HỒI THỨ MƯỜI THÁI HẬU KHÔNG QUÊN TÌNH XƯA NGHĨA CŨ-LÃ BẤT VI TÌM CÁCH ĐƯA LAO ÁI VÀO CUNG-----
Có thể nói những nét đặc trưng cơ bản về thể chất, tư tưởng, tính cách và trải nghiệm của Doanh Chính đều đã được hình thành một cách đặc biệt ngay khi còn ở trong bào thai của người mẹ. Nhờ có thời gian mang thai tới mười hai tháng nên không chỉ bảo toàn được danh tiết của người mẹ mà còn che giấu được tiếng xấu của người cha; hơn nữa, lại sinh ra một con người độc nhất vô nhị. Tiếp đó, lại trải qua một cuộc sống gian khổ kéo dài khoảng mười năm, kể từ khi cậu bé còn nằm trong nôi. Tất cả những điều đó đã đặt một nền móng vững chắc cho Doanh Chính sau này lên ngôi báu và nắm chính quyền, đi chinh chiến. Mười năm khốn khổ và bị sống nhục nhã ở nước Triệu đã bồi dưỡng tính quật cường, cương nghị và hung bạo của ông. Việc mất cha và lên ngôi từ lúc còn ít tuổi đã làm cho ông sớm chín muồi về tư tưởng và chính trị. Thông qua cuộc đời chính trị của cụ nội (Chiêu Vương) của ông nội (Hiếu Văn Vương) và của cha (Tử Sở) ông hiểu sâu sắc về cái khó khăn, vất vả của việc trị nước, bình thiên hạ. Huống chi, ông còn quyết chí nêu cao ước nguyện của các tiên vương để thực hiện sự nghiệp vĩ đại là tiêu diệt sáu nước (Triệu, Yên, Sở, Tề, Ngụy, Hàn), thống nhất Trung Quốc. Khi kế vị ngôi vua, ông mới mười ba tuổi, mặc dù nhiều việc chính sự quan trọng đều do trọng phụ, thừa tướng Lã Bất Vi và thái hậu Triệu Cơ cùng chủ trì, nhưng ông đã chia tay quá sớm cái tuổi ngây thơ và hồn nhiên của thời thơ ấu.
Ngay từ lúc ấy, ông đã phải miệt mài vào học tập, chủ trì triều chính, đọc và duyệt các bản tấu trình, đi kinh lý, tiếp khách lễ tân. Sự chín muồi quá sớm về tư tưởng và chính trị làm cho Tần Doanh Chính nặng về tư duy lý tính hơn là giao lưu tình cảm, lạnh nhạt và nghiêm túc nhiều hơn là nhiệt tình và hòa dịu. Đặc điểm này đã gây ra một khuyết điểm rất lớn của Doanh Chính là chưa trọn nghĩa vụ làm con, chưa thông cảm và an ủi mẹ mình.
Triệu Cơ sinh ra trong một gia đình nghèo và kém phần gia giáo, cha mẹ mất sớm, ở nhờ nhà ông chú, làm nghề ca kỹ để kiếm sống, sau lấy Lã Bất Vi làm vợ lẽ, mặc dù chênh lệch tuổi khá lớn, nhưng có cơm hầu nước rót, cũng mãn nguyện lắm rồi. Nhưng lại bị Lã Bất Vi gạt sang cho Tử Sở như là một quân bài đánh bạc. Cuộc sống ái ân vợ chồng chưa được mấy năm thì phải ly biệt vì Tử Sở bị giam hãm ở ngoại thành Hàm Đan, sau đó là hai mẹ con sống gian nan vất vả ở nước Triệu suốt bảy năm ròng. Phải khó khăn lắm mới chờ đến khi hai nước Tần - Triệu tạm thời hòa giải, Triệu Cơ mới được về Hàm Dương, trở thành chánh phi của thái tử, vào đông cung, rồi nhanh chóng trở thành hoàng hậu. Cũng coi như là khổ tận cam lai (cay đắng tận cùng rồi thì ngọt bùi đến), phú quý vinh hoa tột cùng vậy. Điều đáng tiếc là “cuộc vui” chưa được bao lâu thì Tử Sở (Trang Tương Vương) mất sớm. Thật đúng là lạc cực sinh bi (vui sướng tột cùng rồi đau buồn lại đến). Từ đó, Triệu Cơ lại sống trong cảnh cô đơn lạnh lẽo, mà có thể nói là mãi mãi cô đơn lạnh lẽo.
Cung Cam Tuyền của thái hậu Triệu Cơ rất đẹp, lộng lẫy, ăn ở rất thoải mái, lúc nào cũng cao lương mỹ vị, áo quần toàn bằng gấm góc lụa là, quan hoạn và nữ tỳ rất nhiều, nhất hô bách ứng (gọi một tiếng, một trăm người thưa), được tôn vinh cùng cực. Tuy nhiên, buồn thay, khung cảnh xa hoa ấy hoàn toàn trái ngược với nội tâm lạnh lẽo cô đơn của thái hậu. Thái hậu không những không cảm thấy vẻ vang được sống trong nhung lụa cao sang ấy mà cho đó là sự chế giễu, là trêu tức mình. Nàng khao khát được giao lưu tình cảm giữa con người và con người, muốn thăm hỏi và an ủi nhau. Nhưng con trai thì miệt mài với chính sự, ngay việc đến thăm mẹ cũng coi như việc công, làm cho lấy lệ, đến ngồi một lúc, nói dăm ba câu rồi đi về cung, để lại cho bà mẹ nỗi buồn vô hạn. Vì vậy, trong hoàng cung thâm nghiêm, Triệu Cơ chỉ còn một hy vọng duy nhất, đó là Lã Bất Vi, chồng cũ của nàng. Triệu Cơ mong mỏi Lã Bất Vi đến với mình. Đó chính là nguyên nhân và là động cơ mà Triệu Cơ rất thích tham dự triều chính, mặc dù nàng chẳng hề có khả năng về mặt này và cũng không có chút dã tâm chính trị nào cả.
Mỗi khi Lã Bất Vi đến cung Cam Tuyền để bàn bạc công việc chính sự, Triệu Cơ rất mừng. Mặc dù là “đàn bà có tang” nhưng Triệu Cơ cũng chú ý trang điểm, tuy đơn sơ nhưng cũng rõ nét thanh cao. Cho thấy, tuy đã đến tuổi trung niên nhưng Triệu Cơ vẫn lãng mạn đa tình. Khi hai người ngồi bàn bạc công việc triều đình, Triệu Cơ cũng không câu nệ khách với chủ, bề tôi với hoàng hậu, mà cứ xích lại gần Lã Bất Vi, có khi còn đến ngay trước mặt thừa tướng, cúi sát xuống bàn để xem bản tấu, hoặc thì thầm to nhỏ với thừa tướng, chẳng khác gì người trong nhà nói chuyện với nhau.
