← Quay lại trang sách

HỒI THỨ CHÍN THÁI TRẠCH ĐẾN YÊN ĐỂ GIAO HỮU VỚI NƯỚC XA-CAM LA LỪA NƯỚC GẦN, LẤY NĂM THÀNH CỦA TRIỆU----

Lịch sử thăng trầm và hưng vong của chế độ nô lệ Trung Quốc, kể cả thời kỳ tiên Tần từ Ngũ Bá thời Xuân Thu [i] cho đến Thất Hùng thời Chiến Quốc [ii], là giai đoạn lịch sử luôn luôn biến động về chính trị, thường xuyên xảy ra chiến tranh quân sự rất đẫm máu. Trong quá trình đó, nước nào cũng có nhân tài văn thao vũ lược, ai cũng có thế mạnh của mình. Nhìn toàn cảnh, y hệt như một vở kịch lịch sử uy vũ oai hùng. Trong đó, các nước cứ gầm ghè và uy hiếp nhau, khống chế và cầm cự với nhau, chống đối nhau quyết hệt. Sở dĩ có cục diện ấy là do có sự tự do di chuyển nhân tài và tự do giao lưu tư tưởng và học thuật. Phong trào “Trăm nhà đua tiếng” [iii] chính là biểu hiện của trình độ tư tưởng và văn hóa phát triển rất cao của thời kỳ lịch sử đó. Rất nhiều thắng lợi chính trị, quân sự to lớn thời bấy giờ đều do các bộ óc vĩ đại của phong trào trăm nhà đua tiếng làm nên.

Vua Tần Doanh Chính đưa Thái Trạch đi sứ ở nước Yên, là một thành công cực kỳ to lớn về mặt này.

Doanh Chính kế thừa di chiếu của tiên tổ dạy rằng: Muốn kế sách lâu dài, trước hết phải nắm được chư hầu. Vì vậy, việc đầu tiên là phải đánh bại nước Triệu. Đương nhiên, tốt nhất là tiêu diệt nước này. Huống hồ, ngay từ khi chào đời, Doanh Chính đã phải hứng chịu biết bao gian khổ và ức hiếp ở nước ấy. Ngay cả người cha (Tử Sở) cũng làm con tin hai mươi năm nhục nhã ở đó. Ông nội (Tần Chiêu Vương) cũng bị thất bại mấy phen ở nước Triệu. Rõ ràng là Doanh Chính và Triệu là kẻ thù không đội trời chung.

Nhưng từ khi Doanh Chính lên ngôi đến nay, tuy vẫn đưa quân đánh nước Triệu song không có thắng lợi căn bản. Truy xét nguyên nhân sâu xa, thì đó một phần là do nước Triệu có lực lượng quân sự hùng mạnh do thống soái Bàng Ngân đứng đầu. Một phần quan trọng là do Triệu liên minh với nước Yên, hình thành một lực lượng liên hợp hai nước vững mạnh; do đó, nước Triệu không phải lo phía sau, nên có thể tập trung toàn lực chống nước Tần. Trước tình hình đó, Doanh Chính mới ngót hai mươi tuổi, chưa nghĩ ra sách lược gì hay. May mà lúc ấy Lã Bất Vi đang đi Hàm Cốc nắm tình hình thiên tai, nên ngài liền đến cung Cam Tuyền gặp thái hậu để hỏi ý kiến. Thái hậu suy nghĩ một lúc rồi nói như để cho mình nghe. Bà nói:

- Trước đây thừa tướng Thái Trạch rất tài giỏi, thông minh, phán đoán như thần, nhưng đáng tiếc là không giữ chức vụ nữa.

Doanh Chính vội nói:

- Mặc dù ông ấy không tại chức nữa, nhưng vẫn có thể gọi ông ta đến để hỏi chuyện.

Thái hậu khoát tay ngăn lại và nói rằng:

- Thái Trạch là lão thần của tiên tổ, không nên gọi đến, mà bản thân con nên đến gặp ông ta.

Doanh Chính cảm ơn mẹ:

- Vương nhi xin làm theo ý mẫu hậu.

Nói rồi, Doanh Chính sai thị vệ chuẩn bị xa giá để đến thăm Thái Trạch tại phủ của ông. Thái Trạch thấy vua mới đến đột ngột, cảm thấy ngay rằng chắc là có chuyện gì trọng đại nên ông vua trẻ người còn hăng máu nhưng rất tự phụ này mới đến đây. Mười năm trước đây, khi Thái Trạch còn ở đỉnh cao của sự nghiệp cá nhân, ông đã tinh mắt nhìn thấy trong vương triều nhà Tần, mối quan hệ giữa nhà vua và các lão thần rất rối rắm phức tạp; nhất là quan hệ giữa Lã Bất Vi và Trang Tương Vương (Tử Sở) và thái hậu Triệu Cơ. Tần Doanh Chính, lại càng ngụy tạo, gian dối; và cũng rất nguy hiểm. Cũng chính vì phải lo cho thân mình khỏi bị bất trắc theo phương châm khôn sống mống chết nên ông ta (Thái Trạch) đã rút lui không chút do dự khỏi cương vị thừa tướng cao quý, về sống ẩn dật an nhàn. Tuy nhiên, Thái Trạch không phải là một học giả, mà là một nhà chính trị rất say mê với sự nghiệp; cho nên, ông ta tuy là nói rút về nhàn cư, song thực ra vẫn còn chân trong chân ngoài. Hai nhà vua, Hiếu Văn Vương và Trang Tương Vương ở ngôi quá ngắn. Hai vị này tuy có nghe ngóng ý kiến của Thái Trạch và Thái Trạch cũng có nêu một số kế sách, nhưng chưa được thực thi. Sau đó, hai vị quân vương qua đời, nên những chủ trương của ông đều bị xếp xó. Sau khi Doanh Chính lên ngôi, quyền thế của Lã Bất Vi ngày càng mạnh; ông này lại chuyên quyền, chưa bao giờ thèm để ý đến Thái Trạch. Hôm nay, Tần Doanh Chính đích thân đến đây, vị lão thần đã trải qua bốn đời vua cố nhiên là biết điều gì sắp xẩy ra. Mặc dù ông ta hơi xúc động, song vẫn cố giữ vẻ bình thản, lạnh lùng. Ông làm như thế là cốt để không tỏ ra vồ vập, hấp tấp, gây ấn tượng xấu cho các chính khách khác. Nghĩ vậy, ông sửa lại quần áo cho chỉnh tề, quỳ xuống chào rất cung kính:

- Lão thần Thái Trạch xin cung kính nghênh đón thánh giá!

- Xin Thái khanh đứng dậy, ngồi xuống nói chuyện. - Doanh Chính tỏ ra thân mật và khách khí, một điều rất hiếm có.

Sau khi ngồi vào chỗ, Thái Trạch hỏi:

- Hôm nay được bệ hạ thương hại đến nhà, chắc là có chuyện gì quan trọng cần bàn bạc?

Tần Doanh Chính cảm thấy hơi kinh ngạc, bèn hỏi:

- Ta chưa hé răng, sao khanh đã biết điều mà ta đang lo nghĩ?

- Bệ hạ nắm quyền, thừa tướng phụ chính, hỗ trợ cho nhau, mọi việc suôn sẻ. Nếu không gặp chuyện bất trắc, sao lại tìm đến lão thần tàn tạ này? - Thái Trạch cứ thẳng ruột ngựa, lời nói như đinh đóng cột.

