HỒI THỨ TÁM -THIÊN TAI XUA CHÂU CHẤU VỀ HẠI NGƯỜI-NHÂN HỌA ĐƯA THÀNH KIỀU PHẢN DOANH CHÍNH---
Doanh Chính cha mất sớm, mới mười ba tuổi đã lên ngôi, nên chưa đủ trí tuệ để suy nghĩ độc lập. Tất cả mọi việc nội trị ngoại giao đều làm theo di chiếu của vua cha Trang Tương Vương và do thừa tướng Lã Bất Vi phò tá nhiếp chính.
Nhờ có uy danh tiêu diệt Đông Chu, Lã Bất Vi tiếp tục chính sách bành trướng quân sự, chủ động tấn công các nước láng giềng. Để thực hiện chính sách này, tại một buổi thiết triều, Doanh Chính tuyên bố trước các đại thần:
- Tiên vương không may tạ thế, Trẫm phải vội lên ngôi, nhưng còn thiếu trải nghiệm, nên mọi việc chưa thể tự tiện quyết định. Rất mong các khanh hãy nhớ đến ơn sâu của tiên vương, ra sức gánh vác trọng trách của xã tắc, hãy cầm quân ra trận, mở mang bờ cõi, đặng nêu cao đại ân đại đức của tiên vương. Chẳng hay các khanh có ai nhận lấy binh phù, thống lĩnh ba quân?
Nhà vua trẻ tuổi vừa nói xong, có mấy vị tướng đã tranh nhau bước ra trình tấu.
Mông Ngao được nói đầu tiên:
- Trước đây, trong cuộc đánh phạt Đông Chu, lão thần không được tham dự, nên còn mang nợ với nước. Nay nếu có bất cứ sứ mệnh gì, lão thần quyết chí đảm đương, xin nhà vua sai bảo.
- Mạt tướng đã theo hầu hạ mấy đời tiên vương, đã chinh chiến nhiều năm, cũng từng lập công, nay không dám dừng bước. Xin nhà vua chớ chê tuổi già mà bỏ quên mạt tướng. Xin thề đem hết cái uy của vũ lực, để lại chắc tay vung kiếm! - Vương Hột xúc động cầu xin được ra trận.
Tiêu Công cũng không chịu lép vế, ông nói rất mạch lạc hùng hồn:
- Nước ta mấy độ quốc tang, rất tổn thương nguyên khí. Đức vua còn ít tuổi, không khỏi bị chư hầu coi thường. Xin cho khiêu chiến trước để khống chế đối phương (“Tiên phát chế nhân”), đó là cách để tỏ rõ sự anh minh quyết đoán của nhà vua chúng ta. Lão thần xin đi tiên phong, chinh phục chư hầu, nêu cao quốc uy của đại Tần, khuếch trương uy danh của bệ hạ!
- Chư vị tướng quân thật là hiếm có, ai ai cũng trung quân ái quốc, tuổi cao mà chí lại càng cao. Lã Bất Vi này hết sức bái phục. Còn sắp tới sẽ đánh nước nào, đưa bao nhiêu quân, xin chờ chỉ lệnh của đại vương, sau đó sẽ bàn bạc kỹ lưỡng với quý vị.
Lã Bất Vi hiểu rất rõ rằng, các lão tướng này đều đã nhiều năm xông pha trận mạc, từng theo tiên vương đánh nam dẹp bắc, chinh chiến cả một đời, người nào cũng say mê chiến tranh, coi chuyện đánh nhau nơi trận địa là thiên chức cao quý của mình. Thậm chí họ cũng chẳng cần biết cuộc chiến tranh mà họ vào sinh ra tử là chính nghĩa hay tội ác, là tự vệ hay xâm lược. Lã Bất Vi cũng biết rõ rằng các lão tướng này đang bộc lộ sự thất vọng và đố kỵ vì lần trước họ không được tham gia cuộc chiến tranh tiêu diệt Đông Chu. Cũng qua đó, ông thấy được nguyện vọng và tiềm năng ở trong con người các tướng lĩnh dày dạn trận mạc này. Vì vậy, nhân đứng trước mặt nhà vua Doanh Chính, ông biểu dương và khích lệ các lão tướng, nhằm xóa bỏ sự ngăn cách lâu nay giữa họ và bản thân mình, để có thể có sự thông cảm và hợp tác với nhau từ nay về sau.
Những điều mà Lã Bất Vi vừa nói, quả nhiên rất được các lão tướng thông cảm và đón nhận với thái độ khoan dung. Nhà vua Doanh Chính cũng rất tán thưởng. Mọi người đều cho rằng đây là nhân vật đại tài trong việc trị nước yên dân, có tầm mắt nhìn xa trông rộng, rất giỏi điều hành, biết cách lãnh đạo, phong độ đàng hoàng, rất dễ hợp tác. Buổi thiết triều này được kết thúc trong bầu không khí hết sức vui vẻ và thân tình. Sau đó, Doanh Chính lại cho gọi các tướng Mông Ngao, Vương Hột, Tiêu Công, cùng với Lã Bất Vi bàn bạc về việc mỗi vị tướng sẽ chỉ huy đơn vị quân đội nào và sẽ đánh nước nào.
Tuy nhiên, trong thời gian đó, đơn vị quân đội đóng tại Tấn Dương, thuộc miền biên giới phía Đông nước Tần, đã nổi lên làm phản, chống lại ông vua còn quá non trẻ. Vì vậy, lão tướng Mông Ngao lẽ ra được cử đi chinh phục chư hầu, nay phải nhận lệnh đi Tấn Dương dẹp loạn. Lúc ấy, nước Tần tuy là một nhà nước quân sự hùng mạnh, nhưng do chiến tranh liên miên nên quân số rất thiếu, phải lấy hàng binh của các nước bổ sung cho quân đội. Mà hàng binh thường là chỉ khuất phục trước vũ lực, chứ không phải tự nguyện xin hàng, trong lòng họ vẫn ngấm ngầm chống đối; và hễ có cơ hội là nổi lên phản loạn. Cuộc nổi loạn ở Tấn Dương thuộc loại này. Khi quân của Mông Ngao đến bao vây, quân nổi loạn biết không thể chống cự nổi, nhưng vẫn cứ liều chết cố thủ. Do vậy, cuộc chiến diễn ra rất quyết liệt, tàn khốc. Cuối cùng, quân của Mông Ngao đã thắng, nhưng tổn thất quá lớn, phải về Hàm Dương nghỉ ngơi và chấn chỉnh lại, chờ khi được bổ sung đầy đủ sẽ đi tác chiến.
Năm sau, đại tướng Tiêu Công đưa quân đánh nước Ngụy, vây hãm Quyền Thành, chặt đầu ba vạn người. Trong sử sách của nhà Tần, phải ghi rõ số lượng đầu người bị chém để chứng tỏ chiến công. Đó là vì, theo luật của Tần, không có chiến công thì không được phong tước vị. Mỗi trận đánh đều lấy số lượng đầu người bị chém để đánh giá công lao của vị tướng. Quân của tướng Tiêu Công chặt đầu ba vạn người cho thấy trận đánh này có quy mô rất lớn.
Đến năm thứ ba, Mông Ngao và Vương Hột phối hợp tấn công nước Hàn, chiếm được mười ba thành trì, có thể coi là thắng lợi không nhỏ. Đáng tiếc là lão tướng Vương Hột tử nạn, thực hiện lời thề: “Không ngồi thụ hưởng vinh hoa, thà rằng quyết tử ở nơi chiến trường”.
