệu cấp phát; quan canh cổng đã xem giấy hẳn hoi rồi mới cho Lã Bất Vi đi; nên được miễn truy cứu. Sau đó, nhà cầm quyền bắt đầu cuộc truy lùng để bắt mẹ con Triệu Cơ. Lúc bấy giờ, sau khi (thái tử Đan) lừa được Công Tôn Càn, cứu được Tử Sở trốn thoát, còn lại mẹ con Triệu Cơ đang đau khổ vì phải xa cách Tử Sở, thái tử Đan buộc phải cho xe đưa mẹ con Triệu Cơ đến nhà ông chú của Triệu Cơ để trốn tránh. Làm như vậy là để tránh những phiền phức sau này. Ông chú họ Triệu thấy tình hình như vậy đoán biết thế nào cũng có chuyện, bèn vội vàng cho hai mẹ con Triệu Cơ thay quần áo, ăn mặc khác hẳn đi. Xong rồi, bảo Triệu Cơ xuống bếp đốt lửa nấu nướng; còn Triệu Chính (con trai Triệu Cơ, tạm lấy họ mẹ) thì cho ra vườn sau trà trộn với các cháu của ông. Quả nhiên, chiều hôm sau, một viên tướng đưa theo một toán lính xông vào nhà ông chú. Ông vội ra đón tiếp, ông nói:
- Chẳng hay tướng quân giá lâm tệ xá có gì sai bảo?
- Ông là chú vợ của tên Doanh Dị Nhân có phải không? - Viên tướng kia hỏi, hùng hùng hổ hổ.
- Đúng là tiểu thương này đấy ạ. Nhưng anh ấy đã được nhận làm con trưởng kế vị thái tử, đã vênh mặt tự đắc, chẳng thèm dòm ngó đến kẻ tiểu nhân này nữa. - ông chú họ Triệu cười ranh mãnh.
Viên tướng cố nhiên là không tin, nghiêm sắc mặt hỏi tiếp:
- Trước kia thì quả có thế. Nhưng từ khi hai nước đánh nhau hắn đã trở thành tử tù, và tối qua đã vượt ngục chạy trốn rồi!
Nghe cách nói của viên tướng, ông chú biết rằng Doanh Dị Nhân đã thoát nạn một cách an toàn. Ông mừng lắm. Nhưng vẫn giả vờ như chẳng hay biết gì, bèn hỏi lại:
- Vượt ngục chạy trốn rồi ư? Chắc là chưa chạy được xa nên các ngài đã đuổi kịp và bắt về rồi chứ?
- Bắt được hắn ta rồi ư? Nếu vậy thì ta chẳng phải tìm đến đây - Viên tướng nổi nóng.
- Con tin đã chạy khỏi Hàm Đan, sao lại có thể đến tệ xá này được. Nếu đến đây thì hóa ra chui đầu vào cạm bẫy để ngồi chờ chết hay sao? - ông chú đáp lại, rất bình tĩnh.
- Ta lại chẳng biết thế hay sao. Ta đến đây là để bắt vợ con nó đền tội. - Viên tướng nói xong, toan xông vào nhà.
Ông chú cười, nói:
- Mẹ con Triệu Cơ ở trong phủ, làm gì có ở đây.
Viên tướng điên tiết chửi mắng:
- Ông hết sức xảo quyệt, nhất định là muốn lừa bịp ta. Ta phải lục soát ngay.
- Tướng quân lục soát thì tiểu thương này không dám trái lời. - Nói xong, ông vội tránh sang một bên và nói tiếp - Xin mời tướng quân!
Viên tướng lập tức vẫy tay ra lệnh cho binh sĩ:
- Theo ta lục soát tất cả mọi nơi!
Ngay lập tức toán lính nhanh chân theo chỉ huy của chúng đi vào nhà trong, nhà ngoài, xục xạo khắp nơi, gặp ai cũng hỏi dồn hỏi dập, nhất là các cô, các bà nhưng đều vô hiệu. Cuối cùng chúng đột nhập vào nhà bếp, thấy Triệu Cơ. Chúng hỏi:
- Ngươi là ai?
- Dạ thưa, tôi là đầy tớ nấu ăn ạ! - Triệu Cơ quay mặt lại phía bọn lính và trả lời. Mặt cô bị nhọ nồi dính đầy, lem luốc, đến nỗi trông không rõ con mắt nữa.
Viên tướng thấy người con gái này có vẻ lạ, bèn muốn nhìn cho kỹ, nên nghi nghi hoặc hoặc. Ông ta hỏi:
- Tại sao lại bôi nhem nhuốc thế kia?
Trong lúc gấp gáp, Triệu Cơ lấy que gạt than chọc mạnh vào bếp lò, lập tức khói than bùng lên, bốc cao và tỏa ra khắp buồng bếp. Viên tướng bị khói hun cho cay xè hai mắt, sặc ho liên tục, bèn xua tay, bảo:
- Thôi đi. Thôi đi. Hãy dập ngay lại cho ta! - Nói xong bèn quay gót đi ra.