Doanh Chính cười, dịu giọng:

- Khanh phán đoán rất giỏi, đúng là trẫm có việc hệ trọng rất nan giải, cần bàn với khanh.

- Chỉ cần lão thần có thể giúp được, nhất định sẽ chia sẻ gánh nặng với bệ hạ. - Đây là lần đầu tiên trong mười năm qua, Thái Trạch được trọng vọng như vậy, nên ông ta cũng nói chân thành.

Doanh Chính gật đầu, nói tiếp:

- Nhiều năm nay, nước đại Tần chúng ta đánh Triệu, khi thắng khi bại, đó cũng là lẽ thường tình về quân sự. Sở dĩ Triệu dám đối địch với nước ta, là vì có nước Yên liên minh với họ. Trẫm muốn đánh nước Yên. Nhưng lại sợ lực lượng bị dàn ra quá mỏng, nên rất do dự, chưa thể quyết định được.

- Điều mà bệ hạ lo nghĩ, cũng chính là điều tối kỵ của nhà binh. Tuy rằng Triệu khó mà kình địch được với đại Tần ta, nhưng ta cũng khó mà bắt họ hàng phục. Nếu đem quân đánh nước Yên ở nơi xa xôi, e rằng lo được đầu này sẽ bỏ mất đầu kia.

Doanh Chính cũng thấy rất bí:

- Trẫm cũng thấy khó khăn như vậy. Chẳng hay khanh có kế sách gì hay?

Để trả lời câu hỏi này, Thái Trạch đã giải thích chính sách “viễn giao cận công” (hữu nghị với nước ở xa, đánh nước ở gần) của cựu thừa tướng Phạm Thư và nói rằng chính sách ấy có thể thi hành được. Đồng thời, Thái Trạch nói ông ta sẵn sàng đi sang nước Yên một chuyến nhằm mục đích đó. Doanh Chính đồng ý chấp nhận ngay sáng kiến của Thái Trạch quyết định cử Thái Trạch làm phái viên đặc biệt (đặc sứ) của Tần tại nước Yên, thiết lập quan hệ hữu hảo với Yên, cô lập nước Triệu. Sau khi thực hiện được mục tiêu đó sẽ tập trung binh lực đánh Triệu. Nhưng Thái Trạch không đồng ý đi nước Yên với chức vụ đặc sứ của triều đình, vì muốn đến Yên phải đi qua Triệu, nếu bị phát hiện sẽ bị lộ, nước Triệu sẽ cảnh giác và như vậy sẽ hỏng việc. Vì vậy tốt nhất là lợi dụng danh nghĩa trở về quê quán, vì ông ta là người nước Yên, như vậy sẽ không gặp trắc trở dọc đường và khi về đến Yên, vua quan nước Yên cũng không nghi ngờ. Sau khi về đến Yên, phải kín đáo mai phục. Sau khi yên ổn rồi mới tìm cơ hội để từ từ triển khai công việc. Tóm lại, mọi việc phải hết sức cẩn mật, thận trọng; không thể làm rùm beng lên, chẳng hay ho gì, mà còn có thể hỏng việc.

- Khanh quả là nhà mưu lược kỳ tài, đáng mặt một tài năng lớn của thời đại. Trẫm rất khâm phục. - Doanh Chính không ngớt khen ngợi.

Thái Trạch nói, rất xúc động:

- Lão thần may mắn được ba đời tiên vương biết đến, nhưng rất tiếc là thời gian quá ngắn, nên chưa làm được công việc gì lớn, cảm thấy rất đau lòng. Nay bệ hạ giao trọng trách cho lão thần, nhất định thần sẽ gắng hết sức mình để làm thật tốt việc giao hữu với nước Yên, để hỗ trợ cho việc tấn công nước Triệu, đặng đáp ứng lòng mong mỏi của các tiên vương, báo đáp long ân của bệ hạ đã dùng đến lão thần. - Nói xong còn không cầm được nước mắt.

- Trẫm rất mừng vì thấy khanh rất mực trung thành, đáng quý biết bao!

Doanh Chính thấy bề tôi của tiên vương vẫn ủng hộ mình như vậy, cố nhiên rất mừng. Sau khi về cung, ngài kể lại tỉ mỉ với thái hậu. Thái hậu cũng rất vui mừng. Bà nói rất trịnh trọng:

- Nếu không nhắc nhở mẫu hậu, thì suýt nữa bỏ qua mất tấm lòng nhiệt thành vì đất nước của các lão thần. Xem ra việc gì cũng cứ hỏi ý kiến nhiều người sẽ tốt hơn.

Doanh Chính vội nói:

- Xin đa tạ mẫu hậu dạy bảo. - Nói xong, Doanh Chính về ngay cung Hàm Dương.

Mấy hôm sau, một chiếc xe hai bánh đơn sơ, mui che bằng vải thô cũ kỹ, do một con ngựa kéo, cứ lọc cà lọc cọc, chậm rãi lăn bánh trên đường. Xe đi về hướng Bắc. Trên xe, Thái Trạch ngồi lắc lư, mắt nhắm lim dim, thư thái, nhàn hạ. Trong thùng xe thấy một gói quần áo, chăn màn và sách. Nhưng ở tầng dưới, thì có vàng bạc, châu báu của nhà vua Doanh Chính ban cho. Còn có một tặng phẩm đặc biệt, được cất trong một cái hộp bình thường. Tặng phẩm này được sử dụng lúc cần thiết, do ông ta quyết định. Còn giấy thông hành thì cất trong người để tiện lấy ra lúc có người hỏi đến. Xe xuất phát từ Hàm Dương, ngày đi đêm nghỉ, đi qua già một nửa đất Tần, Thái Trạch thấy chiến tranh và thiên tai gây ra không biết bao hậu quả nặng nề cho kinh tế và đời sống nhân dân. Ông cảm thấy rất đau lòng, nghĩ rằng chính sách bành trướng bằng vũ lực gây nguy hại to lớn cho cả nước đi xâm lược lẫn nước bị xâm lược Nhưng lúc bấy giờ, vào thời kỳ của thời Chiến Quốc, dù nước lớn hay nước nhỏ, đều coi chiến tranh là nội dung quan trọng của chính sách quốc gia; mọi hoạt động nội chính hay ngoại giao đều lấy quân sự làm động lực, đều coi chiến tranh thắng hay bại là yếu tố quyết định sự hưng hay vong. thịnh hay suy của đất nước. Thái Trạch nghĩ rằng mình là một chính khách từng làm đến chức thừa tướng, nay lại cải trang để trở về nước mình, thực hiện một mưu đồ chính trị chẳng mấy đẹp đẽ gì, vậy thì làm sao mà sống cho dễ chịu, thanh thản được. Tuy nhiên, trước mắt ông ta vẫn cứ phải giả vờ như không biết chuyện gì cả, như vậy mới đi lọt qua các trạm kiểm soát dọc đường, để về đến nơi đến chốn. Hơn nữa, đúng như ông đã dự đoán, càng đến gần biên giới nước Triệu, càng bị kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, ông đã chuẩn bị từ trước, mỗi khi đến gần một trạm kiểm soát, ông đều xuống xe trước, đi bộ đến trước mặt viên quan canh gác, đưa giấy thông hành ra. Người này đọc kỹ giấy thông hành:

Họ tên: Thái Trạch, người nước Yên. Thừa tướng thời nhà vua trước của nước ta, đã thôi giữ chức mười năm nay. Nay vì già yếu, lại không hợp khí hậu nên trở về Quế Thành (nay thuộc địa phận huyện Quế tỉnh Hà Bắc) của nước Yên để tĩnh dưỡng tuổi già. Cùng đi theo có một xe ngựa và bốn người giúp việc gia đình, cùng một số hành lý. Xin các cửa khẩu các nước xem xét và cho đi.