Chỉ có những lúc như thế, thái hậu mới cảm thấy được vỗ về an ủi, khuôn mặt ủ mày chau thường ngày nay mới rạng rỡ vui tươi, đôi mắt đờ đẫn vốn có nay mới tươi tỉnh sáng ngời. Lúc này, thái hậu còn sai người mang trà thơm và hoa quả để cùng ăn với thừa tướng. Có khi còn mang rượu thịt chuyên dùng trong cung đình để thết đãi khách quý. Khi nói chuyện thái hậu hay dùng hai chữ “trọng phụ”. Tuy chỉ có hai chữ nhưng Triệu Cơ gửi gắm trong đó không biết bao nhiêu là tình tứ. Trong khi đó thì Lã Bất Vi cứ khép nép, giữ ý giữ tứ, mặc dù trên thực tế thì lòng vả cũng như lòng sung, đều rất vui thích và mãn nguyện. Mỗi khi bàn xong công việc, Lã Bất Vi ra về, thái hậu bao giờ cũng tiễn chân mấy bước, đứng tựa bình phong, mắt dõi theo bước chân của thừa tướng. Một lát sau mới quay về phòng ngủ ngồi thừ ra mãi, hồi tưởng lại những giây phút ấm cúng ngắn ngủi của tình nghĩa vợ chồng thật thật giả giả, gần gần xa xa.
Phần lớn đàn bà thường yếu đuối và đa sầu đa cảm, nhất là thái hậu Triệu Cơ, một phụ nữ long đong lận đận, lên voi xuống chó, vui ít buồn nhiều, lại càng hay tức cảnh sinh tình. Hoạt động ca kỹ ngày xưa cũng tạo cho Triệu Cơ khả năng biểu diễn và ngâm vịnh thơ ca trữ tình. Chính buổi tối năm nào, vì hát một bài than thân trách phận mà nên vợ nên chồng với Tử Sở, cột chặt số phận cuộc đời mình với người cháu vua Tần. Vì vậy, cứ mỗi khi xúc động trong lòng, nàng đều muốn mượn lời ca để bộc bạch tình cảm nội tâm. Nhưng kể từ khi vào cung nhà Tần, nhất là sau khi Trang Tương Vương mất, bản thân trở thành “gái để tang chồng”, lại là đương kim thái hậu, cho nên không thể tùy tiện ca hát như ngày xưa nữa. Tuy nhiên, xét đến cùng thì Triệu Cơ vẫn là một phụ nữ tài hoa và đa tình đa cảm, cho nên vẫn không thể tránh khỏi những lúc nào đó như bây giờ chẳng hạn, nàng vừa gạt nước mắt vừa ngâm nga rất nhỏ nhẹ:
Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ
Vui đời ca hát, đợi chờ cùng ai
Gặp nhau chưa bén, rồi lại xa nhau
Chia lìa đôi ngả, về hầu vương tôn
Vợ chồng vinh hiển, sớm hôm vui vầy
Nhưng đời bạc phận, cô đơn một mình
Tù túng trong cung Cam Tuyền khổ ải
Ai thấu lòng ta, trằn trọc đêm dài.
Đúng như điều mà Triệu Cơ thổ lộ trong bài hát, cuộc sống trong nhung lụa gấm vóc ở cung Cam Tuyền chẳng hề ngọt ngào êm ấm chút nào. Nàng muốn được yêu chiều, an ủi, vỗ về, muốn được nâng niu phần xác lẫn phần hồn. Nhưng rốt cuộc vẫn phải dè dặt, dằn lòng, lại còn phải nói bóng nói gió, thậm chí ngụy tạo để che giấu tình cảm và dục vọng chân thật của mình. Cứ mỗi lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy qua đi, rồi chia tay trong nỗi luyến tiếc nhớ nhung, đành phải “nhìn mơ cho đỡ khát” [i], vẽ bánh trên giấy cho đỡ thèm.
Nỗi buồn sâu thẳm ấy cứ ngày càng lắng đọng trong lòng, ngày càng tăng lên. Triệu Cơ cũng từng cố gắng dùng lý trí để nén dịu tình cảm và dục vọng chăn gối của mình, nhưng càng nén lại càng bùng lên dữ dội. Cuối cùng, tức nước vỡ bờ, nàng bất chấp tất cả không cần giữ gìn gì nữa.
Sau một lần “bàn bạc việc triều chính”, theo thường lệ thái hậu lại mở “tiệc nhỏ” (khoản đãi thừa tướng). Gồm “ba thứ xào giòn” (dương vật dê, bò, ngựa); rượu cung đình cay. Uống thứ rượu này vào, người cứ nóng ran, tim đập dồn dập, lửa tình dạt dào. Triệu Cơ giả vờ chuếnh choáng hơi say, nên sai người hầu đưa canh giải rượu lên. Một mặt, đòi Lã Bất Vi dìu mình về phòng. Thừa tướng rất ngại không dám đến gần vì đây là quan hệ vua tôi, trên dưới rất nghiêm. Triệu Cơ vội bước tới, ngả vào lòng Lã Bất Vi. Thừa tướng đang định gỡ ra thì Triệu Cơ đã dang tay ôm lấy cổ, hai má kề nhau, rồi thì thầm trong hơi thở:
- Chẳng lẽ chàng lại để cho thiếp ngã nhào xuống đất?
Lã Bất Vi đành phải đỡ lấy thân hình mềm mại của thái hậu nhưng vẫn rất lúng túng. Ông nói:
- Thần không dám. Nam nữ thụ thụ bất thân ạ! [ii]
- Ha! Ha! Ha! Chàng chỉ nhớ một câu ấy thôi ư? Mạnh Tử Còn nói một câu khác nữa cơ! - Triệu Cơ cứ níu kéo Lã Bất Vi về phòng riêng của mình.
- Mạnh Tử còn nói câu gì nữa?- Lã Bất Vi giả vờ không biết.
Thái hậu đưa tay sờ vào ngực Lã Bất Vi, nói tiếp:
- Trí nhớ của chàng quá kém. Mạnh Tử chẳng nói: Nam nữ thụ thụ bất thân, đó là giữ lễ. Còn nói: Phụ nữ có chồng, bị ngã xuống nước, có thể dùng tay đỡ dậy.
Lã Bất Vi dìu Triệu Cơ vào giường rồi nói:
- Mạnh Tử nói câu ấy là biện pháp nhất thời.
- Đã là biện pháp nhất thời, vậy thì còn ngại gì nữa? - Triệu Cơ cười duyên rồi nói rất đưa tình - Huống chi chàng và thiếp có phải xa lạ gì nhau đâu.