Vừa lúc ấy, Triệu Chính, con Triệu Cơ, vừa lên ba, chạy vụt vào nhà bếp, đụng vào người viên tướng. Viên tướng tức giận túm lấy đứa bé, hỏi:
- Thằng ranh con này, mày chạy đi đâu?
Triệu Chính tỏ ra không chịu, trả lời rằng:
- Cháu chẳng chạy đi đâu cả. Cháu đi tìm mẹ cháu!
- Tìm mẹ mày hả? - Viên tướng hỏi tiếp.
Triệu Chính chỉ tay vào Triệu Cơ rồi nhe răng cười:
- Kìa! Bà nấu bếp kia kìa!
Viên tướng lại quay lại nhìn Triệu Cơ. Lúc này khói vẫn còn bốc lên, tỏa ra. Ông ta vẫn rất ngại đi vào bếp, bèn khẽ nói với em bé:
- Đi đi Đi đi!
Triệu Chính dụi mắt và chạy đến bên mẹ.
- Đứng lại. Đi lại đây! - Viên tướng bỗng gọi giật giọng.
Khi Triệu Chính đến trước mặt, viên tướng túm lấy cổ áo em, hỏi gấp:
- Thằng nhãi ranh này, mày tên gì?
- Tôi không phải là nhãi ranh đâu. Tôi đường đường chính chính là chính gốc của hoàng gia đây! - Triệu Chính trả lời rất tự nhiên.
- Đường đường chính chính cái gì? - Viên tướng hí hửng hỏi tiếp - Mày nói chính gốc hoàng gia nào?
- Tôi họ Triệu, tên là Chính, chẳng lẽ không phải chính gốc hoàng gia nhà Triệu là gì? - Triệu Chính trả lời, giọng rất cứng cỏi.
Viên tướng đang bán tín bán nghi thì ông chú đi tới. Thấy tình hình có vẻ căng, ông bèn nhanh trí mắng Triệu Chính:
- Cháu về với mẹ ở bếp đi, chớ gây trở ngại cho công việc của ngài đây!
Viên tướng đành buông tay cho em bé đi, rồi quay lại hỏi ông chú:
- Thằng bé này thật là...
Ông chú vội nói:
- Nó là Triệu Chính, cháu họ của tôi. Cha cháu mất sớm, cháu theo mẹ đến đây. Mẹ cháu giúp việc nhà bếp.
- À, thằng bé nó nói hoàng gia cái gì nhỉ? - Viên tướng muốn hỏi cho ra nhẽ.
- Đại vương nước ta chẳng phải họ Triệu là gì. Thằng bé này lại hay hiếu thắng, thích làm bộ làm tịch, hay nói khoe khoang, xin tướng quân bỏ quá đi cho. - ông chú nói qua quýt cho xong chuyện, rồi quay sang mẹ con Triệu Cơ - Này, mẹ con cô mau ra xin lỗi ngài đây, thằng bé ăn với nói, chỉ toàn hỗn!
- Xin vâng ạ. - Triệu Cơ bỏ que gạt than xuống, lôi Triệu Chính xềnh xệch đi đến trước mặt viên tướng, dáng bộ sợ sệt. Nàng cúi gắm mặt xuống, mắt lấm la lấm lét, chẳng nói chẳng rằng.
Viên tướng thấy Triệu Cơ vừa sợ vừa bẩn thỉu, trông đáng ghét, nên vội xua tay:
- Thôi, thôi! - Vừa nói vừa định quay đi, nhưng còn nghiêm sắc mặt bảo ông chú - Hôm nay ta không tìm thấy. Mấy hôm nữa mẹ con nhà nó đến đây, ông phải đến bẩm báo. Nếu cứ giấu giếm, sẽ bị trị tội như phạm nhân chạy trốn!
- Nếu mẹ con nó đến, tôi nhất định bắt nộp quan phủ. Không phiền tướng quân phải vất vả đến đây! - ông chú nói luôn mồm, vừa nói vừa tiễn chân toán lính đi ra cửa, thầm mong bọn chúng cút đi cho mau.
Sau vụ lục soát này, mặc dù Triệu Cơ may mắn thoát nạn, nhưng ông chú không dám để mẹ con Triệu Cơ ở lại nhà mình lâu hơn. Lúc ấy, nhóm ca kỹ ở nhà hát Lưu Xuân Viện phải giải nghệ vì chiến tranh, mỗi người tự kiếm sống. Người thì may vá quần áo hoặc giặt thuê. Cũng có người đi hát rong khắp nơi. Vì vậy mẹ con Triệu Cơ cũng sinh sống bằng cách đó, cũng làm thuê hoặc dạy hát. Hai mẹ con sống như vậy trong sáu năm, trong sự che chở của bà con, xóm giềng và bạn bè. Vua Triệu Hiếu Thành Vương nhiều lần sai người đi lùng sục, nhưng đều không thấy tăm hơi ở đâu. Trong khi đó, thái tử Đan (nước Yên, đến làm con tin ở Hàm Đan) và thừa tướng Bình Nguyên Quân cũng nhiều lần tâu với nhà vua rằng, chồng của Triệu Cơ là Doanh Dị Nhân, nay đã trốn về nước Tần rồi, chắc chắn là lấy vợ khác rồi, nước Triệu cứ lùng bắt mẹ con Triệu Cơ, chỉ uổng công vô ích. Vua Triệu nghe vậy, bèn thôi không sai người tìm kiếm nữa. Đó cũng là nguyên nhân khiến mẹ con Triệu Cơ may mắn sống sót. Cũng vì vậy, hai mẹ con hết sức biết ơn thái tử Đan đã hết lòng cứu giúp.