Quan canh gác xem rất kỹ dấu đóng trên bản thông hành bằng da dê và ngày tháng năm. Mỗi khi người này kiểm soát hòm xiểng, Thái Trạch lại không khỏi lo lắng, tim đập hơi mạnh. Nhưng rất may là họ không phát hiện ra cái tặng phẩm ấy. Lúc này ông mới thở phào nhẹ nhõm. Ông còn vén quần lên cho người kia thấy đôi chân vòng kiềng của ông, vốn là bẩm sinh, nhưng nay ông nói rằng do không hợp khí hậu nên sinh ra thấp khớp nặng rồi bị như thế. Quan canh gác dĩ nhiên tin là thật, bèn trả lại giấy thông hành và cho đi. Khi vào bên trong nước Yên, ông mới thật sự yên tâm. Ông mở rộng tầm mắt, nhìn kỹ quê hương bản quán.

Khi về đến Quế Thành, dựa theo những điều ghi trên giấy thông hành, Thái Trạch được vào ở tại nhà khách của triều đình. Nhưng ông đóng cửa, không tiếp khách, không tiếp xúc với các quan chức chính quyền. Tin tức Thái Trạch về quê được đưa đến vua Yên là Vương Hỷ. Lúc ấy, Vương Hỷ hơi nghi ngờ, bèn sai người đến mời Thái Trạch vào cung tiếp đón rất thân tình. Với thái độ thận trọng, ngài hỏi Thái Trạch:

- Có phải chuyến về quê này của ông là do vua Tần Doanh Chính giao nhiệm vụ không.

Thái Trạch trả lời rất bình tĩnh:

- Tần hiện là một nước lớn, có việc gì quan trọng, chắc là phải cử những người đương chức như Trương Đường, Lý Tư chứ đâu cần đến kẻ già nua mốc meo vì đã thôi chức lâu năm rồi như lão phu này. Lần này lão phu về quê là để dưỡng lão và chữa cái bệnh thấp khớp. - Nói xong, liền đưa giấy thông hành ra để chứng tỏ ông nói đúng sự thật.

Vương Hỷ cười, ngài nói:

- Ông nói thành thật như vậy, làm sao ta lại không tin! Nhưng vì ông đã làm thừa tướng ở nước Tần, nước Yên lại là quê hương của ông, lẽ nào vua Tần lại bỏ qua mối quan hệ đặc biệt đó? Chẳng lẽ họ không nhân dịp ông vẻ vang về quê để nhờ ông làm những việc gì đó để tăng cường thêm tình hữu nghị và thông tin với chúng tôi?

Thái Trạch trả lời rõ ràng rành mạch:

- Sao lại có thể bỏ qua việc đó được? Tôi tuy đã thôi chức lâu rồi, nhưng các thành viên hoàng gia và công khanh đều có thỉnh thoảng lui tới gặp gỡ. Trong lúc chuyện trò với họ, tôi biết rằng họ hay nhắc tới câu chuyện đại vương (Vương Hỷ) năm nào làm con tin ở nước Triệu, đã tỏ ra rất hữu hảo với Trang Tương Vương (Doanh Dị Nhân), đã giúp đỡ Trang Tương Vương rất nhiều trong việc cải thiện hoàn cảnh lúc bấy giờ và mở ra những quan hệ tốt đẹp với tầng lớp trên ở nước Triệu lúc đó. Lại còn chuyện thái tử Đan, người con yêu dấu của ngài, sau đó cũng thay ngài làm con tin ở Triệu; thái tử cũng đã bất chấp tính mạng của mình, liều chết xông vào cứu Tử Sở ra khỏi lưỡi hái tử thần, nhờ vậy Tử Sở đã thoát nạn. Sau đó, còn giải cứu giúp vợ con Tử Sở sống yên ổn trong bảy năm gian nan khốn khổ. Nay hai mẹ con đang là thái hậu và đại vương nước Tần; họ luôn luôn căn dặn chúng tôi phai khắc cốt ghi tâm công ơn trời biển của nước Yên. Những điều nói trên, được truyền tụng rất rộng rãi ở nước Tần. Tôi là con dân của ngài, có quê quán là nước Yên, cũng được thơm lây cảm thấy rất tự hào và vinh dự.

Vua Yên Vương Hỷ nghe vậy, cảm thấy hết sức vui mừng vì nhà vua và thái hậu nhà Tần luôn luôn ghi lòng tạc dạ sự quan tâm, giúp đỡ của nước Yên trước đây, lại còn căn dặn thần dân của mình không được quên tình hữu hảo giữa Tần và Yên. Nhưng vẫn cảm thấy khó hiểu là tại sao vua Tần không nhân dịp Thái Trạch về nước để bày tỏ ý kiến rõ ràng, chính thức luôn?

Thái Trạch bèn tiết lộ rằng, tất cả những điều ông ta vừa nói, đều là ý chí của vua Tần. Nhưng tại sao vua Tần không bày tỏ những ý chí đó bằng hình thức cụ thể, đó là vì chuyến đi này phải đi qua nước Triệu, nếu các trạm kiểm soát phát hiện có giấy tờ ngoại giao chính thức thì không chỉ gây khó khăn cho chuyến đi, mà còn gây nhiều phiền toái cho quan hệ giữa hai nước. Bởi vì chuyến đi này là chỉ nhằm mục đích xây đắp tình hòa hiếu giữa Tần và Yên, nhưng nếu để nước thứ ba hiểu lầm, sẽ tổn hại đến quan hệ giữa hai bên. Tiếp đó, ông kể lại việc kiểm soát giấy tờ rất nghiêm ngặt ở dọc dường, nhất là ở cửa khẩu nước Triệu, nhưng rất may là họ không thấy dấu vết gì khả nghi nên mới “đầu xuôi đuôi lọt”. Khi kể những sự việc này, Thái Trạch không khỏi có chút huênh hoang, thêm giấm thêm ớt vào câu chuyện.

Vua Yên Vương Hỷ mừng lắm, ngài nói một cách khiêm tốn rằng, trước đây ngài suy nghĩ hơi đơn giản, nên đã hiểu lầm lòng tốt của vua tôi nhà Tần. Lời nói và việc làm của họ (vua tôi nhà Tần) đã bao quát được mọi quan hệ giữa họ với các nước, thật đáng mặt phong độ của một nước lớn.

Thái Trạch cứ sống bình dị như vậy ở quê hương cố quốc của mình, bề ngoài không khoác mũ cao áo dài, không mang một danh hiệu hay chức tước gì, nhưng đã ngấm ngầm hoạt động ngoại giao rất hiệu quả, dần dần được vua Vương Hỷ của nước Yên rất có cảm tình và tín nhiệm. Quan hệ giữa Cương Thành Quân (Thái Trạch) và vua Yên ngày càng thắt chặt, thân tình, lúc thì đánh cờ, lúc thì đi săn, lúc thì yến tiệc, xem ca múa. Qua đó, ông càng hiểu thêm nguồn gốc của quan hệ Tần và Triệu, cũng như tình hình cụ thể gần đây. Trước kia, thời vua Huệ Văn Vương nhà Triệu, hai nước Triệu và Yên thù địch nhau. Lúc hai nước sắp đánh nhau, vua nước Yên sai Tô Đại sang Triệu xin giảng hòa. Vua Triệu Huệ Văn Vương ỷ thế mình là một cường quốc quân sự, dọa rằng chiến tranh không thể tránh khỏi. Chẳng ngờ, khi yết kiến vua Triệu, Tô Đại chẳng hề nhắc đến chuyện giảng hòa hay chiến tranh, chỉ kể với vua Triệu câu chuyện như sau. Khi mình (Tô Đại) trên đường đến quý quốc, đi qua sông Dịch Thủy, thấy một con trai đang phơi mình trên bãi cát, bỗng một con cò bay tới và liền mổ thịt con trai để ăn. Con trai liền ngậm hai cái vỏ của nó lại, kẹp chặt mỏ của con cò. Cả con trai và con cò đều cố sức làm cho đối phương phải chết, nhưng rốt cuộc chẳng đi đến đâu. Khi hai bên đang giằng co nhau thì một ông lão đánh cá đi đến, thấy vậy liền tóm cổ cả hai chú dễ như bỡn.