- Chính vì vậy, thái hậu là bề trên, thần là bầy tôi. Điều đó cũng không xa lạ gì. - Lã Bất Vi cứ đứng trơ trơ một mình, không dám nhìn vào thái hậu nữa.
Triệu Cơ cứ lắc đầu:
- Chàng đừng đánh trống lảng nữa. Thiếp nói ta với chàng không xa lạ gì, chẳng lẽ chàng quên rồi sao? - Nói xong, có vẻ như hết sức xúc động.
- Lão thần không dám. Bởi vì thời thế đã đổi thay. Thái hậu được tôn vinh là quốc mẫu, thần chẳng qua chỉ là hạ thần, cách nhau một trời một vực. - Lã Bất Vi chắp hai tay che mặt, không dám nhìn thẳng vào sắc mặt của thái hậu.
Triệu Cơ bỗng rơm rớm nước mắt nói:
- Cái gì mà thời thế đổi thay, cách nhau trời vực? Đó chẳng qua là tìm cách thoái thác mà thôi! Người đời nói: “Nhất nhật phu thê bách nhật ân” (một ngày vợ chồng trăm ngày tình nghĩa). Còn nhớ hồi nào, chàng thương hại thiếp, thiếp mới có nơi nương tựa, vợ chồng hòa thuận, biết bao nghĩa tình! Nào ngờ chàng tối mắt vì lợi lộc, quên hết đời thiếp, thiếp đang có thai mà cũng gả cho Doanh Dị Nhân...
- Nếu xét riêng về điều này thì lúc ấy nàng là chánh phi của thái tử, sau đó là thái hậu, và là mẫu hậu của đức vua đại Tần, đạt đến đỉnh cao tôn vinh, hưởng phú quý cực lạc.Đời con người như vậy còn ai hơn nữa? - Lã Bất Vi giải thích, tìm cách an ủi.
Những lời nói tôn vinh cao quý ấy chẳng hề làm dịu tâm tình Triệu Cơ lúc ấy, ngược lại nó còn làm cho Triệu Cơ thêm giận hơn. Triệu Cơ đứng thẳng dậy, đến gần Lã Bất Vi, nói như trút cơn giận trong lòng:
- Chàng là một thương gia, trọng nghĩa nhưng bạc tình, chỉ hám tiền tài phúc lộc, có thể bỏ con bỏ vợ. Nay đã làm đến chức thừa tướng, công thành danh toại, thê thiếp từng đàn, của cải như núi, dĩ nhiên là quá đủ rồi!
- Năm nào gả nàng cho Dị Nhân, đương nhiên là vì lợi ích cá nhân, nhưng cũng nghĩ rằng nếu nàng về làm thiếp của ta thì chẳng được lâu dài. Huống hồ nàng và Dị Nhân ngang tuổi nhau, sau khi về nước vào cung lại càng tận hưởng phú quý vinh hoa. Ai ngờ ông ấy mất sớm, nên làm khổ một đời nàng... - Lã Bất Vi bị trách mắng, cảm thấy rất đau lòng, nên cũng nói ra những điều rất xúc động và bỗng nắm chặt tay nàng, đưa mắt đẫm lệ nhìn nhau.
Lúc này, Triệu Cơ nép vào lòng Lã Bất Vi, sụt sùi khóc và nói trong nức nở:
- Việc đã đến thế này, thiếp cũng chẳng trách chàng năm nào đã bỏ thiếp. Điều bất hạnh là Tử Sở ra đi quá sớm, để lại mình thiếp bơ vơ cô quạnh. Nay thiếp là quả phụ, có thể mặc quần nâu áo vải để trở về quê cũ. Cớ sao cứ làm thái hậu để sống tù túng trong cung, một mình đơn chiếc, vò võ đêm khuya, nghe tiếng cú kêu, xa lạ tiếng người, chẳng ai đoái hoài, bóng mình cô tịch... chỉ có một mình chàng là... - Nói đoạn, Triệu Cơ không giữ được mình nữa, nàng mở phanh áo, áp chặt ngực vào Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi choàng hai tay ôm ngang eo nàng, siết chặt vào mình, nhưng vẫn sợ sệt:
- Sao mà ta không biết nỗi lòng của nàng nhưng ta và nàng còn cách biệt nhiều quá về chức tước ngôi thứ, ở đây lại có rất nhiều thị vệ theo hầu, nếu có sơ suất gì thì chẳng phải chỉ mình ta, mà danh tiết của nàng cũng chẳng còn...
- Người ta sống ở trên đời, nếu không có tình yêu nam nữ, không có hoan lạc yêu đương, không có chăn gối khuê phòng, thì chỉ là cái xác không hồn. Nào hoàng hậu dát vàng, nào cung phi dát ngọc, tất cả đều vứt đi hết. Thiếp chỉ cần một tấm chồng bên cạnh mình thôi! - Triệu Cơ càng nói càng bốc lửa, bỗng ôm lấy Lã Bất Vi mà hôn.
Lã Bất Vi quay mặt đi, nói hơi buồn:
- Đáng tiếc là Trang Tương Vương không thể sống lại.
- Trước mặt thiếp là chàng. Chẳng phải chàng đã từng là chồng thiếp đó sao? Chẳng phải là chàng với thiếp đã chăn loan gối phượng, đầu ấp má kề, và đã sinh ra vua Tần Doanh Chính đó sao? Nay thiếp và chàng lại làm vợ chồng một lúc thì có gì mà không được?
- Cho dù như vậy đi nữa thì cũng chỉ là chồng hờ vợ tạm, hoan lạc giây lát mà thôi!
Nói vậy nhưng Lã Bất Vi cũng bị kích thích, không thể kìm giữ được, vội vàng cởi bỏ y phục, ôm lấy Triệu Cơ và ngã vật xuống giường.
Một lạch đào nguyên suối đã cạn, mong chàng tưới tắm cho mát mẻ thông đường.
Một khi nam nữ đã chung chăn gối thì không còn biết gì chung quanh nữa, mê mẩn say sưa, nhất là Triệu Cơ và Lã Bất Vi là vợ chồng cũ nay gặp nhau trên giường thì “vợ mới không bằng vắng lâu”, ngựa quen đường cũ, ôn lại chuyện xưa, vần vũ mây mưa “lửa tình bột phát, càng cháy càng nồng, hạt nhân hồng hạnh phập phồng đón xuân”, “đường hoa vắng khách chăm bón, nay mở tanh bành mời đón phu quân” [iii]. Khi hai bên đã cạn sức, Triệu Cơ nằm gọn trong lòng Lã Bất Vi, nàng hát mấy câu:
Chàng là rồng bay trên trời, thiếp là bông hoa bên dưới
Rồng không vỗ cánh [iv] trời không mưa, trời không mưa thì hoa không nở.