Nay quan hệ hai nước Tần, Triệu đã hòa dịu. Vua Tần Hiếu Văn Vương lại viết thư khẩn thiết yêu cầu vua Triệu cho mẹ con Triệu Cơ về Tần. Vua Triệu Hiếu Thành Vương cũng nhân dịp thuận tiện này làm một cái gì đó để quan hệ hai nước càng tốt hơn. Ngài bèn sai người đến báo cho ông chú Triệu Cơ biết rằng nếu tìm được mẹ con nàng, nhà vua sẽ cấp cho giấy thông hành và cho xe đưa về Tần. Sau đó ít lâu, mẹ con Triệu Cơ lên đường về Tần. Lúc ra đi, hai mẹ con cứ bịn rịn quyến luyến mãi trước mặt cả nhà ông chú cũng như hàng xóm láng giềng và các bạn bè đã cưu mang giúp đỡ mình trong bao năm qua. Riêng Triệu Chính thì còn thêm một tâm trạng khác, cậu rất ghét những người đã khinh bỉ và lừa dối cậu.
Trên đường về Tần, Triệu Cơ vừa vui mừng vừa lo. Vui vì phải gian nan vất vả lắm mới chấm dứt được cuộc sống chui lủi giống như một tên tội phạm để trở về đoàn tụ với người thân của mình. Nhưng lo vì xa cách đã sáu năm, công tử còn nhớ đến mẹ con mình hay không? Hay là đã sớm có nguồn vui khác, đã sớm ôm cây tỳ bà khác rồi?... Nỗi lòng băn khoăn trăn trở ấy cứ đeo đẳng mãi Triệu Cơ trong ngót mười ngày rong ruổi, cho đến khi đặt chân đến Hàm Dương.
Trong hoàng cung từ lâu đã biết tin Triệu Cơ trở về. Lã Bất Vi đi cùng thái tử Tử Sở đến cổng hậu cung để đón mẹ con Triệu Cơ. Sau đó, hai người đến chào nhà vua và hoàng hậu Hoa Dương; chào Hạ Cơ và các phi thiếp khác.
Khi gặp các phi thiếp của thái tử, Triệu Cơ thấy quả đúng như mình đã dự đoán. Tử Sở đã sớm lấy nàng Tề Cơ và một số thê thiếp khác, đã sinh ra hai công tử Thành Kiều, Hòa Khánh và mấy cô công chúa nữa. Điều này làm cho Triệu Cơ rất buồn. Nàng lo nhất là một khi tình cảm thay đổi, địa vị của mình cũng rất dễ lung lay. Nghĩ vậy, nàng bèn khóc lóc trước mặt hoàng hậu và thổ lộ hết tâm tư của mình. Hoàng hậu giải thích rằng, việc lấy thê thiếp cho thái tử là cốt để làm vơi bớt nỗi cô tịch của chàng; đó chỉ là kế sách nhất thời. Công việc trong đông cung vẫn do nàng chủ trì. Và ngay lúc ấy, bà yêu cầu thái tử Tử Sở sớm quy định và công bố danh phận chính thức của Triệu Cơ.
Ba hôm sau, vừa đúng ngày lành tháng tốt, lễ chính thức sắc phong Triệu Cơ làm chánh phi của thái tử Tử Sở và chủ trì nội chính đông cung được tổ chức tại thái miếu nhà Tần. Buổi lễ do đích thân nhà vua Hiếu Văn Vương và hoàng hậu Hoa Dương chủ trì. Trong buổi lễ này, cũng tuyên bố đổi họ của con Triệu Cơ, bỏ họ Triệu, lấy họ Doanh - họ tộc vua Tần - tức là Doanh Chính; không gọi Triệu Chính nữa. Lúc ấy Doanh Chính mười tuổi. Cậu cảm thấy hết sức tự mãn và kiêu ngạo, vì mới ngày nào còn sống như tù nhân ở nước Triệu, nay đường hoàng là công tử hoàng gia nước Tần, mau lẹ đổi nhục thành vinh. không gì vui sướng cho bằng. Nhất là khi cậu ta ngước mắt lên thấy “linh đường” thờ cụ tổ tiên vương Tần Chiêu Vương rất linh thiêng và oai vệ; lại thấy ông nội Hiếu Văn Vương tuy tầm thường yếu nhược nhưng là đại vương nên được quần thần tôn kính và phục tùng. Lúc ấy, trong tâm trí non nớt của cậu, nảy sinh một ý nghĩ cho rằng quyền vua cao hơn hết thảy. Và điều này trở thành mềm tin và chuẩn tắc không bao giờ thay đổi suốt đời cậu.
