HỒI THỨ MƯỜI MỘT HAI PHE KÌNH ĐỊCH SUÝT ĐOẠT NGÔI VUA-DOANH CHÍNH RA TAY DIỆT TRỪ LAO ÁI-----
Lã Bất Vi đã kịp thời và chủ động thoát khỏi cái biển lửa dục tình triền miên của Triệu Cơ. Hành động này cho thấy ông rất sáng suốt và quyết đoán. Kể từ khi ông dám đem Triệu Cơ và giọt máu (bào thai) của mình trong bụng nàng hiến tặng cho Tử Sở, thực hiện một việc làm khảng khái, tình nghĩa. Làm xong không thèm ngoái cố nhìn lại. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy rõ ông là một lái buôn thực thụ, một tay cờ bạc cao thủ và là một chính khách. Giờ đây, khi đã ngồi trên cái ngôi báu thừa tướng, một chức vị chỉ ở dưới một người, ở trên muôn người, ông cũng không bị bắt làm tù binh bởi cái êm ái dịu ngọt của tình dục đàn bà, không mềm lòng mê muội trước sức cám dỗ mãnh liệt của một quả phụ còn trẻ như Triệu Cơ. Ông còn phải vươn tới mục tiêu chính trị cao nhất là đoạt lấy vương triều của họ Doanh nhà Tần. Ông nhất quyết không chịu dừng bước ở cái ghế thừa tướng, mà luôn luôn mong thiết lập vương triều họ Lã của mình.
Lã Bất Vi tính toán cho bản thân quả không có gì sai sót. Đứa con do Triệu Cơ đẻ ra tuy lúc đầu lấy họ Triệu, sau đổi sang họ Doanh, nhưng Doanh Chính giống tính cha đẻ như hệt. Chỉ cần luôn luôn nhắc nhở khéo và gây ảnh hưởng đến Doanh Chính và đến lúc thời cơ chín muồi thì nói rõ cho Doanh Chính biết sự thật về dòng dõi của mình. Lúc ấy, với bản tính do trời sinh và sự thông cảm của tinh thần, Doanh Chính sẽ bãi bỏ họ Doanh của nhà Tần, lấy lại họ Lã. Như vậy, kỷ nguyên vương triều họ Lã sẽ bắt đầu từ đứa con đẻ của ông. Tuy nhiên sự việc cụ thể không diễn ra theo ý muốn của ông. Khi mẹ con Triệu Cơ về đến Hàm Dương, Triệu Chính mới mười tuổi. Trong khi đó nước Tần đã có một lịch sử huy hoàng mấy trăm năm, kinh tế phát đạt, quân sự hùng mạnh. Tất cả những điều đó làm lóa mắt cậu bé, cậu coi đó là vinh dự, là niềm kiêu hãnh của mình. Nhất là chỉ trong vòng ba đến bốn năm ngắn ngủi, cậu từ chỗ là cháu vua, rồi con vua (thái tử), cuối cùng lên ngôi vua. Không chỉ trong phạm vi nước Tần, mà cả sáu nước chư hầu đều biết Doanh Chính là quân chủ đại Tần. Doanh Chính tự coi mình là hậu duệ Tần Doanh, và kế tục di chiếu của tiên vương, tiêu diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ. Ý chí và quyết tâm đó của Doanh Chính rất mãnh liệt. Vì vậy, trong bối cảnh ấy mà đi nói với Doanh Chính chuyện họ Doanh là giả, họ Lã là thật, thì ông vua ngạo nghễ này chẳng tin đâu.
Lã Bất Vi rốt cuộc vẫn là một chính khách có tầm nhìn sâu rộng, ông nhất quyết không bỏ cuộc, không bao giờ chịu thua. Ông kiên quyết lợi dụng ưu thế mọi mặt hiện có của mình để xây dựng một mạng lưới dư luận rộng rãi và một tập đoàn chính trị hùng mạnh. Ông thấy Mạnh Thường Quân của nước Tề, Bình Nguyên Quân của nước Triệu, Tín Lãng Quân của nước Ngụy, Xuân Thân Quân của nước Sở, mỗi người đều có tập đoàn trí thức (môn khách) rất đông và rất giỏi; nhờ vậy, các vị “quân” này đã đạt được những thành công rất oai hùng, lừng lẫy. Ông bắt chước những người đó, bỏ ra một số tiền lớn để chiêu hiền đãi sĩ. Do đó, số môn khách đến ăn ở ở nhà ông lên tới trên ba nghìn người. Lý Tư [i] và Diêu Giá là những nhân vật nổi bật trong số môn khách đó. Hai người này đã phụ tá và tham mưu cho Lã Bất Vi trong chiến dịch tiêu diệt Tây Chu và cứu trợ thiên tai châu chấu. Đặc biệt, Lã Bất Vi đã tổ chức các môn khách của mình sưu tầm các danh ngôn của các danh nhân, bao gồm trong các lĩnh vực thiên văn, địa lý, lịch sử, chính trị, quân sự, văn học, nông nghiệp, tập hợp thành một bộ sách dày hơn hai mươi vạn chữ, chia làm tám đoạn, sáu phần, mười hai chương. Đặt tên sách là “Lã Thị Xuân Thu” [ii]. “Lã Thị Xuân Thu” có nghĩa là từ nay đất nước này, phải do chính ta, Lã Bất Vi, dẫn đầu nền văn chương và cầm lái sự thịnh suy của quốc gia.