Ngâm nga xong, nàng thủ thỉ:
- Từ nay về sau, con rồng này phải luôn đến vỗ cánh cho trời mưa xuống đây nhé!
- Vi thần tuân chỉ, xin hết sức hầu hạ thái hậu! - Lã Bất Vi cũng cười và đáp lại.
Tiếp đó, ông vội vàng mặc quần áo và rời nhanh khỏi giường thái hậu, bỗng nghe tiếng chân ai bước gấp phía ngoài cửa, té ra là người hầu đưa canh giải rượu lên. Lã Bất Vi vội bước ra tận cửa để đón người này và nói:
- Vừa rồi thái hậu quá say, lão thần phải khó khăn lắm mới dìu dược về giường, nay thái hậu đã ngủ thiếp đi rồi. Ngươi đến vừa đúng lúc. Lão thần phải cáo từ. - Nói xong bèn vội vàng ra về.
Sau lần gặp lại chồng cũ trên giường, Triệu Cơ được mãn nguyện về tình cảm và sinh lý, tính tình cởi mở hơn, khí huyết điều hòa. Nhưng lòng ham muốn của con người không bao giờ dừng lại mà càng quen ăn bén mùi. Lã Bất Vi thấy Triệu Cơ khao khát, táo tợn, chủ động cũng cảm thấy sâu sắc về nỗi buồn cô tịch đau khổ của một quả phụ đa sầu đa cảm. Từ đó Lã Bất Vi năng lui tới cung Cam Tuyền nhiều hơn. Hễ có dịp thuận tiện là hai người lại “tình chung đầu gối má kề, lòng nào mà bỏ đi về cho cam”. Để giấu giếm mối tình vụng trộm, hai người bèn thay mới hết toàn bộ người hầu và quan hoạn của cung Cam Tuyền, tất cả đều là những người thân cận của thái hậu và Lã Bất Vi. Những cuộc gặp gỡ vụng trộm của Triệu Cơ và Lã Bất Vi từ chỗ giấu giấu giếm giếm, đến chỗ giấu đầu hở đuôi rồi tùy tiện làm bừa, cuối cùng say mê đến mức ngủ với nhau suốt đêm, liều lĩnh đến thế là cùng. Rõ ràng là suối tiên của hoàng hậu luôn luôn đầm đìa, đôi gò bồng đào của nàng luôn căng đầy. Cho nên cũng may mà vì thế tính tình của thái hậu thay đổi hẳn, những nét sầu muộn, mặt ủ mày chau trước đây nay biến đâu mất. Thái hậu luôn luôn tươi cười vui vẻ. Bọn hoạn quan và hầu nô thừa biết nguồn cơn của hiện tượng mới lạ này, song ai ai cũng vui lòng giữ kín mọi chuyện cho thái hậu chức trọng quyền cao, và cũng là để chứng kiến cảnh dâm loạn mà họ tuy không được nhìn tận mắt nhưng diễn ra ngay bên cạnh họ, ngay trong căn phòng mà họ ngày đêm canh giữ.
Mọi quan hệ giữa thái hậu và bọn hầu cận cứ thế trôi qua, hình thành một tấm màn dày đặc, đứa canh bên trong kẻ gác bên ngoài, bưng bít mọi chuyện diễn ra trên chiếc giường của thái hậu, ban đêm cho chí ban ngày, đến mức cuộc chăn gối lén lút ấy diễn ra suốt ba năm mà chẳng ai biết.
Tần Doanh Chính cứ mấy hôm lại vào thăm mẹ một lần. Với con mắt tinh tường, tư duy nhạy bén, chẳng nhẽ Doanh Chính cứ ra ra vào vào nhiều lần chốn khuê phòng của mẹ trong một thời gian lâu dài lại không thấy điều gì hơi lạ trong quan hệ giữa mẫu hậu và thừa tướng? Có lẽ đó là vì lúc mới mười ba tuổi, ngài đã lên ngôi, chưa hiểu biết nhiều lắm đối với việc trai gái làm tình, vả lại ngài đã giao quyền cho thừa tướng được phối hợp với mẫu hậu cùng chủ trì và quyết đoán những việc chính sự trọng đại; cho nên hai người gặp nhau trao đổi công việc là chuyện bình thường. Ngài chẳng hề nghi ngờ. Hơn nữa, Lã Bất Vi là ân nhân của cả nhà Doanh Chính, bản thân lại là thừa tướng đang phò tá cho ngài điều hành triều chính. Một lão thần có công lớn như vậy, chức tước và sứ mạng đường đường chính chính như vậy làm sao lại có thể nghi ngờ. Vì vậy, cho dù có lúc ngài cũng chứng kiến mẫu hậu có những cử chỉ thân mật với thừa tướng, lại còn xưng hô là “trọng phụ” nữa, ngài cũng cho đó là chuyện nữ nhi thường tình, bởi mẫu hậu của ngài vốn giàu lòng nhân từ, rộng lượng khoan dung.
Lần đầu tiên Tần Doanh Chính phát hiện mối quan hệ không bình thường giữa mẹ mình và thừa tướng là bản hịch văn của Thành Kiều, em trai ngài, do tướng Phàn Vu Kỳ khởi thảo. Bài hịch ấy còn vạch trần ra rằng Lã Bất Vi và Triệu Cơ vốn là vợ chồng và ngài là con của hai người đó. Thành Kiều còn kêu gọi lật đổ cái “của giả”, “đứa con hoang” Tần Doanh Chính. Việc tiết lộ này gây chấn động lớn nhất và là đòn đả kích đau nhất đối với Tần Doanh Chính. Vì vậy, khi quyết định đưa quân diệt Thành Kiều, ngài không dám hỏi thừa tướng, cũng không có can đảm để cật vấn mẫu hậu về sự việc nói trên. Nghĩa là ngài không dám nhìn thẳng vào sự thật: nếu như bài hịch nói đúng, thì không chỉ Lã Bất Vi và Triệu Cơ mất hết mọi thứ, kể cả danh dự mà bản thân ngài cũng không bị đánh mà phải chịu thua, tiền đồ tuyệt vọng. Nghĩ vậy, ngài bèn nổi trận lôi đình và dùng vũ lực để giải quyết vụ rắc rối. Ngài thẳng tay xử tử em trai mình để bác bỏ những điều viết trong bài hịch, nhưng đó thực ra chẳng qua là “bịa đặt” để kết tội một sự thật mà thôi.