Lã Bất Vi thấy Triệu Cơ và Doanh Chính trở về bình an, cố nhiên là vui mừng khôn xiết. Mỗi lần vào cung bẩm tấu nhà vua và hoàng hậu, ông đều thăm hỏi Triệu Cơ và hết sức quan tâm tới việc ăn học của Doanh Chính. Có cái gì bí ẩn trong này, đương nhiên chỉ có hai người thầm biết mà chẳng nói ra mà thôi. Để có thể thường xuyên gặp nhau và bồi dưỡng tình cảm của con đối với “cha”, Triệu Cơ luôn luôn nói cho con nhớ lại công ơn sâu nặng của Lã Bất Vi đã từng hết lòng giúp đỡ cha là thái tử Tử Sở; đã rất vô tư xe mối tơ duyên cho cha mẹ; đã không từ gian nan nguy hiểm cứu con thoát ngục rồi trở về làm con trưởng thừa tự... Do vậy, Doanh Chính ngày càng có tình cảm và tôn kính Lã Bất Vi; và tiếp nhận sự dạy dỗ của Lã Bất Vi như chính cha mình. Doanh Chính chăm chỉ đọc sách, học tập, quyết chí mở mang cơ nghiệp nhà Tần.
Thời gian trôi nhanh, tâm trạng bi thương do cái chết của vua Tần Chiêu Vương cũng phai nhạt dần rồi lui vào quên lãng. Vua mới Hiếu Văn Vương cảm thấy rất phấn khởi và nóng lòng trước việc sắp tự mình lâm triều, làm chủ thiên hạ. Đặc biệt, hai mẹ con Triệu Cơ trở về bình an vô sự, làm cho ngài cảm thấy vua Triệu còn có sự tôn trọng nhất định đối với việc bản thân mình lên kế vị ngôi vua đại Tần. Nghĩ vậy, ngài càng thêm tự tin hơn, quyết chí nối nghiệp vua cha, làm thật tốt nội trị trong nước và giành thắng lợi quân sự ở bên ngoài. Với niềm tin đó, ngài luôn luôn tự mình xử lý mọi việc, từ việc công cho đến việc tư, nhằm đạt được kết quả mỹ mãn nhất, để đến ngày tế tổ lên ngôi, tỏ ra xứng đáng với liệt tổ liệt tông, nhất là với vua cha vừa mới mất. Tuy nhiên, lực bất tòng tâm, ngài đau yếu luôn, sức khỏe rất kém. Ngài hay váng đầu hoa mắt, tim đập mạnh, thở khó và gấp, mồ hôi trộm đầm đìa. Mặc dù ngự y rất cao thủ, bốc thuốc thần dược, thuốc đại bổ chẳng thiếu gì, nhưng bệnh tình chẳng hề thuyên giảm. Nhưng ngài vẫn kiên tâm gánh vác công việc. Vì cái ngai vàng chí tôn này, ngài mong muốn và chờ đợi đã lâu, đã quá lâu rồi.
Rốt cuộc thì ngày đó đã đến. Tháng Mười năm thứ nhất Hiếu Văn Vương, thời gian để tang một năm đã mãn. Đại lễ chính thức lên ngôi của vua Hiếu Văn được cử hành vào ngày Kỷ Hợi với nghi thức long trọng nhất, náo nhiệt nhất; hoàng gia không thiếu một ai, quần thần không vắng một vị, đại tiệc suốt ngày, ca vũ thâu đêm. Hiếu Văn Vương không giấu nổi niềm vui tràn ngập trong lòng. Ngài liên tục đón nhận chúc rượu của hoàng hậu, thái tử, và đều cạn chén cả. Ngài còn chủ động tìm đến Hạ Cơ chúc rượu, nói mấy câu rằng trước dây ngài quá thiên lệch, mong bà thông cảm cho. Hạ Cơ xúc động rơi nước mắt nhưng vẫn tỉnh táo chúc mừng nhà vua hiển vinh đăng quang, phúc thọ lâu bền. Hiếu Văn Vương lại đến chỗ trung tâm của cung đình, các đại thần thấy nhà vua liền tung hô và bái lạy. Cuối cùng ngài đi về cung của mình, bám gót theo sau ngài là một đoàn thành viên hoàng gia.
Không ngờ, sau khi ngài nằm xuống nghỉ ngơi chưa được bao lâu, thì nghe thấy tiếng kêu thét của hoàng hậu Hoa Dương:
- Bay đâu, đến ngay!