Mông Ngao đánh thắng một trận lớn rồi vẫn cảm thấy chưa đã, nên trên đường về còn đánh chiếm thêm Trường Thành và Hữu Quỷ của Ngụy. Một năm sau lại đánh chiếm hai mươi thành trì nữa của Ngụy, gồm Toan Tảo, Yên Thành, Hư Thành, Trường Bình, Ung Khâu, Sơn Dương... Nước Tần gọi những vùng ấy là Đông Quận của Tần.
Qua nhiều năm chiến sự liên miên, nước Tần lại nổi lên như là một nước quân sự hùng mạnh, cướp đoạt được hàng loạt thành trì, mở rộng bản đồ. Rõ ràng là chiến quả rất lớn. Nhưng nền sản xuất và đời sống trong nước lại vô vàn khó khăn, gây ảnh hưởng nặng nề cho triều đình Doanh Chính còn rất non trẻ. Đó là nạn châu chấu và bệnh dịch phá hoại mùa màng liên tiếp trong bốn năm.
Một năm trước đó, tức năm thứ ba Tần Doanh Chính, vùng Hàm Cốc Quan ở phía Đông nước Tần, nông nghiệp mất mùa nên đói kém suốt năm. Đúng như Mạnh Tử viết trong “Lương Huệ Vương chương cứ”: “Già yếu ngã xuống dưới rãnh nước, trai tráng chạy trốn khắp nơi!”. Ruộng vườn bỏ hoang, thiếu người làm ruộng, mùa đông không vun luống đắp bờ, thì tai họa cứ nằm ẩn dưới lòng đất; sang xuân tiết trời ấm áp, ấu trùng nở ra, bò lên mặt đất, đến tháng Mười là thành châu chấu. Loại côn trùng này sinh nở rất nhanh, thường bay từng đàn cực lớn, tàn phá một lúc hàng nghìn mẫu, chỉ trong nháy mắt chúng ăn hết sạch. Có khi có những đàn châu chấu có đến hàng chục triệu con, che tối cả bầu trời hơn mười dặm vuông, chúng ào ào kéo đến, làm cho mọi người cứ tưởng như trời đang sập xuống vì bóng tối mịt mùng. Khi thấy có ruộng lúa hay bất cứ cái gì có thể ăn được, đám mây châu chấu ấy sà xuống, ngấu nghiến cả hạt lúa và lá cành. Tiếng cấu xé sột soạt của hàng chục triệu cái miệng sắc nhọn ấy, cùng một lúc gây ra tiếng động rất chối tai, thậm chí nhiều người già và phụ nữ, trẻ em đã hoảng hốt trước tiếng châu chấu ăn lúa và đập cánh rầm trời dậy đất; họ khiếp sợ, ngất xỉu, thậm chí có người vì hoảng sợ mà chết. Sau khi tàn phá đến tận cùng, đàn châu chấu khổng lồ bay đi, để lại cánh đồng hoang tàn, trơ trụi, xác xơ; trông rất thảm hại, kinh hoàng.
Điều nghiêm trọng hơn là tại vùng Hàm Cốc Quan, năm ngoái nạn đói đã làm cho rất nhiều người phải bỏ nhà ra đi; nay nạn châu chấu lại sà đến quét sạch sành sanh ruộng đồng của họ. Con người mất hết điều kiện sinh sống tối thiểu, bèn già trẻ dắt díu nhau, bỏ nhà bỏ hàng xóm, đi tha hương khắp nơi để xin miếng cơm manh áo. Họ đi đến đâu là xôn xao náo loạn đến đó. Nhiều ca dao hò vè xuất hiện, phản ánh thảm trạng đói kém khốn khổ lúc đương thời. Sau đây là một bài khá tiêu biểu (dịch ý):
Bốn năm mất ba vua, điềm gở thật chẳng đùa.
Châu chấu từng đàn lớn, tàn phá liền mấy mùa.
Miền Đông nổi binh đao, trời tây sao chổi hiện.
Tháng Giêng “rồng” hạ thế , hai khẩu nắm thực quyền.
Châu chấu là “tổ” rồng , cào cào là đại vương.
Chúng kéo xuống trần gian, muôn dân đều đói khổ.
Bài ca dao này nói lên tâm trạng dân chúng chán ghét chiến tranh và khiếp sợ thiên tai. Đặc biệt, bài ca dao đã đả kích, nguyền rủa chính quyền Doanh Chính - Lã Bất Vi. Điều này là một nguy cơ chính trị tiềm ẩn vô cùng nghiêm trọng. Nó báo hiệu những tai họa lớn gấp hàng chục lần, trăm lần so với thiên tai, sẽ ập đến với Doanh Chính và Lã Bất Vi.
Doanh Chính thấy tình hình nghiêm trọng bèn cùng với thừa tướng Lã Bất Vi đi gấp tới cung Cam Tuyền, gặp thái hậu Triệu Cơ, cùng bàn bạc sách lược đối phó. Nhà vua không cho nội thị đi theo.
- Thật quý hóa quá, cả hai người đều đến, chắc là có chuyện gì phải bàn bạc đây. - Thái hậu Triệu Cơ thấy chồng cũ và con yêu cùng đến một lúc, cảm thấy vui mừng hết sức nhưng không nói nên lời, chỉ chủ động lên tiếng trước, không đợi họ chào hỏi gì cả.
Lã Bất Vi thấy vậy cũng vội bước lại gần và hỏi rất cung kính:
- Thái hậu đã hay biết về nạn châu chấu tàn phá ở Hàm Cốc chưa ạ?
Thái hậu Triệu Cơ gật đầu mỉm cười:
- Hôm nay nội thị từ Hàm Cốc về, ta cũng biết đôi chút rồi. Đã là thiên tai, thì con người làm sao biết trước được. Các người không nên quá tự trách mình.
- Biết trước thì không thể, nhưng việc xử lý hậu quả thì không thể chậm trễ. - Doanh Chính nói rất tự tin quyết đoán. Đó là nhờ mấy năm thiết triều, trực tiếp nghe việc triều chính.
- Vương nhi nói rất phải. Vậy vương nhi và trọng phụ đã định đoạt gì chưa? - Thái hậu Triệu Cơ hỏi, đưa mắt nhìn về phía Lã Bất Vi, có vẻ như đang muốn hỏi ý kiến ông.
- Thái hậu xưng hô như vậy, quả thật là hại cho vi thần quá!