Sau khi dẹp yên vụ việc nói trên, Tần Doanh Chính không muốn nghĩ lại chuyện cũ nữa, vì ngài không muốn vì thế mà đánh mất sự tự tôn và lòng tự tin của mình. Cho dù có phải tự lừa dối mình và lừa dối mọi người đi nữa, ngài cũng không muốn nghe bất cứ ai kháo nhau và bình phẩm về chuyện cũ ấy nữa. Sự thật sờ sờ trước mắt đã đủ để đánh gục ngài rồi.
Một buổi tối nọ, sau khi duyệt xong một tập bản tấu, Doanh Chính cảm thấy tâm tình thư thái, ngài bèn một mình chậm rãi bước đến cung Cam Tuyền để thăm mẫu hậu. Vì không có thị vệ đi theo nên không ai báo tin trước khi vào cửa. Khi quan hoạn và cung phi thấy ngài thì ngài đã đến trước cửa phòng ngủ của thái hậu rồi. Ngài tiện tay vén rèm che cửa bước vào, bỗng thoáng thấy bóng dáng một người đàn ông đang nằm cong lưng trên người thái hậu. Ngài tức giận hỏi ngay:
- Nhà ngươi là ai?
Người kia kinh hồn bạt vía, vội quay lại đứng dậy trả lời:
- Lão thần là Lã Bất Vi đây ạ! - Giọng nói run run.
Thái hậu đỏ mặt tía tai, vừa thở hổn hển vừa nói:
- Ra là thánh thượng đến. Ta đang định sai thị vệ đi gọi vương nhi đến đây đấy!
Doanh Chính chau mày hỏi tiếp:
- Mẫu hậu cũng là...? - Chưa nói xong, ngài vội đi đến cạnh giường.
- Mấy hôm nay trời trở lạnh, vì không cẩn thận nên ta hơi bị cảm lạnh. Tưởng là uống rượu nóng sẽ bớt nên ta uống hai chén. Không ngờ uống rượu khi đang đói nên rất khó chịu, may mà có trọng phụ ở đây nên nhờ ngài xem mạch cho ta. - Thái hậu vừa nói vừa đưa mắt ra hiệu cho Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi vội nói tiếp:
- Lão thần thấy mạch của thái hậu rất yếu, đó là vì gió lạnh xâm nhập cơ thể, tỳ vị của thái hậu vốn đã yếu, nay lại uống rượu vào, ruột đang trống không, nên tim đập mạnh, mặt đỏ, hơi thở khó khăn. Có thể dùng vị thuốc cay dịu để làm cho ấm người, dùng sâm nhung để bổ tỳ vị. Mỗi thứ ba thang, cho thêm cam thảo cho ngọt.
- Trẫm ở với thừa tướng hai mươi năm rồi, nay mới biết khanh là bậc danh y giỏi như thần [v]. - Lần đầu tiên Doanh chính không gọi Lã Bất Vi là trọng phụ, và câu nói hơi có vẻ châm biếm.
- Khi nhỏ, thần có buôn bán thuốc đông dược, có học nghề thuốc của các bậc danh y ở Dương Địch; tuy không treo biển hành nghề nhưng cũng có biển bắt mạch bốc thuốc. - Lã Bất Vi đương nhiên hiểu rõ ngụ ý của nhà vua, bèn vội vàng giải thích cho rõ.
- Đúng thế. Năm xưa khi mẹ sinh con, thai cứ nằm trong bụng, mãi không ra, may mà nhờ trọng phụ đây cắt một chén thuốc, chỉ một thang mà ra liền! - Thái hậu cũng nhanh nhẩu làm chứng, lại còn nhắc đến hai chữ “trọng phụ”, vô tình bộc lộ một thứ tình cảm sâu kín trong lòng.
- Vậy thì mời thừa tướng viết đơn thuốc để lấy thuốc và sắc ngay đi. - Lời Doanh Chính lộ vẻ chẳng vui. Ngài gọi thị vệ đến và bảo - Đưa thừa tướng đi viết đơn thuốc và sau đó cho người đến viện thái y sắc thuốc.
Lã Bất Vi vội đáp:
- Lão thần tuân chỉ. - Xong, theo thị vệ đi ngay ra ngoài.
Sau khi đưa mắt nhìn theo Lã Bất Vi đi ra, Doanh Chính chau mày nhăn nhó, đi đi lại lại mấy vòng trong phòng, mặt buồn rười rượi, chẳng nói chẳng rằng.
- Thánh thượng cứ đi lại như vậy, chẳng nói năng gì, chắc là đang bận tâm điều gì. - Thái hậu muốn làm dịu bớt ấn tượng mà Doanh Chính vừa chứng kiến, nên hỏi nhẹ nhàng.
- Con đang tự trách mình đấy ạ! - Doanh Chính nói với giọng khá nặng nề.
- Có việc gì quan trọng mà vương nhi phải tự trách mình? - Thái hậu ngồi dậy nhìn con với vẻ lo lắng bất an.
Doanh Chính ngồi bên mép giường của thái hậu, nghiêm sắc mặt, nói:
- Con tính tình đểnh đoảng, quá lo nghĩ việc triều chính, nôn nóng thành công, nên đã sơ suất trong việc thăm nom mẫu hậu sớm khuya [vi]. Nếu như vừa rồi không đến đây, thì không thể biết được mẫu hậu bị đau yếu. Con thật có lỗi.
Thái hậu vội an ủi:
- Con là vua một nước, mỗi ngày có trăm công nghìn việc. Phải coi việc nước làm trọng. Còn mẹ chỉ đau xoàng xĩnh thôi, chẳng là cái gì. Huống chi đã có thừa tướng tinh thông y thuật, đã kịp thời kê đơn, chẳng đáng quản ngại, con cứ yên tâm.
- Lã thừa tướng là phụ chính của con, phải chuyên tâm vào công việc. Hơn nữa, tuổi ngài cũng đã cao; việc chẩn bệnh và kê đơn thuốc cho mẫu hậu nên bảo viện thái y lo liệu, không nên phiền đến Lã thừa tướng nữa. - Câu nói của Doanh Chính thật sự “ý tại ngôn ngoại” [vii].
Thái hậu đang muốn nói gì nữa, nhưng Doanh Chính đã đứng dậy, đỡ bà nằm xuống, rồi nói:
- Mẫu hậu cần nghỉ ngơi, hết sức chú ý đừng để bị cảm lạnh. Con xin cáo từ! - Nói xong, liền quay gót bước đi.
Thái hậu dõi mắt nhìn theo bước chân của con, thở dài, mắt đẫm lệ. Bà cảm thấy rất đau lòng, vì con không thông cảm với mẹ. Từ nay, Lã Bất Vi không thể lui tới thường xuyên nữa, không còn được ái ân tình xưa nghĩa cũ nữa! Điều làm cho Triệu Cơ bận tâm nhiều hơn là không hiểu mối quan hệ giữa hai mẹ con rốt cuộc sẽ được duy trì bao lâu nữa? Càng nghĩ, nước mắt càng giàn giụa, bà vội kéo chăn trùm kín đầu, khóc nức nở.