Vua Huệ Văn Vương rất chăm chú lắng nghe. Tô Đại kể xong bèn kết luận rằng, chẳng nhẽ nhà vua lại muốn để cho nước Triệu và nước Yên trở thành con cò và con trai, và nước Tần sẽ là ông lão đánh cá hay sao. Kết quả, vua Triệu chấp nhận ý kiến Tô Đại, từ bỏ kế hoạch đánh Yên, ký thỏa ước hòa hiếu với vua Yên. Nhưng đến đời vua sau, vua Vương Hỷ của Yên nghe lời xúi giục của thừa tướng Lật Phục, hủy bỏ thỏa ước và tấn công nước Triệu. Đại phu của nước Yên là Tương Cừ ra đường chặn xe khóc lóc can gián đừng đánh Triệu, bị vua bắt giam chờ chém.

Về phía Triệu, vua Hiếu Thành Vương sai lão tướng Liêm Cố và danh tướng Lý Mục đưa quân tinh nhuệ ra nghênh chiến, chờ quân Yên đến là đánh. Tướng Triệu là Liêm Pha bố trí trận địa mai phục ở Phòng Tử Thành và Cao Thành, giả vờ thua để dụ quân Yên. Lật Phục (thừa tướng nước Yên) hiếu thắng nên cứ truy đuổi quân của Liêm Pha, kết cục mắc mưu Liêm Pha, bị bắt sống. Một viên tướng khác của Yên là Khanh Tần cũng bị tướng Triệu là Lý Mục chém chết trong trận Đại Thành. Hai anh em Xương Quốc Quân của nước Yên là Nhạc Nhàn và Nhạc Thừa bị đánh bại nên đã đầu hàng quân Triệu. Vua nước Yên là Vương Hỷ vừa buồn vừa hối hận, bèn phong Tương Cừ làm thừa tướng, sang Triệu xin giảng hòa. Để giảng hòa, nước Yên phải chém tướng Lật Phục để tạ tội nước Triệu. Ngoài ra còn phải cắt nhượng cho Triệu năm thành trì.

Trong thời gian hai năm Thái Trạch ẩn cư tại nước Yên, Kịch Tân được cử làm thừa tướng, thay Tương Cừ.... Kịch Tân nghe tin Liêm Pha đã bỏ nước Triệu, chạy sang nước Ngụy. Nước Triệu phải cử Bàng Noãn làm đại tướng quân. Kịch Tân cho rằng đây là cơ hội tốt, có thể đánh Triệu. Nghĩ vậy, ông ta liền xúi giục vua Yên là Vương Hỷ, đưa mười vạn quân đánh Triệu. Để đối phó với quân Yên, tướng Bàng Noãn của Triệu dùng chiến thuật: lấy nghỉ ngơi an nhàn, chống lại quân địch từ xa đến và đã mệt mỏi (“dĩ dật đãi lao”), từ đó, chuyển thế thủ thành thế công, đã cố sức đánh bại quân Yên tại Đông Viên và Phụ Thành, thừa tướng của Yên là Kịch Tân cũng tử nạn. Vua Yên là Vương Hỷ rất buồn. Ngài phải hạ mình phục chức cho đại phu Tương Cừ và sai ông này sang nước Triệu gặp đại tướng quân của Triệu là Bàng Noãn tạ tội xin hòa, và thề rằng nước Yên xin đời đời kiếp kiếp làm em của nước Triệu, và nước Triệu vĩnh viễn là người anh cả (huynh trưởng) của nước Yên; quan hệ đồng minh này sẽ là vĩnh hằng, thiên thu vạn đại. Nước Triệu lại giành được toàn thắng một lần nữa.

Sau vài ba năm để ý quan sát mối quan hệ lúc hòa lúc chiến, hết bạn lại thù giữa nước Yên và nước Triệu, Thái Trạch rút ra một nhận xét: thỏa ước liên minh hiện nay giữa hai nước rất mỏng manh, chỉ là một sự tự lừa dối mình và lừa dối người khác mà thôi. Nghĩ vậy, Thái Trạch thấy nay đã đến lúc có thể sử dụng cái tặng phẩm đặc biệt. Ông mở chiếc hòm, lấy ra hai chiếc hộp, nom bề ngoài rất bình thường, thực ra đó là hộp đựng quân cờ vây. Ông lấy vải bọc hai chiếc hộp cờ đó rồi vào nội cung gặp nhà vua Vương Hỷ để đánh cờ. Khi nhà vua thấy Thái Trạch mở miếng vải bọc và mở hộp, bỗng ngài bật cười, nói:

- Khanh buồn cười thật, sao lại mang cờ đến cơ chứ? Chẳng lẽ cứ mang đến là đánh thắng hay sao?

- Xin chớ coi thường bộ cờ này. Đây là cả một tấm thịnh tình đấy ạ. - Thái Trạch vừa cười vừa trả lời, vừa mở hộp ra.

- Khanh nói vậy, nghĩa là nếu Trẫm đánh thắng, khanh sẽ tặng Trẫm hộp cờ ấy - Vương Hỷ hỏi lại, vẫn giọng đùa vui.

Thái Trạch nói:

- Đại vương chỉ nói đúng một nửa.

- Chỉ đúng một nửa? - Vương Hỷ vẫn không hiểu.

- Đại vương nói, ngài thắng mới tặng, còn hạ thần thì nói thắng hay thua đều tặng đại vương. Vậy chẳng hóa ra đại vương chỉ nói đúng một nửa đó sao.

Vương Hỷ vẫn giữ vững ý kiến của mình. Ngài nói:

- Đánh thắng, được tặng là lẽ đương nhiên. Làm gì có chuyện thua cũng được tặng?

- Đó là một quy định không phải do hạ thần đặt ra, mà là của vua Tần. - Thái Trạch càng nói, càng để lộ chân tướng của sự việc.

- Thì ra là như vậy. Vậy ý tứ của vua Tần là như thế nào? - Vua Yên cảm thấy hơi lạ.

- Vua Tần Doanh Chính từ lâu đã ngưỡng mộ đại vương chơi cờ giỏi nên nhờ hạ thần mang bộ cờ này sang tặng đại vương để tiêu khiển và gửi lời chào đại vương. - Đến lúc này, Thái Trạch mới đi vào chủ đề.

Vương Hỷ vừa nghe xong liền trách Thái Trạch:

- Như vậy là khanh đã sai rồi đấy!

- Sao lại nói hạ thần sai ạ? - Thái Trạch vờ như không hiểu gì cả.