Lã Bất Vi vội chắp tay vái thật dài trước mặt Triệu Cơ, tỏ ra rất lo sợ, nhưng trong lòng thì cảm thấy rất dễ chịu ngọt ngào. Bởi vì, trong nhiều năm sống với mẹ, Doanh Chính được mẹ dạy bảo, nên thấy rõ công ơn sâu nặng của Lã Bất Vi đối với cha mẹ mình. Doanh Chính thấy, nếu không có Lã Bất Vi chắp mối xe tơ, thì cha mẹ mình làm sao thành vợ thành chồng được và cũng không thể có cả cái ngai vàng mà mình đang ngồi. Nếu không có Lã Bất Vi săn sóc dạy dỗ, bản thân Doanh Chính không thể đảm đương nổi ngôi báu “quân chủ” của một nước lớn như đại Tần. Đặc biệt, nếu không có Lã Bất Vi sớm hôm phò trợ, Doanh Chính cũng không bao giờ được sống trong tình cảm thân tình như cha con trong thời gian qua. Chính vì những ngọn nguồn và quan hệ như vậy mà Doanh Chính gọi Lã Bất Vi là trọng phụ một cách rất thân thiết. Đương nhiên, Lã Bất Vi xứng đáng được cư xử như vậy. Tuy nhiên, hai chữ “trọng phụ” rất thân tình được nói ra vừa rồi, lại là từ miệng của thái hậu đường đường chính chính. Đó vừa là điều bí ẩn được giấu kín trong lòng, vừa thổ lộ tình nghĩa sâu nặng “nhất nhật phu thê bách nhật ân” (“một ngày vợ chồng, trăm ngày tình nghĩa”). Huống chi, hai người đã đơm hoa kết quả cho ra đời vị quân chủ trẻ tuổi đầy triển vọng huy hoàng đó. Vì vậy, Lã Bất Vi cảm thấy rất được an ủi (khi nghe Triệu Cơ nói hai tiếng trọng phụ). Nhưng mặt khác, ông lại rất đau lòng vì cứ phải ngậm miệng như hến, không dám hé răng nói nửa lời về mối quan hệ tế nhị giữa ba người họ với nhau (Lã Bất Vi, Triệu Cơ và Doanh Chính). Câu nói khiêm nhường “hại cho vi thần quá” và cái chắp tay bái lạy kể trên, là tự chê cười cho sự khó xử của mình và cũng là để ứng phó với sự lúng túng trước mắt.
Doanh Chính còn non trẻ chẳng hiểu hết mọi chuyện, nên cũng không thể thấy điều gì đáng nghi ngờ trong những lời ứng xử vừa rồi giữa hai người, chỉ vội nói với mẹ một việc quan trọng hơn:
- Thiên tai cố nhiên không thể ngồi nhìn, nhưng miệng lưỡi thiên hạ còn đáng sợ hơn!
- Thiên hạ nói gì mà đáng sợ thế?
Tục ngữ nói có tật giật mình, thái hậu Triệu Cơ nghe con nói “miệng lưỡi thiên hạ” bỗng giật mình, hỏi cho ra nhẽ. Doanh Chính vội đưa mấy tấm tre ghép cho thái hậu, nói nhẹ nhàng:
- Đây là mấy câu ca dao, xin mẫu hậu xem.
Thái hậu nghe nói hai chữ “ca dao”, vội hồi tưởng lại cuộc sống ca múa dân gian ngày nào bèn chăm chú đọc. Chỉ mới đọc câu đầu tiên đã bị kích động. Khi đọc xong hết bài thì sợ hãi phát run lên, mồ hôi ướt đẫm. Bà hỏi hai người:
- Bài này gọi là ca dao, nhưng thực ra là một bài hịch đòi trừng phạt chúng ta, chẳng hay do ai viết?
- Bản này được đưa đến kèm trong các tấu trình về thiên tai, trong dân gian đang chuyền tay nhau để xem và hát. Do vậy, rất khó biết tác giả là ai? - Lã Bất Vi giải thích.
- Người viết bài này đã có mưu đồ từ lâu, nay có cơ hội mới viết ra, ăn nói xằng bậy để mê hoặc dân chúng, gây rối nhân tâm, cố tình phạm thượng. - Lời của Doanh Chính đã vạch trần tác hại của bài ca dao.
Thái hậu vội bổ sung:
- Huống hồ đang có tai họa châu chấu, bách tính lưu lạc bốn phương; nay làm ca dao kích động, chĩa mũi nhọn vào triều đình, cái khí thế này khó mà chặn đứng lại được!
- Mẫu hậu nói chí phải. Vương nhi và trọng phụ sẽ ra chỉ dụ truy nã kẻ hát xướng ca dao để xử tử, nhằm đe dọa bách tính, ngăn chặn lan truyền ca dao hoang đường. - Doanh Chính nói, ra hiệu cho Lã Bất Vi thu dọn bản viết ca dao.
Lã Bất Vi vừa cầm cất bản viết ca dao, vừa nói rất thận trọng:
- Thần nghĩ rằng ca dao bậy bạ này lan truyền quá rộng khắp, số người đọc và hát ca dao này quá nhiều, e rằng truy nã cũng không thể bắt hết được...!
- Trọng phụ không thấy à, quân ta mỗi trận đánh là chém hàng vạn cái đầu. Kẻ nào chống lại ta là phải giết, sao còn nói chi nhiều ít? - Doanh Chính không tán thành ý kiến Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi vội can gián:
- Chém kẻ địch ở nước khác, cố nhiên càng nhiều càng tốt. Nhưng đây là dân chúng trong nước, là con dân của nhà vua, họ quá đau khổ vì đói rét, sao có thể giết họ. Nếu không may gây ra nổi loạn thì rất khó dẹp yên! Người xưa dạy: Dân chúng phẫn nộ, không dẹp được đâu. Xin nhà vua xem xét cho kỹ!
- Quả thật, dù cho thông minh nhanh trí đến đâu cũng cần có người khác góp ý. Rất may là trọng phụ suy nghĩ cẩn trọng, không chạy theo việc nhỏ để bỏ qua việc lớn! Vương nhi nhất thiết không nên quá nóng vội trong việc truy xét những lời xằng bậy trong ca dao. - Thái hậu cũng tán đồng ý kiến của Lã Bất Vi khuyên bảo Doanh Chính không được quyết đoán tùy tiện.
Bấy giờ Doanh Chính mới dịu được cơn nóng của mình, liền nói với mẹ:
- Con xin nghe lời mẫu hậu, nhưng chẳng hay trọng phụ đã có kế hoạch gì hay chưa?
- Nay dân tình đói kém, lưu lạc bốn phương, chó cùng rứt giậu, khổ quá hóa liều. Cho nên, cần cứu trợ họ, giúp đỡ họ sinh sống. Còn xuất xứ của những lời ngoa ngôn, sẽ tra xét sau cũng không muộn. - Lã Bất Vi nêu kiến nghị, rồi quay sang hỏi Triệu Cơ - Chẳng hay thái hậu thấy có được không?
- Kế sách ấy rất hay, vương nhi và trọng phụ nên nhanh chóng ban chỉ dụ để thi hành!
Thái hậu thấy tình hình quá cấp bách, không muốn họ ở lại quá lâu nữa. Doanh Chính và Lã Bất Vi liền rời khỏi cung Cam Tuyền, đi đến cung Hàm Dương để bàn bạc về việc cứu tế người đói và bình dẹp những chuyện lộn xộn.
Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, Doanh Chính đồng ý để trọng phụ đi xem xét tình hình thực tế ở các khu vực thiên tai mất mùa, đói kém, để có kế hoạch cứu tế cụ thể. Lã Bất Vi đưa Lý Tư và mười mấy người khác gồm các môn khách và thị vệ vội vàng ra khỏi Hàm Dương, đi về miền Đông. Dọc đường họ gặp từng tốp dăm ba người đói rách đang lang thang dắt díu nhau đi: Càng đi càng gặp nhiều người hơn, cũng cảnh ngộ như thế. Có khi cả một đoàn mấy chục người vịn vào nhau mà đi, người nào cũng chân nam đá chân xiêu, lảo đảo bước đi như sắp kiệt sức. Khi đến vùng Hàm Cốc Quan, người đói không phân tán từng nhóm nữa, mà đi nối đuôi thành hàng dài dọc đường, hầu như không thấy đầu cũng không thấy người cuối cùng ở đâu nữa. Người nào cũng ăn mặc rách rưới, nhếch nhác, lam lũ, đói gầy dơ xương, chân tay như que củi, mắt mũi hốc hác, xanh xao vàng vọt, mặt bủng da chì. Lã Bất Vi thỉnh thoảng đưa mắt nhìn Lý Tư, tỏ ra rất sốt ruột. Khó khăn lắm mới đến được huyện lỵ. Đến nơi được một lúc thì yêu cầu huyện lệnh (huyện trưởng) nói rõ tình hình thiên tai. Huyện lệnh nói:
- Huyện nhà từ khi bị nạn châu chấu, đồng ruộng không còn một hạt lúa, dân lưu lạc khắp nơi để xin ăn. Người già yếu rơi xuống cống rãnh, thoi thóp chờ chết. Trong toàn huyện, cứ mười nhà thì chín nhà không còn gì trong nhà, hoàn toàn trống không, sống lay sống lắt, chẳng biết tử thần đến lúc nào không biết.
Quan huyện nói xong bèn đưa các vị đại thần của triều đình ra ngoài đường để xem dân đói. Bỗng nghe một tiếng kêu thét lên trong đám người đang di chuyển chậm chạp, lập tức họ dồn nhau lại, vây kín các quan khách. Một người chỉ tay vào huyện lệnh và nói rất gay gắt:
- Các ông này ở trên phủ về phải không? (Lúc ấy, phủ là cấp trên huyện).
Huyện lệnh sắp trả lời, thì Lý Tư ngăn lại, bèn nói khác đi:
- Đây là đoàn đưa thư tín của triều đình. Nhân đi qua đây thì vào nghỉ chân. Sắp đi bây giờ.
Nhiều người nhao nhao xin cho một ít lương thực của ngựa để ăn cho đỡ đói. Họ còn khẩn thiết yêu cầu các vị này cấp báo cho triều đình hãy mau mau cứu giúp bách tính khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Có một thanh niên phẫn nộ nói rằng, nếu triều đình không đếm xỉa gì đến tình cảnh này, họ sẽ đến tận Hàm Dương liều một phen, chết thì chết cả luôn một thể, cả dân và vua đều chui xuống mồ hết.
Lã Bất Vi và Lý Tư nhìn thấy từ trong quầng mắt sâu hoắm của họ phát ra một ánh mắt rực lửa căm hờn của sự đói khát. Những ánh lửa ấy, nếu tụ tập lại sẽ thành một đám cháy lớn, cháy lan khắp nước, đến tận Hàm Dương, thiêu trụi cả cung Kim Loan, cung Đại Trịnh, cung Hàm Dương, cung Cấm Tuyền..., biến toàn bộ cung điện của nhà Tần thành tro bụi.
Lã Bất Vi đang mơ màng một cảnh tượng hãi hùng, bỗng mở to mắt. Trước mặt mình vẫn là đâm dân đen đang kêu cứu. Ông cảm thấy đau đầu, hoa mắt, mồ hôi ướt đẫm sau lưng. Ông bảo đoàn tùy tùng trở vào huyện đường, nói mấy lời thăm hỏi và an ủi huyện lệnh, và hứa sẽ nhanh chóng đưa lương thực tới cứu tế ông căn dặn, không được để cho dân chúng đến tận Hàm Dương để kêu xin, nhằm tránh gây ra hậu quả không tốt. Nếu không, tiền đồ của huyện lệnh sẽ không được đảm bảo, có thể bị phạt đánh, bị cách chức và tịch thu tài sản, thậm chí bị giết. Huyện lệnh luôn mồm hứa hẹn và cầu xin thừa tướng rộng lượng thương tình, khi về triều hãy nói tốt cho ông ta trước mặt đức vua.
Tối hôm đó mọi người đều trằn trọc mãi không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, Lã Bất Vi vội giục mọi người lên đường về Hàm Dương. Về đến nơi, lập tức đến tấu trình với Doanh Chính. Lã Bất Vi nói ngọn lửa đói khát đã âm ỉ trong dân, nếu để bốc cháy thành đám lớn thì hậu quả không thể lường hết được. Doanh Chính cũng qua đó thấy rõ rằng mối uy hiếp bên trong lớn hơn tai họa bên ngoài rất nhiều. Nghĩ vậy, Doanh Chính bèn bàn với Lã Bất Vi, lấy hai nghìn thạch lương thực từ kho dự trữ quốc gia để cứu tế cho dân đói. Nếu tính từ mùa đông này cho đến năm sau, số lương thực và hạt làm giống của vùng bị đói kém là rất lớn, nhà nước không đủ sức cáng đáng, bèn áp dụng chính sách “mua quan bán tước” để có tiền mua lương thực. Theo đó, hộ nhà giàu nào nộp cho nhà nước một ngàn thạch lương thực, sẽ được phong một chức quan. Bằng cách này, đã thu được rất nhiều lương thực, bảo đảm cung cấp cho vùng đói kém.
Mấy năm tiếp theo sau đó. Doanh Chính và Lã Bất Vi cứ ngập đầu trong những chuyện rối ren trong nước và sự uy hiếp của nước ngoài. Năm thứ sáu niên hiệu Doanh Chính, năm nước Triệu, Sở, Vệ, Hàn, Ngụy hợp lực đánh Tần. Nước Tần vẫn huy động một lực lượng hiện có để ra nghênh chiến ở bên ngoài Hàm Cốc Quan. Đứng đầu “hợp tung” lần này là Khảo Liệt, vua nước Sở. Khảo Liệt Vương không giỏi quân sự, lại không chịu để cho danh tướng nước Triệu là Bàng Noãn chỉ huy quân đội, kết quả bị Tần đánh cho thất bại tả tơi, thua chạy tán loạn. Quân đội bốn nước kia cũng không đánh mà tan. Quân Tần thừa thắng đánh chiếm đất Triều Ca của Ngụy. Năm sau chiếm nốt Cấp Thành. Trong khi đó, Mông Ngao đem quân đánh Ngụy, lấy được đất Long Cô và Khánh Đô (nay đều ở vùng Hà Nam); đồng thời vây hãm Bộc Dương nước Vệ, buộc vua Vệ (Vệ Quân) phải đưa tàn quân tháo chạy đến huyện Dã Vương, kéo dài cơn hấp hối ở đó.
Mấy trận đánh vừa kể, tuy Tần thắng lớn, nhưng cũng rất hao binh tổn tướng, nhất là lão tướng Mông Ngao đã bỏ mình trong trận đánh Triệu. Tiếp đó là cuộc nổi loạn của bọn Trường An Quân (Thành Kiều), em trai Doanh Chính, làm cho chính quyền lao đao cực độ.