Tuy nhiên, người sợ hãi nhất và khó chịu nhất lại là Lã Bất Vi. Lúc chập tối vừa rồi, thái hậu vừa tỉnh giấc sau một cơn ngủ trưa quá muộn, nàng liền làm nũng, đòi Lã Bất Vi bế mình ngồi dậy. Lã Bất Vi vừa khom lưng, cúi xuống để ôm nàng nhân lúc thuận chiều đưa môi hôn nàng thì Doanh Chính bước vào.
Nếu thái hậu không bác bệnh và bịa ra chuyện bắt mạch bốc thuốc để lấp liếm sự thật, thì bản thân Lã Bất Vi không biết làm thế nào để giải tỏa tình trạng lúng túng lúc ấy. Phải khó khăn lắm ông mới thoát ra khỏi căn phòng ấy để trở về nhà, vừa ăn cơm tối vừa suy nghĩ rối bời, rồi đành đi ngủ sớm hơn mọi ngày. Nhưng nào có chợp được mắt đâu. Biết bao ý nghĩ cứ lởn vởn mãi trong đầu óc, không tài nào xua tan đi được. Đành rằng có thể ăn nằm với nhau suốt đêm, nhưng lúc ấy tại sao lại hăng hái ôm ấp như vậy? Có lẽ Doanh Chính không đủ bằng chứng, hoặc vì người đương sự lại là mẹ mình nên không thể tố giác ngay tại chỗ. Những lời lẽ và sắc mặt của Doanh Chính lúc ấy cũng đủ làm cho mình đau lòng và mất mặt rồi. Nếu sau đó, Doanh Chính cật vấn bất cứ một quan hoạn hoặc cung phi nào thì chỉ cần một ai trong số họ nói ra buổi gặp gỡ vụng trộm chiều tối hôm ấy thôi chứ đừng nói chi tới cuộc tình lén lút ấy đã kéo dài ba năm, thì hậu quả cũng đã không thể lường hết được... Lã Bất Vi vẫn cầu may, có lẽ Doanh Chính muốn che giấu việc xấu xa trong gia đình nên không vạch ra và truy cứu nữa. Nếu vậy thì may mắn vô cùng. Nhưng dù sao thì không thể tiếp tục đi lại với Triệu Cơ như vừa qua nữa. Chẳng may bị phát hiện thì Doanh Chính không bao giờ tha thứ cho họ nữa. Bà quả phụ có tang này lại chẳng biết chịu tang là phải thế nào nữa. Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi không thể nghĩ tiếp nữa. Nhưng quả đắng vẫn cứ giày vò trong tâm can ông. Ông đã phải hao tổn biết bao nhiêu tài sản, gian nan vất vả hơn hai mươi năm trời, trải bao khó khăn nguy hiểm mới giành được ngôi báu thừa tướng, quyền quý song hành. Nhưng tất cả đều tan thành mây khói, ngay cả tính mạng cũng khó giữ. Tại sao Lã Bất Vi lại cả gan lao vào cái vực thẳm đó như vậy chứ?
Để thăm dò cái kết cục cụ thể ra sao, Lã Bất Vi cố gắng giữ vẻ thản nhiên để tham dự các cuộc thiết triều, vẫn đến cung Hàm Dương và cung Cam Tuyền để tấu trình với Doanh Chính và thái hậu các bản tấu và bàn bạc công việc triều chính. Ông thấy Doanh Chính không tỏ ra thù ghét và giận dữ rõ rệt nhưng tuyệt nhiên không gọi ông là trọng phụ nữa, lúc nào cũng chỉ gọi thừa tướng. Thái hậu cũng không dám trắng trợn đòi hỏi cái trò lên giường như cũ, chỉ có thể liếc mắt đưa tình, thể hiện khát khao và lo buồn. Đến đây, Lã Bất Vi cảm thấy phải nhanh chóng quyết đoán để chấm dứt mối tình tội lỗi này, bèn nói rất trịnh trọng với thái hậu:
- Sự việc ngày hôm trước, may mà thái hậu nhanh trí giải thích, lão thần cũng kịp thời ứng phó, bệ hạ mới không nắm được bằng chứng, nhưng đã để lộ dấu vết khả nghi. Lão thần rất sợ.
- Ta cũng rất kinh hoàng. Nếu thánh thượng muốn truy cứu sự việc thì cho dù rất thân cận, thì bàn tay sao cản được gió, giấy sao gói được lửa. - Thái hậu nói với giọng buồn bã, còn có chút sợ sệt nữa.
Lã Bất Vi suy nghĩ một lát, rồi nói rất quả quyết:
- Như vậy là thái hậu cũng có suy nghĩ như lão thần. Lão thần cho rằng không thể mạo hiểm nữa, mà nên dừng lại để khỏi rơi vào vực thẳm. Nếu cứ tiếp tục lưu luyến, e rằng sẽ bị phát hiện và như vậy thì sẽ khó mà bảo toàn được danh tiết của thái hậu, tiền đồ của lão thần, thậm chí tính mạng cả nhà lão thần nữa... mong thái hậu suy nghĩ cho kỹ!
- Việc đã đến thế này, cũng đành phải vậy. - Triệu Cơ gật đầu, mắt đẫm lệ, nhưng vẫn nặng tình với duyên xưa. Nàng nói tiếp - Chẳng lẽ ba năm gặp lại nhau, ôn lại chuyện cũ, nay bỗng gương vỡ mộng tan hay sao? - Nói đến đây thái hậu lại nghẹn ngào không nói nên lời.
Lã Bất Vi nói dứt khoát:
- Xem ra duyên phận của ta với nàng đã hết, tha thứ cho lão thần không thể hầu hạ thái hậu được nữa rồi.
- Không có chàng, một mình thiếp thân đơn gối chiếc, làm sao sống nổi đây? - Thái hậu khóc to thành tiếng, bất chấp bọn nội thị và nô tỳ xung quanh.
- Người hầu hạ thái hậu sau này, lão thần đã tìm được rồi.