Vương Hỷ nói tiếp:

- Ta đã hỏi khanh nhiều lần rằng, vua Tần có nói gì về trẫm không, nhưng khanh không hề nói gì cả.

Thái Trạch cười có vẻ ranh mãnh:

- Thì đây là ý của Tần vương.

Vương Hỷ lắc đầu:

- Sao lại gọi là ý của ông ấy?

Bây giờ Thái Trạch mới nói một cách nghiêm nghị:

- Xin đại vương thử nghĩ mà xem, hai nước Tần và Yên cách xa nhau hàng nghìn dặm. Nước Tần vừa qua liên tiếp mấy lần quốc tang, nội tình rất rối ren, cho nên, mối bang giao với bên ngoài cũng có sơ suất. Nay nhà Tần muốn hòa hiếu với quý quốc, nên sai hạ thần sang thăm dò trước; vì rất sợ đại vương không chấp nhận tấm lòng nhiệt thành đó (của vua Tần) và như vậy sẽ uổng công vô ích. Cho nên vừa qua đành phải giấu kín trong lòng, không dám vội vàng bộc lộ...

- Việc là như vậy. Sao hôm nay lại cởi mở thế? - Vương Hỷ muốn biết cụ thể của sự việc.

Thái Trạch nói rõ hơn:

- Tháng vừa qua, nước Sở kêu gọi các nước Triệu, Ngụy, Vệ, Hàn “hợp tung” đánh nước Tần, và Sở đứng ra làm “thủ lĩnh hợp tung”. Bốn nước này đều theo Sở, chỉ riêng nước Yên của đại vương là không theo. Đủ thấy đại vương có thái độ hòa hiếu với Tần. Cho nên vua Tần mới bảo hạ thần mang bộ cờ này biếu đại vương để tỏ lòng đa tạ.

- Trẫm cũng đa tạ tấm thịnh tình của quân chủ quý quốc. Trẫm cảm thấy rất vui mừng! [iv]

Vương Hỷ vừa nói vừa tự cảm thấy rất may mắn. Bởi vì việc “hợp tung” đánh Tần mà Thái Trạch vừa nói, thực tế diễn biến như sau. Vua Sở là Khảo Liệt đứng ra kêu gọi, tướng Triệu là Bàng Noãn làm thống soái liên quân năm nước “hợp tung” đánh Tần. Nhưng nước Yên không tham gia là vì nước Yên bị nước Triệu đánh bại nhiều lần, gây tổn thương rất lớn đến nguyên khí quốc gia. Nay lại thấy Tần quá mạnh, nên Yên đã từ chối lời mời tham gia liên quân hợp tung. Ngay cả thầy dạy thái tử là Cúc Vũ, thái tử Đan và công tử Dần Lực cũng khuyên Vương Hỷ cứ đánh, nhưng Vương Hỷ không nghe, kiên quyết trung lập. Nay xem lại thấy chính sách ấy là đúng. Vì sau đó, hợp tung năm nước đã bị thất bại. Nếu lúc ấy nước Yên tham gia, thì sự thất bại quân sự cố nhiên là chẳng đẹp mặt gì, nhưng quan trọng là mắc tội với nước Tần, để lại hậu quả không nhỏ! Nay nước Yên có thể tồn tại yên ổn trong mối quan hệ cầm cự gầm ghè nhau giữa các nước nói trên, quả thật chẳng dễ dàng chút nào. Vì vậy, việc vua Tần Doanh Chính tặng bộ cờ này, thật sự có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nghĩ đến đây, Vương Hỷ thở phào nhẹ nhõm, cảm thấy như trút bỏ được một gánh nặng. Vì vậy ngài lấy bàn cờ ra để chơi với Thái Trạch. Nhưng Thái Trạch vội ngăn lại và nói:

- Xin đại vương hãy khoan, hạ thần vẫn còn câu chuyện muốn nói tiếp.

- Khanh đã nói rằng dù thắng hay thua cũng cho ta bộ cờ này mà? - Vương Hỷ chẳng hiểu câu chuyện tiếp theo là gì nữa.

Câu chuyện tiếp theo của Thái Trạch thật ra là quá ư đơn giản. Thái Trạch nói:

- Xin hỏi đại vương, trong một ván cờ, mỗi bên đi bao nhiêu nước cờ? Và tổng cộng phải đi bao nhiêu nước cờ?

- Một ván cờ, mỗi bên đi 180 nước, hai bên đi 360 nước. - Vương Hỷ nói ngay, chẳng cần suy nghĩ gì cả và còn cảm thấy buồn cười, là vì chẳng hiểu sao, ông già này lại hỏi vớ vẩn thế.

- Vậy xin hỏi đại vương, trên bàn cờ có bao nhiêu ô? [v] - Thái Trạch lại hỏi tiếp.

- Có 361 ô (thực ra là 361 góc). - Vương Hỷ cũng trả lời ngay, không cần suy nghĩ.

- Thừa ra một ô, để làm gì vậy? - Thái Trạch hỏi đến cùng.

- Thừa ra một ô, là để bên cầm quân đen đi trước. - Vương Hỷ cứ thấy hỏi là trả lời.

Đến đây, Thái Trạch lại giơ hai tay vái Vương Hỷ một lần nữa, rồi nói:

- Xin đại vương tha lỗi cho hạ thần cứ nói lằng nhằng mãi. Vừa rồi hạ thần hỏi đi hỏi lại, hỏi đến ai cầm quân đen thì đi trước. Đó chính là ý của vua Tần Doanh Chính đấy ạ!

- Quân chủ của khanh tuổi còn nhỏ nhưng ý tứ không nhỏ chút nào! - Vương Hỷ vừa nói vừa cười dí dỏm.

- Nhà vua Doanh Chính của hạ thần biết mình tuổi còn nhỏ, về mọi mặt đều chưa sánh bằng đại vương. Chẳng hạn như đánh cờ, ngài cũng đành cầm quân đen. - Thái Trạch giải thích.

Vương Hỷ vội nói nhún nhường:

- Khanh nói quá lời. Tần Vương Chính tự cầm quân đen, đủ chứng tỏ ông ấy khiêm nhường và rất có phong độ. Nhưng chẳng ai biết quân nào đi trước là tài giỏi như thế nào?

Thái Trạch không trả lời. Ông ta chỉ mở hộp quân đen ra, đổ lên bàn cờ, đưa tay gạt bằng ra, một màu quân đen lấp lánh. Bỗng Thái Trạch nhặt ra một quân bằng ngọc màu xanh mắt mèo, và đưa cho Vương Hỷ. Ông nói:

- Đây là quân cờ đen mà quân chủ hạ thần Tần Doanh Chính tặng đại vương.

Nhà vua Vương Hỷ cầm lấy quân cờ bằng ngọc, khen rằng:

- Đây là ngọc mắt mèo do vùng Lam Điền [vi] của quý quốc sản xuất. Rất quý hiếm.

- Thưa, cái quý hiếm nhất là mấy chữ khắc trên đó, xin đại vương xem qua. - Thái Trạch vội bước đến gần nhà vua, chỉ tay vào mấy chữ trên viên ngọc.

Vương Hỷ giơ lên xem tận mắt, thấy rất rõ tám chữ viết theo kiểu “đại triện” [vii], khắc nét rất nhỏ, lại mạ vàng, nên rất dễ thấy: “Tây Tần Bắc Yên, hữu hảo chi minh” (nước Tần ở phía Tây, nước Yên ở phía Bắc; bạn đồng minh hữu hảo).