Thành Kiều là con trai của nàng Tề Cơ, người thiếp mà Tử Sở mới lấy vào cung sau khi ông ta từ nước Triệu về Hàm Dương. Thành Kiều ít hơn Doanh Chính ba tuổi. Khi mẹ con Triệu Cơ về Hàm Dương, không lâu sau thì Tề Cơ bị bệnh mà chết. Thành Kiều được các cung phi khác nuôi dưỡng trưởng thành, trên danh nghĩa thì coi Triệu Cơ là mẹ. Thành Kiều sinh ra trầm tính, nhu nhược, chỉ thích đánh cờ, không bao giờ hỏi han đến chính sự, cho nên được đặt tên là “kiều” , tức là một loại côn trùng nhỏ. Thành Kiều biết nhưng cũng để vậy, chẳng kèo nèo hay dở, an phận thủ thường với cuộc sống an nhàn phú quý của một đấng con vua. Trong khi đó, Doanh Chính là con trưởng của Tử Sở. Doanh Chính lại được lập làm thái tử danh chính ngôn thuận; sau đó lên làm vua Tần. Những chuyện đó, Thành Kiều coi là rất bình thường; huống hồ, huynh trưởng được mệnh danh là con rồng, rất có triển vọng; còn bản thân mình chỉ là con côn trùng bé tẹo tèo teo, được làm em của con rồng to lớn kia, là được lắm rồi, cần gì mà phải đòi hỏi viển vông xa vời nữa. Cũng chính vì Thành Kiều bình dị khiêm nhường như vậy, nên sống với Doanh Chính rất hòa thuận, thân tình. Lúc nhỏ, Doanh Chính thường kể cho Thành Kiều nghe cuộc sống nghèo khổ đầy sợ hãi ở nước Triệu. Mỗi khi cao hứng, còn biểu diễn động tác nói lên Tần đánh Triệu thua tơi bời như thế nào. Do vậy, Thành Kiều luôn luôn là tù binh của Doanh Chính, hoặc bị trói quặt cánh tay vào chân bàn rồi bị “giết” sau một tiếng thét “Cha a!”. Hoặc anh đóng vai Tần Chiêu Vương, em đóng vai Triệu Hiếu Thành Vương, Doanh Chính đứng trên cao, bắt Thành Kiều quỷ ở dưới đất giơ tay xin hàng. Có lúc, Thành Kiều không chịu, muốn đổi vai diễn, Doanh Chính bèn mắng rằng ta là anh, mày là em. Tên của ta là Chính, Chính là việc lớn của một nước quân sự, ta nhất định phải là vua Tần. Còn “kiều” là tiểu côn trùng, đương nhiên phải là vua Triệu, nhất định phải ăn đòn thất bại của ta! Thành Kiều nghe vậy, đành nghe vậy, không còn gì để nói nữa và ngoan ngoãn làm “tù binh” và bị “giết”. Nhưng Thành Kiều thích giơ tay đầu hàng hơn, vì động tác này dễ làm hơn; vả lại đầu hàng thì vẫn được gọi là Triệu Hiếu Thành Vương, vẫn không xấu mặt như “tên tù binh”. Dù trò chơi là “tù binh”, “chém” hay “đầu hàng”, hai anh em vẫn chơi rất thoải mái. Doanh Chính bao giờ cũng cười lớn khoái trá. Thành Kiều tuy trong bụng không phục, nhưng nghe ông anh cười cũng cười theo mấy tiếng.
Như vậy, hai anh em khác nhau rất xa về bản tính, chí hướng, sức khỏe, địa vị, và mỗi người đều vừa lòng với hiện trạng, lẽ ra họ có thể chung sống hòa thuận và bình an vô sự. Nhưng trên thực chất, hai người bị lôi cuốn vào vòng xoáy của một đấu tranh quyết liệt giữa hai thế lực chống đối nhau. Một phe ủng hộ chính quyền hiện hữu (Lã Bất Vi, Doanh Chính, thái hậu Triệu Cơ). Phe kia đòi khôi phục Doanh Tần chính thống. Đương nhiên Doanh Chính thuộc phe trước, Thành Kiều thuộc phe sau. Cuộc đấu tranh sống mái này có nguyên nhân sâu xa và âm ỉ từ lâu.
Cách đây mười bảy năm, khi đại tướng Vương Hột đưa hai mươi vạn đại quân đánh kinh đô Hàm Đan của Triệu, lúc ấy nhà vua Tần Chiêu Vương thân chinh đốc chiến. Quân Triệu ở bên trong nhiều lần thòng dây nhảy ra ngoài, tập kích quân Tần vào ban đêm. Lúc ấy, Phàn Vu Kỳ, phó tướng của Tần, bắt được một tên lính của Triệu. Phàn bèn hỏi tên lính kia có biết nơi giam Doanh Dị Nhân ở đâu hay không. Sở dĩ Phàn hỏi điều này là vì mục đích cá nhân. Ông ta muốn sau khi phá được thành sẽ là người đầu tiên cứu được Doanh Dị Nhân, lập công đầu tiên. Nhưng tên lính tù binh kia lại tưởng rằng việc tìm Doanh Dị Nhân là mục đích cuối cùng của quân Tần. Vì vậy, tên lính này muốn giảm nhẹ tổn thất cho đất nước (Triệu) nên nói với Phàn Vu Kỳ như sau. Hắn nói:
- Doanh Dị Nhân bây giờ chẳng có giá trị gì với nước Tần nữa, vì anh ta chỉ có cái hư danh là con thừa tự của đông cung. Vợ anh ta là một cô gái ca kỹ, vợ của thương nhân Lã Bất Vi, mà lại có thai trước khi cưới, con anh ta tiếng là dòng dõi hoàng gia Doanh Tần, thực ra là con Lã Bất Vi. Bây giờ các ngài đưa đại quân đến, hy sinh cả tính mạng để cứu anh chàng “vương tôn” bị cắm sừng và bị coi như một món hàng ấy, cùng với đứa con hoang của anh ta, phỏng còn có giá trị gì nữa? Tốt nhất là nên ngừng chiến giảng hòa!
Lúc ấy Phàn Vu Kỳ cho rằng tên tù binh này bịa chuyện để làm phân tán tinh thần của quân Tần, bèn giết quách tên tù binh. Hơn nữa, vì không có chứng cớ gì nên Phàn Vu Kỳ không bẩm báo việc này với Vương Hột và Tần Chiêu Vương. Sau đó, quân Tần bị liên quân Triệu và Ngụy đánh bại, quân Tần chạy tán loạn, nên cũng quên mất câu chuyện do tên tù binh nói.
Mãi đến gần đây, sau khi Doanh Chính lên ngôi, Lã Bất Vi được làm thừa tướng. Doanh Chính còn gọi ông ta “trọng phụ”. Nhất là vị thừa tướng này luôn luôn đi vào nội cung, rồi đi thẳng đến cung Cam Tuyền để gặp thái hậu “bàn việc quốc sự”. Doanh Chính lại không coi trọng các lão thần thời tiên vương, chỉ chăm chú dựa vào Lã Bất Vi, là người đã gả cô ca kỹ cho tiên vương... Tất cả những chuyện đó làm cho Phàn Vu Kỳ nhớ lại lời khai của tên tù binh hồi nào; và càng ngày càng tin lời khai ấy là đúng. Nếu như Phàn là con người chỉ lo chạy theo công danh lợi lộc cho cá nhân, thì có thể sống theo cách khôn sống vong chết, mũ ni che tai, và không để ý đến sự hống hách của Doanh Chính và sự quỷ quyệt của Lã Bất Vi.
Nhưng Phàn Vu Kỳ lại là một đấng nam nhi, là người đứng đàng sau các danh tướng, cho nên nhất quyết không chấp nhận Doanh Chính giả làm Doanh Chính thật. Hơn nữa, ông ta còn quyết tâm đấu tranh đến cùng để khôi phục họ Doanh Tần chính thống. Để thực hiện mục đích này, ông ta chọn Trường An Quân (Thành Kiều) làm người đại diện tiêu biểu nhất cho họ Doanh Tần chính thống, như vậy sẽ có sức thuyết phục và sức lôi cuốn mạnh nhất.