Mọi người chen nhau đi vào phòng ngủ của ngài, chỉ thấy Hiếu Văn Vương nằm cứng đờ trên giường, hai mắt trợn ngược, cánh mũi phập phồng, tim đập rất yếu, hơi thở sắp tàn. Ngự y vội đến bắt mạch, chẩn đoán. Loay hoay một lúc, bèn nói rằng đại vương thể chất vốn đã suy nhược, nay bỗng quá vui, khí huyết không thông, tim không trụ nổi. Mặc dù đã hết sức cấp cứu bằng thuốc uống, châm cứu, cúng thần, phù chú, nhưng không thể cứu sống được. Rốt cuộc, vị “tân vương” nằm mê man bất tỉnh trong ba hôm rồi mất. Đó là ngày Tân Sửu tháng Mười năm thứ nhất Hiếu Văn Vương. Cũng có nghĩa, ngài chỉ ở ngôi ba ngày, mà là ba ngày bất tỉnh. Có thể đó là vị quân vương làm vua ít ngày nhất trong lịch sử cổ kim. Hơn nữa, ngài làm vua nhưng không hề để lại một chữ di chiếu. Đó cũng lại là chưa từng có.
Nước Tần lại chìm ngập trong đau thương của quốc tang. Để ngăn ngừa rối loạn, ơn định nhân tâm, thái tử Tử Sở được lập tức đưa lên ngôi, niên hiệu Trang Tương Vương.
Trang Tương Vương tôn mẹ nuôi, hoàng hậu Hoa Dương làm thái hậu Hoa Dương, tôn mẹ đẻ Hạ Cơ làm thái hậu Hạ Cơ; phong Lã Bất Vi làm thừa tướng, ban cho ông tước vị Văn Tín Hầu, hưởng ấp mười vạn hộ.
Trang Tương Vương tiếp tục thực hiện những kế sách và chủ trương lớn mà Hiếu Văn Vương vốn đã có ý định thi hành. Đó là đại xá tội phạm; biên soạn sử sách nói về công lao và thành tích của tiên vương và các công thần; ban thưởng lộc hậu cho hoàng thân quốc thích; nới lỏng việc xây dựng hoa viên (vườn hoa) và săn bắn. Những chủ trương ấy có tác dụng tích cực nhất định đối với việc xóa bỏ sự ngăn cách giữa các nhánh trong hoàng tộc, vỗ về được các lão thần, ngăn chặn được các đầu mối gây họa và ổn định trật tự xã hội.
Tuy nhiên, chỉ trong một năm mà hai nhà vua theo nhau ra đi, có ảnh hưởng rất xấu với nhà Tần. Nào là việc triều chính không có nề nếp vì đang thời kỳ lễ tang; nào là tranh giành nhau ngôi thái tử đông cung; nào là đố kỵ ghen ghét nhau giữa chánh phi, thứ phi...; nào là các văn võ đại thần tự tâng bốc mình để được trọng thưởng trọng dụng. Biết bao nhiêu chuyện phiền toái cứ làm cho đầu óc Trang Tương Vương Tử Sở và tân thừa tướng Lã Bất Vi rối tung rối mù. Mà nguy cơ lớn nhất lại là hoạ ngoại xâm từ khắp bốn phương ập đến. Đó là, năm năm trước, Tần Chiêu Vương sai tướng Doanh Liêu đánh một trận tiêu diệt nhà Tây Chu; lại còn lấy của họ chín chiếc đỉnh lớn, tượng trưng cho quyền lực quốc gia, đưa về nước Tần. Hơn nữa, đã giáng cấp Noãn Vương của Tây Chu, chỉ được gọi bằng quân, không được gọi bằng vương, tức là Tây Chu Quân. Giáng cấp Đông Chu Công xuống Đông Chu Quân (Đông Chu Công vốn là hậu duệ của một nhánh của Vũ Vương, đóng đô ở huyện Củng). Lúc bấy giờ, Đông Chu Công không chấp nhận việc giáng cấp đó và định kháng nghị; nhưng vì thân cô thế cô, nên không dám lên tiếng; đành ngậm đắng nuốt cay, chờ thời cơ hành động, theo gương Việt Vương Câu Tiễn nếm mật nằm gai vậy.
Nay thấy nước Tần liên tiếp quốc tang trong một năm, chắc chắn nội bộ sẽ phát sinh lắm chuyện rắc rối, bèn cho rằng đây là thời cơ tốt nhất để diệt Tần trả thù. Tiếp đó, Đông Chu sai sứ gấp rút đến các nước chư hầu, bày tỏ rằng Đông Chu sẵn sàng giữ trọng trách của nước đứng đầu liên minh “hợp tung” (trưởng hợp tung), cùng nhau hợp lực trừng phạt nhà Tần. Trong khi đó, các nước đều bị Tần xâm lược và ức hiếp rất tàn bạo trong nhiều năm. Nhiều nước phải cắt đất nhượng thành trì cho Tần; hoặc hao binh tổn tướng, đất nước tan hoang vì quân Tần. Vì vậy, nước nào cũng dồn nén căm thù lâu ngày, chỉ chờ có dịp là ra tay. Nay Đông Chu lên tiếng, các nước hưởng ứng ngay. Nước Tần đang đứng trước rừng gươm biển giáo. Dông bão sắp nổi lên khắp nơi và chắc chắn sẽ ập đến nước Tần.