- Tuyệt! Tuyệt! Trẫm cứ nghĩ rằng Tần Doanh Chính thích gươm đao, say chinh chiến, luôn luôn hùng hổ xông trận. Nào ngờ ông ta lại rất văn vẻ, tư duy sâu sắc, ngu ý thâm thúy, văn võ toàn tài, trẫm rất khâm phục. - Vua Vương Hỷ sau khi xem dòng chữ khắc trên viên ngọc, tỏ rõ cự cảm phục đối với vua Tần Doanh Chính.

Thái Trạch nói rất trịnh trọng:

- Vua Tần Doanh Chính tặng cờ cho vua Yên, không chỉ để tỏ lòng ca ngợi tài đánh cờ của ngài, mà còn muốn cảnh tỉnh ngài: chiến trường cũng giống như bàn cờ, cần phải thận trọng, mỗi bước tiến lên phải là một bước chắc chắn nhất. Nếu đi một nước cờ sai, sẽ thua cả ván. Một tay cờ cao thủ, nhất định phải giỏi tấn công và biết phòng thủ, quyết không thể hiếu thắng nóng ăn, để hấp tấp đi liều. Gần mười năm nay, nước Yên luôn luôn bị nước Triệu đánh bại. Đó là bài học đau đớn, điều bí quyết ở đây là, trong khi thế cờ hai bên cân bằng nhau, thì phải thấy được nguy cơ bị đối phương đánh diệt đang tiềm ẩn đâu đó, như vậy mới không thể bị mắc lừa bởi “hiện tượng giả” trước mắt.

Nhà vua Vương Hỷ vội cảm ơn Thái Trạch. Ngài nói rằng câu chuyện của Thái Trạch vừa rồi đã đánh trúng nhược điểm của ngài. Đó là thỉnh thoảng thích đi bừa một vài nước, kết quả là mắc mưu địch rồi chuốc lấy thất bại! Thái Trạch bèn khuyên nhà vua tăng cường ý thức tự bảo vệ mình; và hứa với nhà vua rằng nước Tần hết sức coi trọng quan hệ hòa hiếu với nước Yên. Câu viết của Tần Doanh Chính trên quân cờ bằng ngọc mắt mèo là bằng chứng về điều đó.

Nuôi quân ngàn ngày, chỉ dùng một buổi. Thái Trạch đến ở nước Yên ba năm, hơn một ngàn ngày. Bằng con mắt quan sát sâu sắc, bằng tư duy thông minh, bằng tài năng chính trị cao siêu, Thái Trạch đã thành công rất lớn trong việc bang giao hữu hảo với nước Yên ở xa. Vua Yên Vương Hỷ không chỉ coi Thái Trạch là người thầy tốt, người bạn thân tình của mình, mà còn coi ông là chiếc cầu nối tình hữu nghị Tần, Yên. Thậm chí còn muốn mời ông làm thừa tướng nước Yên. Thái Trạch cảm ơn tấm thịnh tình của nhà vua, nhưng nói rằng không thể nhận lời mời của nhà vua vì làm như vậy sẽ bị hiểu lầm là ông đến nước Yên chỉ vì mục đích cá nhân; và điều này đều rất bất lợi cho cả việc công lẫn việc tư. ông đề nghị nhà vua Vương Hỷ nên cử một thành viên hoàng gia hoặc một đại thần sang sứ nước Tần, để bày tỏ sự tin cậy lẫn nhau. Vương Hỷ chấp nhận đề nghị đó và cử thái tử Đan cùng đi với Thái Trạch sang Tần. Thái tử Đan là con tin của Yên tại Hàm Dương, cũng coi như để đáp lại ba năm Thái Trạch ở nước Yên. Đồng thời, nhân dịp này, thái tử Đan lại ôn lại tình hữu nghị với Tần Doanh Chính. Điều này sẽ rất bổ ích cho việc tăng cường và củng cố quan hệ hữu nghị giữa hai nước.

Tần Doanh Chính và Lã Bất Vi hết sức khen ngợi Thái Trạch đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, và đã trọng thưởng cho ông. Nhà vua Doanh Chính cũng rất vui mừng khi gặp lại thái tử Đan sau nhiều năm xa cách. Đặc biệt, giờ đây, ngài tiếp thái tử Đan của nước Yên với tư cách là quân chủ đại Tần; điều này làm cho ngài thêm tự hào. Tuy nhiên, để thể hiện nguyên tắc ngang bằng nhau về ngoại giao, Tần Doanh Chính và Lã Bất Vi đã cử Trương Đường sang nước Yên làm thừa tướng. Nhưng Trương Đường không chịu đi, vì rất sợ bị ám hại khi đi qua nước Triệu; bởi lẽ, trước đây, ông đã nhiều lần đưa quân đánh Triệu. Trong lúc đang khó khăn như vậy, thì có một chú bé mười hai tuổi tên là Cam La, môn khách của Lã Bất Vi đứng ra xin đi sứ sang Triệu, để thăm dò thái độ của vua Triệu là Điệu Tương Vương. Lã Bất Vi thấy cậu còn ít tuổi quá, tuy nhiên đã tỏ ra có tài, vả lại, lúc ấy đang thiếu người, lại không tìm được ai hơn, nên đành phải giới thiệu cậu bé cho nhà vua, cũng để thử xem. Nhà vua vừa nghe nói vậy, đã thấy không thể được. Nhưng sau ngài nghĩ lại thấy rằng, đây là do “trọng phụ” tiến cử, nên cũng cứ tìm hiểu xem sao, coi thử cậu bé này có biệt tài như thế nào. Nghĩ vậy, ngài bèn cho gọi vào gặp.

Cam La theo sau Lã Bất Vi đi vào cung Hàm Dương để yết kiến vua Tần Doanh Chính. Đi vào cung điện thâm nghiêm, quan quân canh gác khắp nơi, cũng như khi đến trước mặt nhà vua uy nghi lẫm hệt, Cam La vẫn rất bình tĩnh tự tin, quỳ lạy ba vái một cách đàng hoàng chững chạc. Sau khi hỏi rõ họ tên tuổi tác, nhà vua bảo cậu ta đứng dậy để hỏi chuyện. Ngài hỏi:

- Nhà ngươi mới mười hai tuổi, làm sao có thể đảm đang nổi sứ mạng to lớn của một sứ thần?

- Người đời nói: Không có chí thì sống trăm tuổi cũng như không; tuổi nhỏ có chí lập công mới tài. Bệ hạ lúc mười ba tuổi đã lên ngôi, mắt nhìn trăm họ, trị nước điều quân, kinh hoàng thiên hạ. Tiểu thần tuy nhỏ tuổi, nhưng muốn tựa vào cái uy và cái đức của bệ hạ, đi sứ nước Triệu, để nêu cao oai phong của đại Tần, vậy làm sao mà vua Triệu có thể coi khinh tiểu thần được? - Đối đáp của Cam La không có chút gì là huênh hoang hay quá rụt rè, rất có thể diện.

Nhà vua thấy cậu bé đề cao mình, cảm thấy rất vừa lòng, bèn cười và nói:

- Nước Triệu từ trước đến nay luôn tự cho mình là cao siêu. Nay nhà ngươi sang đó ứng phó với họ, liệu trong đầu óc đã có chuẩn bị gì chưa?

Cam La trả lời một cách ung dung rành mạch:

- Bản tính của ngũ hành [viii] là vừa bổ trợ cho nhau, vừa xung đột lẫn nhau. Tiểu thần hiện chưa biết vua Triệu thuộc bản tính nào, nên làm gì mà có sẵn cách ứng phó trong đầu óc được. Theo tiểu thần, thì mọi chuyện không nên câu nệ cố chấp mà phải tùy nơi tùy lúc để linh hoạt ứng phó; nếu không sẽ bị gò bó.