Tiếp đó, Lã Bất Vi nói cho Triệu Cơ biết con người hiếm thấy ấy. Ông miêu tả con người ấy rất tỉ mỉ, vừa nói vừa minh họa bằng động tác rất sinh động hấp dẫn. Câu chuyện là thế này:
Đô thành Hàm Dương từ thời tiên Tần đã là một đô thị lớn, buôn bán phát đạt, phố xá phồn hoa, ngành nghề nào cũng cần nhiều nhân công, cho nên người các nơi đổ về đây tìm việc làm rất đông. Trong đó có một chàng trai tên là Lao Đại, tướng mạo rất chững chạc, khôi ngô tuấn tú, sức khỏe hơn người, rất được nhiều người ưa thích và tranh nhau thuê anh ta về làm công. Nhưng các cô các bà lại ưa thích anh ta nhiều hơn. Bởi vì “cái ấy” của anh ta vừa to vừa dài, có thể làm thỏa mãn khoái lạc tình dục của nữ giới và nhiều bà nhiều cô đã được tận hưởng cái lạc thú nhục dục như thế. Lao Đại trở thành “anh chàng đẹp trai” nổi tiếng xấu xa ở địa phương. Người Tần cổ đại thường gọi những người đạo đức đồi bại là “ái”, cho nên mọi người gọi Lao Đại là Lao Ái một cách khinh bỉ. Vì Lao Ái quen thói dâm đãng, gây hại thuần phong, ảnh hưởng rất xấu, nên bị xử tử hình, đang chờ ngày hành quyết. Lã Bất Vi đã phát hiện ra nhân vật này khi ông xét duyệt các bản tấu chương. Anh chàng này xét về nhân cách thì không thể bằng Tử Sở, nhưng xét về công dụng thì có thể nói là rất đặc biệt. Để chứng minh công dụng đặc biệt của anh ta, Lã thừa tướng tuyên bố “phải xét xử chung thẩm tên tử tù này” vì vậy ông cho gọi Lao Ái đến xét hỏi một lần cuối. Khi nhìn thấy tên tù phạm này có vóc người lực lưỡng, trông rất khỏe mạnh tráng kiện bèn tin ngay rằng cái vật dưới háng hắn ta chắc là khác thường lắm. Nhưng vì là thẩm vấn nên không thể làm mất vẻ trang nghiêm của thừa tướng, nên ngài nghiêm sắc mặt hỏi:
- Nhà ngươi biết tội chưa?
Lao Ái cúi đầu đáp:
- Tiểu nhân biết tội rồi ạ.
- Ngươi dâm ô bừa bãi, đồi bại bỉ ổi, theo luật đáng chém, ngươi có chịu không? - Lã Bất Vi hỏi.
- Việc đã thế này, con xin chịu tội. Chỉ xin một điều khi ra hành hình, chặt cái dưới trước, chặt cái đầu sau. - Lao Ái nói có vẻ rất hối hận.
Lã Bất Vi rất kinh ngạc, vội hỏi nhẹ nhàng:
- Hỗn láo! Sao lại trả lời như vậy hử?
- Kính bẩm quan lớn thừa tướng, chỉ vì cái hạ bộ của tiểu nhân nó phốp pháp quá nên đàn bà rất thích, nên mới phạm tội này đấy ạ. Cho nên tiểu nhân muốn được chém nó trước, mới cam lòng. - Lao Ái giải thích một cách rất miễn cưỡng.
- Nhà ngươi nói cái đó ghê gớm thế ư? Sao mà tin được? - Lã Bất Vi cố ý châm chọc hắn ta.
Phần lớn mọi người đều có một cái cổ rất cứng nên đều tự tin và tự phụ. Lao Ái tuy bị tử hình, nhưng vẫn cứng đầu cứng cổ lắm, vẫn không muốn để cho ai nghi ngờ mình, bèn thề sống thề chết rằng:
- Nếu quan lớn thừa tướng không tin, xin cứ xem ngay tại đây ạ! - Nói xong liền tuột hẳn quần xuống, tồng ngồng một thỏi thịt vừa to dài vừa cứng.
Lại là một món hàng lạ. Lã Bất Vi đưa mắt nhìn qua rồi bảo hắn mặc lại quần áo tử tế. Ông bảo hắn:
- Nhà ngươi đã cứng đầu cứng cổ vậy thì cứ cho để nguyên cả thượng bộ (đầu) và hạ bộ.
Sau đó, Lã Bất Vi còn bắt hắn diễn lại các động tác mà hắn vẫn ăn nằm với đàn bà trước đây. Cố nhiên là hắn biểu diễn rất chi là ngoạn mục.
Từ thời cổ đến nay, Trung Quốc có phong tục gọi là Hội diễn cuối năm. Tức là khi sắp hết năm cũ, mọi người trong làng tụ tập nhau lại cùng biểu diễn các tiết mục văn nghệ để mừng được mùa, cầu nguyện thần thánh, cúng tế tổ tiên. Các lễ hội như vậy rất rầm rộ, tưng bừng, mọi tiết mục nghệ thuật dân gian đều được trình diễn: ca múa, đấu vật, đi trên dây, múa võ... không thiếu môn nào. Mấy hôm sau khi Lã Bất Vi thẩm vấn Lao Ái, có một cuộc lễ hội cuối năm rất lớn được tổ chức tại quảng trường phía Đông Hàm Dương. Mọi tiết mục đã được trình diễn và quần chúng rất vui thích. Khi mọi người đang vỗ tay rầm rộ để khen ngợi một trò xiếc nào đó thì bỗng xuất hiện một thanh niên thân hình to lớn như hộ pháp, tay cầm một bánh xe bằng gỗ, đi ra chính giữa sân. Sau khi vái tay chào khán giả, anh ta biểu diễn với cái bánh xe ấy. Thấy bánh xe quay trên một cái trục được đẽo theo hình dương vật rất to. Anh ta làm cho bánh xe quay tít thò lò. Bỗng có người kêu to:
- Nó là tên Lao Ái đấy! Nó là tên Lao Ái đấy. Hãy mau bắt nó đưa nộp quan, hãy băm vằm nó ra, hãy xé xác phanh thây nó ra!
Quần chúng rất phẫn nộ. Họ vừa chửi vừa chạy đến bắt. Nhưng hắn rất khỏe, tay đấm chân đạp, mọi người bị hắn đánh dạt sang một bên. Nhiều người bèn cầm gậy đến đánh, vừa lúc ấy có mấy quan chức chính quyền xông ra bắt được Lao Ái. Họ vừa áp giải hắn đi, vừa chửi:
- Mày là một tên dâm tặc điên cuồng. Giữa ban ngày ban mặt dám làm cái trò bỉ ổi ấy à?
Đó chính là cái trò càn quấy do Lã Bất Vi bày ra. Ngoài ra, ông còn thông báo cho một số thị vệ và nữ tỳ ở cung Cam Tuyền biết để đến xem trò ấy. Lã Bất Vi kể hết mọi chuyện đó cho thái hậu. Thái hậu lắng nghe rất chăm chú. Xong bà cười, nói:
- Lại có sức khỏe như vậy ư?