Phàn Vu Kỳ ra sức học đánh cờ thật giỏi để tìm cách chơi thân với Thành Kiều. Nhân một hôm chơi cờ, Phàn Vu Kỳ vờ thua liền mấy ván, rồi nói với Thành Kiều:
- Quân (Thành Kiều được phong là Trường An Quân), ngài đánh cờ giỏi vậy, có tài như một đại tướng, sao không cầm quân làm thống soái?
Thành Kiều cười đáp:
- Bản thân chẳng có cái tài đó và cũng không mơ ước viển vông.
Vu Kỳ bèn thận trọng nhắc nhở Thành Kiều:
- Bây giờ ngài chỉ là Trường An Quân, sống bằng đất được vua phong. Nhưng luật lệ nước ta quy định, ai không có chiến công thì không được vua phong quan ban tước. Vậy nếu nhỡ ra ngài mất đất phong và trở thành dân thường thì ngài sống bằng cách gì? Vì vậy ngài phải nhân lúc còn trẻ, tranh thủ cầm quân đánh trận, lập công để được ban tước phong chức, như vậy mới có địa vị chắc chắn, có bảo đảm. Ngài không nghe nói rằng con trưởng của tiên vương là Tử Hề, vốn đã được đề nghị phong làm thái tử, nhưng sau đã bị giáng xuống làm dân thường đó sao? Nếu như Tử Hề có chiến công, ít nhất cũng là làm một vị tướng chẳng hạn, thì sẽ không đến nông nỗi đó.
Tuy nhiên, Thành Kiều là một anh chàng công tử rất yếu bóng vía, chỉ biết nhậu nhẹt say sưa tối ngày, chẳng hề để ý đến mọi chuyện khác. Nay nghe Vu Kỳ nêu lên câu chuyện nghiêm trọng như thế, liền thần hồn nhát thần tính, cảm thấy hình như đất dưới chân mình sắp sụp đổ đến nơi. Vu Kỳ nói nào là pháp luật quy định, nào là Tử Hề bị giáng xuống làm dân thường, đều là những tấm gương tày liếp. Cho nên, anh ta càng tin rằng những điều Vu Kỳ nói là đúng sự thật. Vừa lúc ấy có tin cấp báo tình hình chiến sự của quân Tần ở Triệu đang lâm nguy, vua Tần phải đưa quân ứng cứu. Đưa quân tất phải đưa tướng. Do vậy, Thành Kiều được Phàn Vu Kỳ đi kèm, đến gặp Doanh Chính, xin ra trận. Cũng cần nói thêm rằng sở dĩ có chuyện điều binh khiển tướng này là vì hai đạo quân của Tần đi đánh Triệu do Mông Ngao và Trương Đường chỉ huy, gặp phải sự chống trả quyết liệt của danh tướng nước Triệu là Bàng Noãn và Hỗ Triếp. Quân Triệu dựa vào ba lợi thế lớn là thiên thời, địa lợi và nhân hòa, lại chiếm được điểm cao vây hãm quân Tần ở núi Nghiên. Tình hình rất nguy ngập. Vua Tần buộc phải đưa quân tăng viện cho mặt trận này. Khi thấy Thành Kiều đến xin ra trận, Doanh Chính nói:
- Bản tính của đệ vốn thích yên tĩnh, sao hôm nay lại muốn làm một võ công kiêu hùng?
Thành Kiều nghiêm sắc mặt, cố nói cho được:
- Đệ được vương huynh rủ lòng thương, đã được phong đất hưởng lộc. Nhưng đệ không có công lao, không chức tước sợ sau này lại theo vết xe của Tử Hề. Cho nên, nhân lúc còn trai trẻ, còn có thể cống hiến được, mới nghĩ rằng cần phải xứng đáng với ơn sâu của tiên vương và sự quan tâm của huynh.
- Có huynh đây rồi, sao đệ còn phải lo chuyện ấy? - Doanh Chính hứa hẹn với em.
- Vương huynh còn nhớ lúc nhỏ chơi trận giả không? - Bổng Thành Kiều xúc động nhớ lại chuyện xưa. - Huynh muốn trả mối thù bị ức hiếp ở Triệu, nên thường coi đệ là lính Triệu, vua Triệu, rồi trói, rồi giết, rồi bắt hàng, làm nhục. Nay quân Tần do huynh sai đi, đang bị vây hãm ở Triệu, đệ muốn đi cứu viện họ để báo thù cho huynh. Sao còn do dự chi vậy?
Hễ nhắc đến nước Triệu, là Doanh Chính tức tối lộn ruột, muốn trả thù ngay. Nay nghe Thành Kiều nói rất có lý, không nỡ bác bỏ hoàn toàn, chỉ nói nửa úp nửa mở:
- Đệ có chí lớn rửa nhục cho ta, ta đương nhiên chuẩn tấu Nhưng có điều xưa nay đệ chưa từng trải trân mạc, nay cầm quân tác chiến, làm sao mà huynh có thể yên tâm được...
- Mạt tướng bẩm tâu bệ hạ! - Phó tướng Phàn Vu Kỳ đứng ra khỏi hàng, trông rất trai trẻ hùng dũng. Vu Kỳ nói tiếp rất tự tin - Từ xưa, nghệ thuật đánh cờ và binh pháp đều có lý thuyết như nhau, Trường An Quân (Thành Kiều) là một cao thủ chơi cờ chắc hẳn có thể chỉ huy được ba quân, mạt tướng xin phò tá Trường An Quân ra trận giúp nước.
Tần Vương Doanh Chính gật đầu, ngài nói:
- Phàn tướng quân bằng lòng ra đi, trẫm không lo nữa. - Tiếp đó, ngài quay sang Lã Bất Vi, nói: - Nếu có đại tướng giúp sức Trường An Quân, thì bao nhiêu lâu có thể diệt được nước Triệu?
Lã Bất Vi vội đứng thẳng để trả lời:
- Thần nghĩ, đưa tướng Mông Vũ đi giúp Trường An Quân thì vừa có thể tạo cơ hội cho Mông Vũ thi thố tài năng, vừa cứu được lão tướng Mông Ngao là cha của Mông Vũ. Cha con gặp nhau, cùng ca khúc khải hoàn.
- Nếu vậy thì tốt lắm. Vả lại công việc không được chậm trễ nữa. Ngay hôm nay phải tế cờ trao binh phù xuất quân giúp Mông Ngao diệt nước Triệu. - Doanh Chính ra chỉ dụ xong liền về cung.