Nhà vua thấy cậu bé không chuẩn bị gì cả, ngài rất lo, bèn hỏi:

- Hoàn toàn không chuẩn bị gì cả như vậy thì làm sao mà chống đỡ được với họ?

- Đại vương rất sáng suốt: đấu khẩu cũng như đấu kiếm [ix]. Đại tướng ra trận, làm sao biết trước được trận địa của địch bố trí như thế nào. Tất cả đều tùy theo tình hình cụ thể lúc lâm trận để quyết định. Tiểu thần bất tài, nhưng thấy binh pháp có nói: Giặc đến thì đem quân ra đánh, nước đến thì đắp đập ngăn lại [x], lấy “mộc” chống “thổ”, lấy “kim” chống “mộc”, lấy “hỏa” chống “kim”, cứ thế, có gì mà khó đâu ạ. - Cam La vừa nói vừa minh họa cụ thể sinh động, rất là chí lý.

- Đã đành như vậy. Nhưng vua Triệu thấy nhà ngươi còn ít tuổi, họ đem vạc dầu đang sôi, và dao kiếm búa rìu ra dọa ngươi, ngươi có sợ không? - Nhà vua muốn thử xem cậu bé này có to gan hay không.

Cam La trả lời, không hề tỏ ra mềm yếu, sợ hãi:

- Tiểu thần tuổi còn thơ ấu, đúng là còn nhỏ thật. Nhưng lại là sứ thần của đại Tần, vậy nó to lớn biết bao. Ai dám đưa vạc dầu, đao búa ra đe dọa thằng nhỏ này, vậy họ không sợ trăm vạn hùng binh của nước đại Tần hùng mạnh hay sao?

Qua tiếp xúc với Cam La, nhà vua thấy cậu bé thật sự có trí tuệ xuất sắc, đảm lược hơn người, có thể giao phó trọng trách, bèn giao cho mười cỗ xe ngựa rất đẹp, một trăm người hầu cận. Đoàn sứ giả của Cam La ra đi giữa hai hàng quân bồng gươm chào; chiếc xe đi đầu giương cao lá cờ phất phới tung bay, đoàn xe rong ruổi trên đường sang nước Triệu.

Nếu như trước đây, Thái Trạch đến nước Yên là lấy danh nghĩa đi tĩnh dưỡng nơi danh lam thắng cảnh thì giờ đây, thái tử Đan đến Tần với sứ mệnh được tuyên bố rõ ràng là làm con tin với mục đích duy trì quan hệ hữu hảo giữa hai nước. Vua nước Triệu cố nhiên biết rõ hai nước Tần và Yên đã liên kết đồng minh với nhau. Vì vậy, Triệu rất lo lắng Yên sẽ phản bội Triệu, bắt tay với Tần, nên đã hết sức chú ý theo dõi mọi động thái của Tần. Nay thấy Tần cử sứ thần sang mình (Triệu), chẳng hiểu có chuyện gì đây. Cho nên, tuy vẫn nghênh đón sứ thần, nhưng trong lòng vua vẫn thấp thỏm không yên. Khi thấy sứ thần là một chú bé miệng còn hơi sữa, bèn cảm thấy yên tâm. Vì cho rằng thằng nhãi này thì dễ đối phó thôi. Vì vậy, sau khi hành lễ xong, nhà vua bèn bắt chuyện ngay với Cam La một cách rất tùy tiện, kẻ cả. Ngài hỏi:

- Chẳng hay thượng khanh năm nay bao nhiêu tuổi?

- Hạ thần sinh sau đẻ muộn, mới chỉ bỏ phí mất mười hai tuổi - Cam La trả lời nghiêm túc, thẳng thắn.

Nhà vua Điệu Tương Vương nghĩ thầm: Mới mười hai tuổi đầu mà đã nói cái gì “bỏ phí”, thật là huênh hoang khoác lác mà không biết thẹn, bèn cố ý châm chọc Cam La. Ngài hỏi:

- Nước Tần có nhiều lão thần, không thiếu tráng niên, cớ sao chỉ phiền thượng khanh, trước đã bỏ phí mất mười hai năm, nay lại phải uổng công đến đây?

- Tần vương tài giỏi anh minh, biết phân biệt việc gì lớn việc gì nhỏ. Những việc lớn của nhà nước quân sự, đều do các bậc trưởng lão đảm nhiệm. Kẻ sinh sau như tiểu thần, chỉ đáng làm những việc nhỏ mọn mà thôi. - Cam La đáp lại nhà vua một câu rất đích đáng.

Nghe vậy, nhà vua mới nghĩ rằng “lai giả bất thiện” (kẻ đến là người không tốt), bèn hỏi thêm, có ý thăm dò:

- Nghe thượng khanh nói, trẫm bèn nghĩ tới một bậc tiền bối của nước Tần.

- Chẳng hay đó là ai? - Cam La cúi mình, hỏi lại.

Vua Triệu nói rất tự nhiên:

- Một danh tướng của nước Tần cách đây bảy mươi năm, vị ấy là Cam Mậu. Chẳng hay thượng khanh có biết không?

Cam La vội chắp tay vái và nói:

- Rất may được đại vương quá khen. Đó là cụ nội của tiểu thần.

- Té ra thượng khanh là cháu chắt của thừa tướng Cam Mậu, hậu sinh khả úy, chắc là thượng khanh đến đây làm việc lớn đấy? - Vua Triệu muốn nhân dịp này dò hỏi ý đồ của sứ thần.

- Việc lớn quả thật không có; chỉ phụng mệnh Tần vương đến đây thông báo với đại vương hai việc nhỏ. - Cam La cố tình đơn giản hóa sự việc.

- Xin thượng khanh cho biết ngay đi! - Vua Triệu hơi sốt ruột.

Cam La nhìn nhà vua rồi nghiêm sắc mặt lại và hỏi:

- Chẳng hay đại vương có biết việc thái tử Đan nước Yên đến làm con tin ở Tần và Trương Đường của Tần đến nước Yên làm thừa tướng hay không?

- Ta đã nghe nói từ lâu, nhưng đó là công việc của hai nước Tần và Yên, có liên quan gì đến nước này đâu.

Vua Triệu vờ tỏ ra rất thản nhiên, không chút xúc động, cốt dò xét phản ứng của Cam La. Không ngờ Cam La đã đưa ra câu trả lời để “chấm hết”:

- Đại vương nói chẳng có quan hệ gì đến mình, vậy tiểu thần còn phải đến đây làm gì nữa. - Nói xong, liền đứng dậy để đi ra, cố tình chắp tay bái chào và nói - Tiểu thần xin cáo từ!

Lúc này Điệu Tương Vương mới thật sự tỏ ra lúng túng. Ngài vội sai hoạn quan níu áo Cam La lại, bản thân cũng vội vàng bước theo mấy bước, để mời Cam La quay lại chỗ cũ. Ngài nói khiêm tốn:

- Vừa rồi nói năng không được thỏa đáng, mong thượng khanh bỏ quá đi cho. Nay xin thượng khanh nói rõ ý chỉ của Tần vương.

Cam La nhắc nhở vua Triệu:

- Nước Yên ký kết liên minh với Triệu trước, sau đó mới hòa hiếu với Tần; nhưng còn cử con tin sang Tần và mời Trương Đường làm thừa tướng. Vậy nước ấy (Yên) thân hay không thân với Tần hay với Triệu, chẳng phải điều đó rất rõ như ban ngày đó sao?