Vị vua mới của nước Tần Trang Tương Vương, sau bao nhiêu năm hạ mình làm con tin, nay mới kế vị bước lên ngôi báu, làm gì có cái khí phách và đảm lược bao quát thiên hạ, trừng mắt chư hầu. Những tin tức quân sự do kỵ binh hỏa tốc cấp báo, cứ dồn dập đưa về, làm cho nhà vua Trang Tương Vương vô cùng lúng túng. Ngài bèn vội gọi Lã Bất Vi vào nội cung để bàn bạc đối sách. Lã Bất Vi vừa mới đẩy cửa bước vào, đang sắp sửa cúi lạy bái chào. Nhưng Trang Tương Vương đã vội ngăn lại:
- Thừa tướng, miễn lễ. Mau lại bàn việc khẩn!
- Đại vương có việc gì mà kinh hoàng đến thế? - Lã Bất Vi vẫn chắp hai tay vái chào rồi mới tới gần nhà vua và hỏi với thái độ rất quan tâm, lo lắng.
Nhà vua vội đưa một tập văn thư cấp báo cho Lã Bất Vi chỉ tay vào đó và nói:
- Đông Chu Quân gây sự, các chư hầu hùa theo, xâm phạm đại Tần. Làm thế nào bây giờ?
Lã Bất Vi không chú ý đến tập văn thư, chỉ thản nhiên trả lời:
- Việc mà đại vương lo nghĩ, vi thần dã biết từ lâu. Những tin tức quân cơ cấp báo này đến đây vừa đúng lúc. Tốt quá!
- Ta đang sốt ruột vô cùng, ngươi lại nói rất tốt là nghĩa làm sao? - Nhà vua không hiểu ý Lã Bất Vi.
- Khổng Tử nói: Một nước không có nỗi lo bên trong, không có tai họa bên ngoài, thì luôn mất nước. - Lã Bất Vi trả lời rất ung dung, trịnh trọng. Ông nói tiếp - Nước ta trong một năm mất hai đức vua, vua mới vừa lên ngôi, thì triều đình tranh công, hoàng gia ghen tỵ; tù mong ân xá, dân lo quốc loạn. Mối lo bên trong nặng nề như vậy, đại vương làm sao kham nổi?
Nhà vua liên tục gật đầu và nói:
- Nay từ triều đình cho tới xã tắc đều không yên, rối ren lộn xộn như mớ bòng bong, rất khó tháo gỡ. Lại thêm sáu nước đưa binh mã hùng hổ đe dọa...
- Mối lo bên trong sở dĩ nảy sinh là do lòng người ăn ở thất đức, tham vọng riêng tư quá nhiều. Nhưng một khi có giặc đến xâm lăng ắt phải đồng tâm hiệp lực, chống trả cường địch. Lúc ấy, tham vọng riêng tư sẽ bị lên án nên khó lòng thực hiện. Vì vậy, vi thần cho rằng Đông Chu và chư hầu xâm nhập là việc tốt để khơi dậy lòng căm thù kẻ địch và khôi phục khí thế oai hùng của đại Tần ta.
Những lời hùng biện của Lã Bất Vi làm cho nhà vua rất khâm phục, nhưng ngài vẫn cảm thấy chưa thể nắm chắc phần thắng. Ngài hỏi:
- Như khanh vừa nói thì cứ ra quân chống dịch, nhưng hai tay làm sao địch nổi bốn tay?
- Có một đạo lý nói rằng: Muốn bắn người, trước hết phải bắn ngựa, muốn bắt giặc trước hết phải bắt tên cầm đầu. Chỉ cần đánh bại Đông Chu, sáu nước kia ắt sẽ tan đàn sẻ nghé.
Rõ ràng là Lã Bất Vi đã có suy nghĩ rất kỹ về chiến lược phòng ngự.
- Ta phê chuẩn những điều khanh tấu trình. Lập tức đưa mười vạn quân đánh chiếm Đông Chu. Nhưng ai sẽ thống lĩnh quân đội?- Trang Tương Vương hỏi ý kiến Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi trả lời:
- Thống lĩnh ba quân lần này không cần ai khác, để cho vi thần làm soái là xong.
Câu trả lời này làm cho nhà vua vui mừng bất ngờ, bèn nói:
- Thừa tướng là bậc đại tài trong việc buôn bán làm ăn và trong kinh bang tế thế. Điều này ta đã biết từ lâu và hết sức khâm phục. Nhưng việc đánh nhau nơi biên cương, xông pha nơi rừng gươm lửa đạn, ngươi làm sao có thể thống lãnh được một đạo quân dũng mãnh?
Lã Bất Vi vuốt râu mỉm cười. Ông nói rằng, cái căn bản của đạo lý tác chiến là sự thao lược và dùng gươm đao làm phương tiện. Trong lĩnh vực này, tất cả các tướng đều không phải là nhờ có võ công, mà là biết điều hành nơi màn trướng, ở lán chỉ huy, cách xa ngàn dặm mà có thể quyết định thắng lợi. Ngày xưa, Văn Vương, Chu Công, Khương Tử Nha... có ai không phải là nhà chính trị thông minh tài giỏi đâu. Chẳng phải Tôn Tẫn bị cắt chân, phải ngồi trên xe đẩy, nhưng vẫn đưa Bàng Quyên đến chỗ chết đó sao? Cái bàn tính của tiểu thương họ Lã này vừa có thể kiếm tiền, vừa có thể hoạch định việc trị nước yên dân. Còn nói về sức mạnh võ công và phất cờ chỉ huy quân đội, thì cũng có thể lấy mưu trí thắng dũng mãnh và giành được toàn thắng! Tuy nhiên, Trang Tương Vương vẫn cứ lo rằng ông ta chỉ “đánh giặc trên giấy”, nhỡ ra bị thất bại, thì không còn là chuyện vinh chuyện nhục của cá nhân ông ta nữa, mà là có liên quan đến an nguy của nước đại Tần. Làm một thừa tướng, ông ta không thể đưa vận mệnh của đất nước, của dân chúng ra làm trò đùa!