Thành Kiều và tướng Phàn Vu Kỳ, Mông Vũ đưa mười lăm vạn quân đi giúp Mông Ngao và Trương Đường ở Khánh Đô và Nghiên Sơn (đất Triệu). Trên đường đi không hề gặp sự chống trả nào, bèn đánh chiếm các thành Dã Vương, Thiên Môn, Trường Bính, và chiếm đánh Đồn Lưu. Sau khi nghỉ ngơi ít lâu Phàn Vu Kỳ và Mông Vũ mỗi người đưa năm vạn quân đánh Nghiệp Thành của Triệu còn Thành Kiều ở lại chốt giữ Đồn Lưu. Lúc này, tình hình của Mông Ngao và Trương Đường rất nguy ngập, Mông Vũ đưa quân hỏa tốc đến giúp cha. Phàn Vu Kỳ không dám vội vàng giao chiến với tướng Hỗ Triếp của Triệu, chỉ đưa quân đóng phân tán ở Trường Tử và Hồ Khấu (nay thuộc tỉnh Sơn Tây) là những nơi có thể xuất phát tiếp ứng quân Tần, vừa có thể từ đó theo dõi được Đồn Lưu và làm điểm tựa cho Đồn Lưu. Tối hôm đó, Phàn Vu Kỳ quay về Đồn Lưu để nắm tình hình. Vu Kỳ thấy Thành Kiều rất vui và đang nóng lòng được ra trận, bèn thấy thời cơ đã đến. Vu Kỳ kín đáo bàn với Thành Kiều chuyện nổi loạn. Để mở đầu, ông ta hỏi Thành Kiều:
- Kể từ khi nguyên soái cầm quân ra trận đến nay, chẳng hay đã quen với sinh hoạt quân sự hay chưa?
Thành Kiều mặt mày rạng rỡ hẳn lên nói:
- Đúng như tướng quân đã nói: Biết đánh cờ cũng biết binh pháp, qua mấy trận vừa rồi, ta đã hơi biết điều quân khiển tướng, bài binh bố trận rồi!
Vu Kỳ nắm chặt hai tay mình tỏ ý kính phục rồi nói tiếp:
- Vậy thì chúng ta có thể kêu gọi ba quân, đồng tâm hiệp lực giết giặc, làm một cuộc chiến tranh vấn đỉnh!
- Vấn đỉnh nhà Triệu là sứ mạng của hai lão tướng Mông Ngao và Trương Đường, quân ta chỉ đến tăng viện, cớ sao lại lấn quyền tranh việc người khác? - Thành Kiều hỏi.
Vu Kỳ hơi luống cuống một chút rồi nói nhỏ với Thành Kiều:
- Đỉnh mà mạt tướng nói ở đây là đỉnh nhà Chu đặt trong thái miếu đại Tần ta!
- Vậy chẳng phải là tiếm đoạt giang sơn của vương huynh ta đó ư? - Thành Kiều ngạc nhiên hỏi.
- Ông ấy có phải là huynh trưởng của ngài đâu! Đó là cái giống ác nghiệt của nhà buôn họ Lã đó thôi! - Vu Kỳ nói với giọng rất tức giận.
- Tướng quân căn cứ vào đâu mà nói vậy? - Trường An Quân hỏi với giọng sợ sệt.
Vu Kỳ nói hết tất cả những gì nghe thấy, nhìn thấy cho Thành Kiều nghe. Thành Kiều lúc mới đầu còn bán tín bán nghi, nhưng Vu Kỳ hết sức thuyết phục bằng cách dẫn chứng rất nhiều hiện tượng mà ông ta nhìn thấy trong nội cung; cho nên, Thành Kiều càng nghe càng thấy những điều Vu Kỳ nói rất khớp với thực tế, nên càng nghe càng tin, và càng tức giận. Cuối cùng rất phẫn nộ đến nỗi trách mắng Vu Kỳ:
- Tại sao tướng quân không nói sớm hơn. Nếu ta biết sớm, thì ta đã ra tay trong nội cung từ lâu rồi. Tên con hoang ấy đã hồn lìa khỏi xác dưới lưỡi kiếm của ta từ lâu rồi, hà tất phải điều binh khiển tướng rầm rộ thế này.
- Ông ấy rất hung dữ, võ công rất giỏi, còn ngài quá nho nhã, làm sao địch nổi ông ta. Mà dù có giết được ông ta, thì giang sơn nhà Tần vẫn nằm trong tay tên giặc họ Lã, số mệnh của ngài cũng khó mà bảo đảm. Cho nên mạt tướng nghĩ rằng phải dùng binh để tiêu diệt tên giả danh họ Doanh Tần kia, mới có thể phục hồi xã tắc họ Doanh Tần chân chính của chúng ta.
Vu Kỳ nói rõ ý đồ của mình, chứng tỏ mưu lược trí dũng kiêm toàn của một viên tướng có tài.
Trường An Quân Thành Kiều rốt cuộc đã nghe theo mưu kế của Vu Kỳ, nhưng chỉ còn e ngại rằng thân cô thế cô, tài hèn lực mọn, không hiểu có thắng được kẻ địch hùng mạnh kia không. Vu Kỳ bèn rút bản hịch văn mà ông ta đã viết sẵn nhằm mục đích trừng phạt tên giả danh họ Doanh Tần, đưa cho Doanh Thành Kiều và nói:
- Bản hịch này có sức mạnh như một đội quân hàng triệu người, huống hồ tất cả các tướng lĩnh đều đồng lòng chung sức ủng hộ ngài giành lại ngôi vị họ Tần đích thực. Cái tên giả danh họ Tần kia đã lộ nguyên hình, tất cả mọi người đang phỉ nhổ nó, ngày tận thế của hắn đã đến rồi!
Thành Kiều xem qua bản hịch rồi nói rất hí hửng:
- Tướng quân thật sự là cây bút đại tài, mỗi câu mỗi chữ của tướng quân đều có sức mạnh tựa nghìn quân! Khi nào việc của ta thành, khanh có thể được phong làm thừa tướng trông coi việc chính trị, và kiêm cả chức thống soái, thống lĩnh ba quân. - Nói xong lập tức sai người sao chép bản hịch thành mấy trăm bản, xong, cho kỵ binh hỏa tốc rải hịch văn ở khắp nơi. Sau đó, thay lá cờ hiệu của Thành Kiều (cờ hiệu của Thành Kiều là do vua Doanh Chính ban cho để sang Triệu tăng viện), đổi thành cờ khởi nghĩa, và tuyên bố cho bàn dân thiên hạ biết: Nay dấy binh thảo phạt kẻ giả danh họ Doanh Tần và tên lái buôn họ Lã, quyết phục hồi họ Doanh Tần chính thống.
Trong khi đó, Mông Ngao và Trương Đường đang bị vây hãm ở Nghiên Sơn và Khánh Đô (nay là khu vực miền Nam tỉnh Hà Bắc), bỗng nghe tin quân tăng viện đã đến Đồn Lưu (nay là vùng Sơn Tây), nên hai người rất mừng. Sau đó, Trương Đường đưa một toán kỵ binh cơ động, phá vây thoát ra ngoài để đến Đồn Lưu đón quân tiếp viện. Ai ngờ Trương Đường vừa đi đến nửa đường thì nhặt được bản hịch văn của Thành Kiều. Lúc ấy, Trương Đường đã nhanh trí quyết đoán hỏa tốc về ngay Hàm Dương để cấp báo, chứ không quay về trận địa ở Triệu nữa. Vì nếu quay về đó thì trước mặt và sau lưng đều bị quân địch chặn đánh, như vậy chẳng những không cứu được Mông Ngao mà bản thân mình cũng không thể giữ được cái đầu.
Khi về đến Hàm Dương, Trương Đường được Lã Bất Vi đưa đến gặp Doanh Chính ngay lúc nửa đêm. Tần Vương Chính cũng khoác ngay áo bào để tiếp kiến. Ngài hỏi gấp:
- Trương tướng quân vội vã về triều, chắc là có chuyện gì khẩn cấp ở mặt trận?
Trương Đường không đáp, chỉ cầm bản hịch văn bằng hai tay trình lên nhà vua và nói:
- Xin bệ hạ xem qua thì biết.