Lã Bất Vi dùng gấm để bọc bộ sách khổng lồ kiểu bách khoa toàn thư ấy, xong đem trưng bày ở cổng thành Hàm Dương để mời các sứ thần, học giả và môn khách các nước đến xem. Còn tuyên bố một cách ngạo mạn rằng, ai thêm hoặc bớt được một chữ trong số hơn hai mươi vạn chữ đó, sẽ thưởng một nghìn lạng vàng. Và đó chính là nguồn gốc thành ngữ “Nhất tự thiên kim” (một chữ ngàn vàng). Đương nhiên, đó không phải là khuyến khích sáng tác và tiến hành giao lưu học thuật, mà là một cuộc khiêu chiến, một cuộc thị uy. Đó cũng là nhằm làm cho nước Tần và thiên hạ biết sức mạnh to lớn của Lã Bất Vi về thực lực chính trị và vũ khí tư tưởng.
Những gì mà Lã Bất Vi nói và làm ở trên có ảnh hưởng rất rộng lớn. Doanh Chính hiểu biết điều đó và cũng cảm nhận được điều đó Doanh Chính dần dần thấy rằng, vị thừa tướng này không phải là một đại thần trung thành và thuần phục; rằng ông ta không thỏa mãn với việc phụ tá, không cam tâm làm phụ tá mà là muốn làm cho ngài - vị quân chủ của đại Tần trở thành bù nhìn, chỉ là một hư danh; và lúc ấy thì mọi việc triều chính sẽ do ông ta, một thương nhân ở Dương Địch, làm chúa tể. Đó là tín hiệu nguy hiểm biết bao.
Tính ương ngạnh, thích sao làm vậy và vũ đoán của Doanh Chính rất xung khắc với tính ngạo mạn và huênh hoang của Lã Bất Vi. Có một lần, khi đến thăm thái hậu Triệu Cơ, Doanh Chính nói như sau:
- Thừa tướng chiêu tập rất nhiều môn khách, viết sách, đưa ra các lý thuyết, trình bày sách ở ngoài phố, lại thưởng nghìn vàng. Khoe khoang như thế thì chẳng ai chịu nổi.
Nghe con có những lời ác cảm như vậy đối với Lã Bất Vi, thái hậu không khỏi giật mình, vội xoa dịu. Thái hậu phân bua, giọng nói rất thân tình:
- Khi trọng phụ của con đến nước Tần, chỉ là một nhà buôn của nước Hàn, kinh doanh rất ít ỏi. Muốn vươn tới chức “khanh” “tướng”, nếu không tỏ rõ những công việc có giá trị của mình, thì làm sao có chỗ đứng ở triều đình đại Tần.
Doanh Chính không cho rằng những lời mẫu hậu nói là phải. Ngài nói:
- Đánh diệt Tây Chu cứu tế thiên tai, cái công lớn ấy, thiên hạ đều biết. Hà cớ gì cứ phải ra sức tầm chương trích cú, múa bút mài nghiên để chạy theo hư danh?
- Con còn nhỏ tuổi, chỉ chú trọng hiệu quả thực tế, con không hiểu rằng việc viết sách, tuy có mất công vót tre [iii] nhưng có thể ghi lại công đức và sự nghiệp, sao có thể coi thường được? - Thái hậu nói rõ tầm quan trọng của việc sáng tác, viết sách.
- Văn chương dù có giỏi mấy cũng làm sao bằng cái nghiệp lớn là mở mang bờ cõi, trị nước cầm quân? - Doanh Chính không hề giấu giếm tư tưởng “trọng võ khinh văn” của mình.