Vua Triệu nghe nói vậy, cảm thấy chẳng biết làm thế nào, đành phải nói rằng:

- Nước Tần và nước Yên đã liên kết với nhau chặt chẽ như vậy, chắc chắn là sẽ bắt tay nhau đánh nước Triệu. Vậy ta chỉ có hai tay sao chống nổi bốn tay. Nước Triệu ta chắc không tránh khỏi nguy cơ đang ập đến!

Cam La nói với vua Triệu một cách xảo quyệt:

- Tiểu thần đến đây là cốt để chiếu cố đến đại vương, đại vương có muốn trả một cái giá ít thôi, để tránh cái tai hoạ mất nước hay không?

Vua Triệu bèn vội hỏi:

- Phải trả giá như thế nào?

Cam La nói:

- Đại vương phải cắt nhượng cho Tần năm thành trì ở ven sông giáp giới hai nước Tần và Triệu.

Vua Triệu thấy phải cắt nhượng năm thành trì là quá lớn, nên cứ chần chừ mãi, không chịu nhận lời. Cam La bèn dọa:

- Nếu đại vương không nghe, tất nhiên vua Tần sẽ hợp lực với nước Yên để đánh Triệu, đại vương sẽ bị đánh từ trước mặt và sau lưng, sao mà không mất nước được. Lãnh thổ cả nước so với năm thành trì đâu to đâu nhỏ, cái giá nào lớn, giá nào bé, đại vương không hiểu ư?

Vua Triệu đăm chiêu trong đau khổ một lúc rồi nói:

- Hiện nay các nước đều lừa gạt dối trá lẫn nhau, nay nếu ta cắt cho Tần năm thành trì, cho dù Tần không đánh ta, nhưng ta bị suy yếu đi, chẳng may nước Yên đánh ta, thì ta làm thế nào để chống lại đây?

Cam La lập tức hứa với vua Triệu rằng, nếu nước Triệu đáp ứng yêu cầu của Tần thì vua Tần nhất quyết không lá mặt lá trái, đi liên kết với nước Yên để đánh Triệu, và cũng không cử Trương Đường sang làm thừa tướng ở nước Yên nữa. Như vậy, nước Triệu cứ việc tấn công nước Yên. Nước Triệu xưa nay mạnh hơn nước Yên rất nhiều, đất đai mà Triệu chiếm được (của Yên) sẽ lớn hơn rất nhiều so với năm thành trì ấy.

Vua Điệu Tương Vương nghe Cam La nói vậy, nỗi lo buồn vụt biến mất, ngài rất mừng, bèn bày tiệc mời khách rất thịnh soạn, lại còn trao tặng Cam La vàng bạc và nhạc cụ. Ngài cho vẽ bản đồ năm thành trì, dùng gấm gói lại và nhờ Cam La đưa cho vua Tần.

Cam La đi sứ lúc còn tuổi thiếu niên, dùng ba tấc lưỡi mà chiến thắng vua Triệu, lấy được năm thành trì của họ dễ như trở bàn tay. Vua Tần quá mừng, bèn trọng thưởng cho Cam La; cũng không cử Trương Đường sang nước Yên nữa, nhằm thực hiện lời hứa với Triệu. Vua Triệu Điệu Tương Vương rất tâm đắc với những gợi ý của vua Tần (qua Cam La), nên bất ngờ tấn công mãnh liệt nước Yên, chiếm được ba mươi thành trì, trong đó có Thư Dương và tặng cho Tần mười một trong số ba mươi đó.

Vua Tần đích thân viết chiếu thư, đặc cách sắc phong Cam La làm “thượng khanh”, để biểu dương công lao của vị đại thần nhỏ tuổi.

Chú thích:

[i] Ngũ Bá thời Xuân Thu: năm nước lớn xưng bá thời kỳ 722 - 481 trước Công nguyên (Xuân Thu). Có bốn ý kiến hơi khác nhau về Ngũ Bá: 1. Tề (Tề Hoàn Công), Tống (Tống Tương Công), Tấn (Tấn Văn Công), Tần (Tần Mục Công), Sở (Sở Trang Vương). 2. Ngoài Tề, Tấn, Sở như trên, hai nước còn lại là: Ngô (Hạp Lư) và Việt (Câu Tiễn). 3. Ngoài Tề, Tấn, Sở, Ngô như số 2, nước còn lại là Tần. 4. Ngoài Tề, Tấn, Tần như số 3, hai nước còn lại là: Tống và Ngô (Phù Sai) - ND.

[ii] Thất Hùng thời Chiến Quốc (475 - 221 trước Công nguyên): Bảy nước hùng mạnh gồm: Ngụy, Triệu, Hàn, Tề, Tần, Sở, Yên - ND.

[iii] "Trăm nhà đua tiếng": phong trào tranh luận sôi nổi của giới nghiên cứu, học thuật thời Chiến Quốc (478-221) trước Công nguyên. Thời đại ấy, xã hội cổ đại Trung Quốc có những biến động lớn, tầng lớp sĩ phu, trí thức tăng lên rất nhiều, nhiều người mở trường tư dạy học. Đó là kết quả của sự phát triển lâu dài trước đó của nền văn hóa đa dạng và rất phong phú. Các nhân vật tiêu biểu trong đám trí thức đó đua nhau viết sách, nêu ra lý thuyết của mình. Từ đó, ra đời các học thuyết mà lúc đó gọi là "gia", gồm: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Danh gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Tung Hoành gia, Nông gia, Tạp gia. Trong đó, chủ yếu là Nho do Khổng Tử sáng lập; Mặc do Mặc Địch sáng lập; Danh do Huệ Thi và Công Tôn Long là người tiêu biểu (bàn về quan hệ giữa danh và thực, hoặc giữa hư và thực); và Pháp do Thương Ưởng và Hàn Phi là người tiêu biểu. Có ý kiến nói thời ấy có 189 nhân vật tiêu biểu cho các môn phái nói trên, cho nên mới gọi là trăm nhà đua tiếng - ND.

[iv] Nguyên văn: "Trẫm cảm thấy hổ thẹn trong lòng" - ND

[v] Nói "ô" là không thật đúng; vì khi đánh cờ, người chơi cờ cầm quân cờ đi vào "góc vuông" của ô. Chữ Hán gọi là "tử vị”, tức là vị trí của quân cờ. Như vậy trên bàn cờ có 360 "ô" nhưng có tới 361 góc (tử vị) - ND.

[vi] Lam Điền: nay là vùng thượng lưu sông Bá Hà, chảy qua miền Đông thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây - ND.

[vii] Chữ "đại triện": một kiểu chữ Hán ra đời từ thời nhà Chu. Chữ "tiểu triện" do Lý Tư sáng tạo từ thời nhà Tần

[viii] Ngũ hành: năm yếu tố cấu thành vạn vật: Kim (kim loại), mộc (gỗ), thủy (nước), hỏa (lửa), thổ (đất). Đây là tư tưởng duy vật biện chứng sơ khai của các nhà tư tưởng cổ đại Trung Quốc, về sau bị thần bí hóa, biến thành mê tín dị đoan - ND.

[ix] Nguyên văn: "Thiệt chiến diệc như binh chiến". Có nghĩa: Chiến tranh bằng lưỡi cũng giống như chiến tranh bằng quân lính - ND.

[x] Nguyên văn: "Bình lai tương đảng; thủy tai thổ yêm”- ND.