Doanh Chính cầm bản hịch văn, đọc qua, nội dung của bản hích văn như sau:
“Kẻ đang ngự triều tên là Triệu Chính, tính tình bạo ngược lai lịch bất minh. Truy nguồn là do gian thương họ Lã, đưa ca kỹ bụng đã mang thai đến gặp chủ nhân (Tức Doanh Dị Nhân - ND ); bày trò yến tiệc, cố sức đưa tình, mưu đồ hậu đãi về sau. Quả là sắc nước hương trời, cầm tay rồi lại môi cười đưa duyên. Thịt da người lẫn với đồ mời trên mâm, hãm tiên quân (Tức Doanh Dị Nhân - ND ) quấn quýt hồng quần; để rồi đi đến thành hôn, say hoa đắm nguyệt, sáng canh tối ngày. Kẻ kia tâm địa khó lường, nhăm nhe ngôi báu đại Tần của ta. Khi tiên đế hãy còn tại vị, họ Lã kia vốn người Dương Địch thương nhân lại đến ta giữ chức công khanh. Ca kỹ kia đưa con về Tần, cướp ngôi con trưởng, đánh bật Tử Hề vào ngồi cung cấm. Triệu Chính thừa tự, đại vương của Tần! Ô hô! Tiên vương đột ngột băng hà. Họ Triệu lên ngôi, đoạt vị tiếm quyền. Mắt thấy ngai vàng nhà Tần đang khốn đốn lung lay, do chính họ Lã kia đang tay chiếm đoạt. May có Trường An Quân Thành Kiều, đích thị họ Doanh Tần ta đó. Thành Kiều Vương là con đẻ của tiên vương, đang ở trong thế nghìn cân treo sợi tóc. Nhưng ý chí của ngài vượt cả đại tướng quân, như Văn Vương diệt Trụ, sao có thể nói là uổng công vô ích! Nay đem nhuệ khí thổi bùng dông bão, bố cáo khắp đô thị xóm làng, hướng thiên hạ vào cái đích đã rõ, gọi trời đất quy mối đồng tâm. Giương cao tay cờ, diệt trừ giống ác . Hiện tại quân ta ở hai ải Hào, Hàm và hai sông Kinh, Vi, đang rầm rập tiến về, sẵn sàng xông trận. Cờ bay phấp phới tua bồng, hỡi ai căm thù nghịch tặc, hãy lên ngựa xông pha, mau mau lập công trọng thưởng. Trống trận rền vang, quân uy hùng dũng; vung mạnh gươm đao, thây giặc ngập đường. Quyết biến chúng thành tro bụi, cho máu chúng chảy đỏ dòng sông. Đánh cho chúng hồn bay phách lạc, không còn một mống ở trần gian. Sức công thành bất khả chiến thắng, không thành nào chống nổi quân ta. Những ai từng là tướng soái hoặc đã nắm đại quân, hoặc từng chịu ơn sâu của tiên đế (Tần Chiêu Vương - ND) hay đã nhận trọng trách trước tiên vương (Hiếu Văn Vương - ND) đều đồng lòng đồng sức thề nắm chặt tay. Loạn trong triều chưa được bình dẹp, chín đỉnh đồng biết để vào đâu? Phải thẳng tay phế Triệu diệt Vi, tống cổ tên giả danh Doanh Chính, phục hồi Doanh Tần, để không phụ lòng số mệnh tiên vương (Trang Tương Vương - ND) kế tục dòng dõi, xây đắp giang sơn. Kẻ nào tham lam bổng lộc, theo hùa gian Doanh, phụ lòng ân đức tiên tổ, phải chịu đất diệt trời chu. Nay khí thế đang dâng cao, ngày phục hồi họ Doanh đã đến!”
Doanh Chính đọc một mạch hết toàn văn bài hịch, tức bầm gan tím ruột, nổi giận lôi đình. Ngài quát bảo thừa tướng Lã Bất Vi phong ngay Vương Tiễn làm đại tướng, sai con ông ta là Vương Bôn và Hoàn Nghĩ đi tiên phong, đưa mười vạn đại quân đi đường tắt suốt đêm đến đánh Đồn Lưu (nơi Thành Kiều đóng quân - ND). Khi quân đội khởi hành, Doanh Chính căn dặn quân lính nhất thiết phải bắt sống Phàn Vu Kỳ, đưa về Hàm Dương xử tử. Còn Thành Kiều thì tốt nhất là khuyên bảo đầu hàng, không được gây thương tích, chờ bẩm báo rồi sẽ xét sau.
Sự việc diễn ra nằm ngoài dự liệu của Phàn Vu Kỳ, các tướng lĩnh quân Tần nhận được hịch văn, không ai theo Thành Kiều chống lại triều đình. Bởi vì các võ tướng ấy biết rõ Doanh Chính rất thượng võ và hiếu chiến, đó là cơ hội rất tốt để họ được đi đánh trận để lập công và được phong chức tước. Còn Thành Kiều Trường An Quân thì hiền lành ít nói, nhu nhược, chắc là không thể tạo cơ hội cho họ có đất dụng võ và thi thố tài năng. Nghĩa là họ không cần biết Doanh Tần thật hay giả, trước mắt họ chỉ là con đường công danh và lợi lộc. Nhất là, họ nghĩ ngay rằng, nếu bây giờ đánh bại Thành Kiều thì được thưởng công lớn hơn rất nhiều so với chiến thắng Hàm Đan. Một điều quan trọng nữa là, lão tướng Mông Ngao chờ tướng Trương Đường đã lâu rồi, không thấy quay lại; nay lại nghe tin Thành Kiều và Phàn Vu Kỳ dấy binh nổi loạn, bèn quyết chí đơn độc tử chiến với tướng Triệu: Bàng Noãn và Hỗ Triếp, không may bị địch dùng mưu bắn chết. Con ông là tướng Mông Vũ chỉ đến chậm một bước chân, đành ôm xác cha mà khóc. Vị tướng trẻ này khóc thương cha nhưng trút mọi căm phẫn lên đầu Thành Kiều và Vu Kỳ. Ông bèn đưa quân đến phối hợp với các tướng Vương Tiễn, Trương Đường, Hoàn Nghĩ, Vương Bôn, lấy thêm số quân còn lại của Mông Ngao, Trương Đường, tất cả có ba mươi vạn quân, đến vây đánh Đồn Lưu.
Phàn Vu Kỳ hoàn toàn bị cô lập, một mình chạy đi chạy lại giữa Đồn Lưu, Trường Tử và Hồ Khẩu để nghênh chiến. Thành Kiều liều chết phá vòng vây chạy thoát, trốn sang nước Yên; vì lúc đó tướng dưới quyền của Thành Kiều là Dương Đoan Hòa đã dụ dỗ và ép Thành Kiều nhưng không được, nên đã để cho quân Tần ở bên ngoài vào chiếm Đồn Lưu. Vua Tần Doanh Chính hay tin Phàn Vu Kỳ trốn thoát, lại càng giận dữ hơn, bèn quyết định không tha tội cho Thành Kiều nữa. Thê thiếp của Thành Kiều và nhiều người khác trong hoàng gia hết sức khuyên can cầu xin, nhưng vô hiệu. Thành Kiều tuyệt vọng và tự vẫn. Toàn bộ dân chúng ở Đồn Lưu phải di chuyển đến Lâm Thao.
Hoa kia chưa nở đã tàn. Cuộc binh biến Thành Kiều chấm dứt hoàn toàn trong bi thảm.