Lã Bất Vi vội gọi mấy tên quan hoạn, thị vệ và nữ tỳ đã đi xem hiện trường vào làm chứng. Bọn họ tranh nhau minh họa thêm cho rõ. Đến đây, thái hậu tin chắc là có như vậy rồi nhưng vẫn băn khoăn. Bà hỏi Lã Bất Vi:
- Chàng đã vì thiếp mà tìm được con người có “kỳ vật” như thế, có thể “giải khát” được đấy. Nhưng những hạng người đó, làm sao mà đưa vào được?
Lã Bất Vi cười ranh mãnh:
- Lão thần có cách. - Nói xong bèn ghé sát tai nói nhỏ với thái hậu gì đó.
Thái hậu rất mừng. Bà nói:
- Thế là mua được món hàng lạ. Cũng đáng đồng tiền.
Thái hậu liền sai trọng thưởng cho Lã Bất Vi và giao cho ông một món tiền lớn để thu xếp việc đưa Lao Ái vào cung.
Theo luật nhà Tần, Lao Ái phải bị xử tử, nhưng Lã Bất Vi nói rằng cung Cam Tuyền thiếu quan hoạn “thái giám”, nên xử Lao Ái tội hoạn, tức là cắt bỏ dương vật, trở thành con người hoàn toàn không còn khả năng tình dục, sau đó, đưa vào cung hầu hạ thái hậu. Ở trong cung, việc kiểm tra kết quả “cắt hoạn” rất nghiêm. Lã Bất Vi lót cho viên y thuật chuyên môn hoạn nam giới một món tiền lớn. Bề ngoài thì vẫn đưa Lao Ái vào nhà giam để xử tội “hoạn”, cho tắm rửa sạch sẽ, nằm trần truồng và việc “hành hình” (hoạn) được tiến hành theo đúng trình tự phẫu thuật y học. Nhưng bên cạnh đó đặt một chậu tiết gà, bên trong ngâm một cái dương vật to của con lừa đực đang động đực. Vùng chung quanh dương vật của Lao Ái được bôi một lớp thuốc, đám lông rậm rịt của hắn được nhổ sạch, càng làm nổi bật cái của quý của hắn. Hắn được mặc một cái quần bó chặt dương vật vào háng. Xong xuôi, hắn giả vờ kêu rên, khóc sướt mướt vì đau, hai tay bê chậu máu gà đựng (dương vật con lừa), vừa đi vừa kêu, đến chỗ kiểm tra hành hình, hắn được xác nhận và cho đi. Thế là hắn đến thẳng cung Cam Tuyền, trở thành hoạn quan và vào phòng ngủ của Thái hậu.
Mới trông thấy Lao Ái, thái hậu đã mừng thầm vì hắn ta quả thật rất lực lưỡng, khỏe mạnh như một võ sĩ, chắc chắn khả năng chuyện ấy của hắn luôn luôn dư thừa. Bọn quan hoạn và nữ tỳ hầu cận bên cạnh thái hậu đều là thân cận của bà cả. Họ biết rõ mười mươi là Lao Ái được đưa vào đây để làm gì rồi, cho nên cũng chẳng cần phải giấu giếm gì nữa. Kể từ sau khi bị Doanh Chính bắt quả tang mình và Lã Bất Vi, thái hậu sợ hãi không dám làm cái chuyện “ma ăn cỗ” với Lã Bất Vi nữa; cũng vì vậy, đòi hỏi sinh lý cũng rất là dữ dội, vì đã quen ăn bén mùi. Trước đó, Lao Ái cũng có bị đưa vào nhà giam tử tù khá lâu, vừa nôn nóng vừa lo sợ. Nay đến cung Cam Tuyền, không những đi đứng đàng hoàng, lại được ngủ trong chăn loan gối phượng của thái hậu, bên cạnh mình lại là thái hậu, một quý phu nhân, quốc mẫu tôn kính, mùi thơm phưng phức. Trong khung cảnh sang trọng cao quý ấy, Lao Ái lúc đầu thật sự cảm thấy hổ thẹn với thân phận hèn hạ của mình, nên không dám cử động chân tay gì cả. Thái hậu biết rằng ngay cả Lã Bất Vi là chồng cũ của mình, thế mà lúc đến gặp ở đây còn rụt rè ngần ngại vì còn e sợ mối quan hệ vua tôi, quần thần; huống chi Lao Ái là kẻ tiện dân tiểu tốt này. Cho nên thái hậu dùng lời nói dịu dàng của phụ nữ để làm cho hắn yên lòng. Thế là Lao Ái được má ấp môi kề, một tòa thiên nhiên trong như ngọc trắng như ngà ẩn hiện sau làn áo mỏng, Lao Ái nhanh chóng mất hết tự ti, dục tình đùng đùng nổi dậy. Triệu Cơ đón lấy Lao Ái. Lao Ái chồm dậy theo bản năng quen thuộc.
Chú thích:
[i] Lấy ở điển tích: trên đường hành quân, quân lính của Tào Tháo rất khát, ông ta bèn ra lệnh: phía trước có rừng mơ, có thể giải khát. Quân lính nghĩ đến mơ, thèm nhỏ dãi vội đi nhanh hơn để được ăn mơ giải khát. Thế là giảm bớt cơn khát - ND.
[ii] Ở đây có hai chữ thụ. Chữ "thụ” trước là cho, chữ "thụ” sau là nhận. Chữ "thân" ở cuối câu, nghĩa là "tự mình". "Nam nữ thụ thụ bất thân" có nghĩa nam và nữ không được trực tiếp trao cho nhau bất cứ cái gì. Đây là lễ giáo phong kiến, hạn chế tự do hôn nhân - ND.
[iii] Những từ "hạt nhân hồng hạnh" "đường hoa" ở đây, đều muốn nói đến "lạch đào nguyên" - ND.
[iv] Nguyên văn ở đây là "rồng không uốn lượn", vì rồng không có cánh - ND.
[v] Nguyên văn: "Thần Nông Kỳ Hoàng". "Thần Nông" là vua Thần Nông trong truyền thuyết, nhà vua thần thoại từ thời xã hội nguyên thủy. "Kỳ" là "Kỳ Bá", "Hoàng" là "Hoàng Đế", đều là hai thầy thuốc rất giỏi thời cổ đại, cũng là theo thần thoại. Bốn chữ "Thần Nông Kỳ Hoàng" đều nói lên đây là bậc thần y, rất giỏi, chẳng kém Kỳ Bá, Hoàng Đế thời Thần Nông - ND.
[vi] Nguyên văn: "Thần hôn định tỉnh” phận làm con phải săn sóc cha mẹ lúc đi ngủ và thăm hỏi lúc ngủ dậy. Đó là lễ giáo hàng ngày. Cũng còn nói "hôn định thần tỉnh". Hôn là buổi tối, thần là buổi sáng - ND.
[vii] Nguyên văn: trong lòng rất tỏ, không ngỏ bằng lời - ND.