Nghe nhà vua nói vậy, Lã Bất Vi nổi nóng lên. Nhưng trước mặt đấng chí tôn, chẳng ai dám có hành vi gì bất kính, đành phải dịu giọng vui vẻ xin nhà vua cho tự tay viết bản quân lệnh, và lấy tính mạng của cả nhà để đảm bảo. Trang Tương Vương cuối cùng đã ra lệnh cho Lã Bất Vi đưa mười vạn quân đi đánh chiếm Đông Chu.
Tại buổi lễ trao binh phù (hổ phù) và ăn thề dưới cờ trận, Trang Tương Vương chủ trì, Lã Bất Vi đọc bản quân lệnh viết bằng máu. Trong trang phục quân sự, với tư thế của một tướng soái, Lã Bất Vi dõng dạc đọc (dịch ý):
Hai lần quốc tang, cả nước đau buồn.
Đông Chu gây sự, sáu nước hùa theo.
Đức vua ra lệnh, Bất Vi cầm quân
Thề diệt Đông Chu, quét sạch chư hầu.
Nếu không chiến thắng, sẽ chết không về.
Cả nhà chịu tội, chu diệt thẳng tay.
Nay đọc quân lệnh, muôn dân cùng hay.
Trời đất chứng giám, vua Tần oai nghiêm.
Trang Tương Vương tiếp nhận bản quân lệnh, chúc rượu Lã Bất Vi. Tiếp đó là trống trận nổi lên, cờ bay rợp trời. Lã Bất Vi đi dưới lá cờ soái đang phấp phới trên đầu, dẫn đầu mười vạn đại quân, rầm. rập tiến bước, đi ra chiến trường theo hướng Đông Chu.
Sở dĩ Lã Bất Vi phải cố sức xin cho được cầm quân ra trận, là vì ông biết rất rõ rằng quá trình thăng tiến của mình trời yên biển lặng quá, lên làm thừa tướng quá nhanh cho nên các lão thần nhà Tần không phục. Vì vậy, thà đem cái bản lĩnh mãnh hổ hùng long của mình ra thi thố để cho bọn họ biết tay, còn hơn là để cho những kẻ nhỏ mọn kia ghen ăn tức ở rồi cắn trộm mình lúc nào không biết. Và cái cách nhanh chóng nhất, có hiệu quả nhất là chiến thắng Đông Chu, lập nên công trạng hiển hách giống như Phạm Thư trước đây đã dùng mưu chiến thắng quân Triệu ở Trường Bình, sau đó, đánh diệt Tây Chu. Được vậy, không chỉ làm cho văn võ bá quan nước Tần phải kính nể mình mà cả sáu nước chư hầu cũng phải khiếp sợ. Kết quả sẽ là vị vua mới do ông ta bồi dưỡng đưa lên - Trang Tương Vương, và cái ghế thừa tướng của ông ta, sẽ có chỗ dựa lâu bền và vừng vàng như bàn thạch.
Về chiến lược quân sự, Lã Bất Vi chủ trương dốc toàn lực đánh Đông Chu, còn sáu nước chư hầu khác, chỉ dùng chiến tranh tâm lý và chính trị để tiêu diệt họ. Trước khi xuất quân đánh Đông Chu, ông sai các môn khách của mình đi sáu nước, trao cho quốc vương mỗi nước một bản thông điệp [iii]. Trong khi vua chúa các nước chư hầu đang chờ tín hiệu để đem quân hợp lực với Đông Chu đi đánh nước Tần, thì họ đọc được bản thông diệp viết trên vải của Tần như sau:
“Này, Đông Chu Quân kia! Nhà ngươi tuy là dòng dõi thiên tử, nhưng từ lâu chỉ còn là kẻ đứng đầu một tiểu quốc. Nay dám lợi dụng nước ta hai lần đại tang để đưa quân xâm phạm đại Tần ta. Nực cười thay, châu chấu đá voi, ngươi làm sao mà ngăn cản được chiến xa của ta lăn bánh. Ta đang cho đại quân đông tiến, chỉ mấy ngày nữa là cung đình nhà ngươi sẽ bị san bằng địa. Kẻ chư hầu nào dám liều mạng chạy trước ngựa các ngươi để “làm bia đỡ đạn”, đặng kiếm chút cơm thừa canh cặn của ngươi, ta sẽ đưa quân san bằng nước đó. Hãy nhớ, cung tên kiếm kích vô tình, khoảnh khắc biến các ngươi thành tro bụi. Nay truyền hịch răn dạy các ngươi, nên “tiên học lễ hậu dùng binh”. Nếu cứ nhắm mắt mê muội, thì nước mất, vua cũng không còn”.
Sau khi đọc bản thông điệp nói trên, các ngài quân chủ chư hầu khiếp sợ kinh hoàng, hồn bay phách lạc, rùng mình sởn gáy, tất cả quyết tâm và dũng khí đánh Tần vốn có trước đây nay bỗng tan biến đâu mất. Tất cả đều rụt cổ co vòi, chẳng ai dám ho he đến chuyện đánh Tần nữa. Đông Chu Quân trở thành thân cô thế cô, chẳng nước chư hầu nào dám hợp lực nữa, nên tinh thần “cầm đầu hợp tung” tan thành mây khói. Thêm vào đó, nước Đông Chu quân ít tướng không nhiều, sao có thể chống cự nổi mười vạn đại quân dày dạn trận mạc của nhà Tần. Vì vậy, hai bên chỉ mới chạm trán nhau là quân Đông Chu tan tác rã đám, cắm cổ chạy thục mạng, giẫm đạp lên nhau. Quân Tần thừa thắng xông lên, chiếm hết thành nọ đến thành kia, dễ như bẻ cành cây khô, đẽo cây gỗ mục. Cuối cùng bắt sống cả Đông Chu Quân, hoàn toàn chấm dứt triều đại nhà Chu từng hiển hách ở ngôi thiên tử cách đây 873 năm về trước.
Lã Bất Vi trống giong cờ mở, ca khúc khải hoàn, hiên ngang về nước. Vua quan nhà Tần ra ngoài thành tận mười dặm để nghênh đón đoàn quân chiến thắng của Lã Bất Vi. Trang Tương Vương đích thân nâng cốc ba lần chúc rượu Lã Bất Vi, gọi là để rửa sạch bụi trần cho vị thống soái vừa xông pha lửa đạn thắng lợi quay về. Các thành viên hoàng gia và văn võ bá quan đều chen chúc nhau đến chúc mừng thừa tướng.
Thắng lợi to lớn này làm cho Lã Bất Vi và Trang Tương Vương thêm gắn bó với nhau, phối hợp chặt chẽ với nhau rất ý hợp tâm đầu. Nhờ vậy, địa vị của cả hai người ngày càng củng cố, không chỉ được thần dân trong nước hết sức kính trọng ủng hộ; mà còn lừng danh khắp thiên hạ, sáu nước chư hầu đều khép nép nhìn nhau.
Chiến thắng vang dội nói trên cũng mở mặt mở mày cho Trang Tương Vương, ngài trút bỏ được tâm trạng tự ti do phải long đong nhiều năm làm con tin nhục nhã ở nước Triệu, một gánh nặng tâm lý cứ đeo đẳng mãi trong lòng bao năm qua. Với sự trợ giúp đắc lực của Lã Bất Vi, ngài chăm lo triều chính, ra sức phục hồi và phát triển quốc kế dân sinh. Lại phụng dưỡng mẹ già rất có hiếu, tôn kính và yêu quý cả thái hậu Hoa Dương và thái hậu Hạ Cơ, ăn ở rất hòa thuận vui vẻ với hoàng hậu Triệu Cơ và Tề Cơ (thiếp). Tỏ rõ là một minh quân đôn hậu hiền hòa. Điều đáng tiếc là từ nhỏ ngài đã bị ghét bỏ, bị đưa đi làm con tin lâu dài ở nước khác, lại nhiều lần bị đày đọa và bức hại, cho nên, ngài bị tổn thương rất lớn về thể chất và tinh thần. Sau khi lên ngôi, công việc nội trị ngoại giao chồng chất, làm cho ngài phải vắt kiệt sức lo nghĩ, nên ngài ngày càng suy nhược, không thuốc tiên nào vực dậy được. Vì vậy, ngài chỉ ở ngôi được ba năm thì bị bệnh và mất. Doanh Chính lúc ấy mười ba tuổi, được kế vị cha, trở thành nhà vua trẻ nhất của nước Tần. Một cuộc đời chính trị không tiền khoáng hậu, oanh liệt huy hoàng bắt đầu.
Chú thích:
[i] “Phù loan" là một hình thức bói toán may rủi mê tín dị đoan - ND.
[ii] Chữ Lã (Lã Bất Vi) gồm hai chữ Khẩu (mồm), một trên một dưới. Câu này ám chỉ Lã Bất Vi - ND.
Chữ Hàn trong tiếng Hán, gồm một bên là chữ "Xa”, một bên là chữ "Vi". Chữ "Hàn" bỏ một bên (chữ Xa), còn là chữ "Vi". Câu này cũng ám chỉ Lã Bất Vi - ND.
[iii] Nguyên văn: hịch văn. "Hịch" trong Hán văn cổ là văn thư thời cổ đại dùng để thông báo hoặc kêu gọi. Ở ta cũng có "hịch" tướng sĩ nổi tiếng - ND.