- Nghiệp lớn của đức vua, công lớn của đại thần, nếu không chép lại và lưu giữ, vậy làm thế nào để truyền bá cho đương thế và mãi mãi về sau? Việc văn chương của trọng phụ là ở chỗ đó. - Thái hậu lại nói về ý đồ tốt đẹp của Lã Bất Vi.
Cuối cùng, Doanh Chính đã vạch ra điểm then chốt của vấn đề:
- Những điều mẫu hậu nói, tuy có thể tán đồng, nhưng tại sao không gọi là sách của nước Tần, lại gọi là “Lã Thị Xuân Thu”?
- Theo mẫu hậu biết thì hai mươi vạn chữ đó đều do trọng phụ lựa chọn, đặt tên, và tổng hợp lại. Nên mới gọi là Lã Thị, nhằm ghi lại công việc kỳ vĩ đó. Vậy có gì mà không được? - Thái hậu một mực bênh che cho Lã Bất Vi.
- Con cứ nghĩ rằng họ Lã mượn danh nghĩa triều đình đại Tần, làm nên kiệt tác bất hủ cho riêng mình, lấy đó để lạm quyền ỷ thế, để đối chọi với triều đình. - Sự tức giận của Doanh Chính đã lộ rõ bằng lời nói.
- Ông ấy là thừa tướng của nước Tần, mọi việc đều là để thờ vua; giúp con lên ngôi, và là trọng phụ của con. Huống hồ nay tuổi đã quá năm mươi rồi [iv], để lại một vài điều ghi chép để lưu niệm cuộc đời, tưởng chẳng có gì sai. Hà tất con phải việc bé xé ra to làm gì? - Thái hậu cố gắng hòa giải ác cảm của Doanh Chính đối với Lã Bất Vi.
Doanh Chính không thể kiên nhẫn trước thái độ và cách nói năng của mẹ nữa, bèn chặn lại bằng một câu:
- Trọng phụ với lại trọng phụ, bé xé ra to! Tại sao mẫu hậu không thấy ông ta thường có thái độ thô bạo, không chịu thuần phục và không nghe lời con? Thế mà cứ bênh che ông ấy. Con thật không thể hiểu nổi. - Nói xong, phất tay áo quay đi.
Cuộc nói chuyện này kết thúc chẳng vui vẻ gì. Thái hậu cảm thấy rất băn khoăn lo lắng về tình trạng bất hòa, thậm chí ngày càng xấu trong quan hệ giữa Doanh Chính và Lã Bất Vi. Đối với Triệu Cơ, Lã Bất Vi vừa là chồng cũ, vừa là bạn tình; hơn nữa lại là nhân vật quyết sách của đại Tần, có quan hệ chính trị gắn bó và tùy thuộc lẫn nhau về mặt lợi ích. Nếu quan hệ giữa hai người này gây cấn nhau, đối lập nhau, thậm chí chia rẽ nhau, thì chắc chắn sẽ xẩy ra rắc rối bên trong và tai họa từ bên ngoài. Lúc ấy thì khó mà giữ được nền nếp lễ giáo mẹ con và ân ái vợ chồng; quyền lực vương triều đang nằm trong tay, cũng trở thành miếng mồi của “ngư ông được lợi” và rơi vào tay kẻ khác. Nếu vì thế mà dẫn đến việc xâm nhập của kẻ địch bên ngoài, thì có nguy cơ mất sạch giang sơn đại Tần mà tổ tiên đã dày công xây đắp mấy trăm năm qua.
Triệu Cơ càng suy nghĩ càng lo sợ, đến nỗi suốt đêm không chợp được mắt. Ngày hôm sau, thái hậu bèn sai người gọi Lã Bất Vi đến, nói chuyện thầm thì to nhỏ với ông ngay tại phòng ngủ của mình, bộc lộ hết mọi chuyện mà Doanh Chính đã nói. Lã Bất Vi cũng thấy rất nhiều hiện tượng chứng tỏ Doanh Chính bất bình với mình nhưng không nghĩ rằng nó nghiêm trọng đến mức độ như vậy. Nay nghe thái hậu nói mới thấy tình hình rất nghiêm trọng. Ông cảm thấy hối hận trong việc dùng sách “Lã Thị Xuân Thu” để huyễn hoặc công đức của mình, cách làm quá đơn giản và lộ liễu. Kết quả, tuy có tiếng tăm đấy, đã mở rộng được ảnh hưởng đấy, nhưng lại mắc tội với Doanh Chính, làm cho Doanh Chính nghi ngờ mình. Thật là lợi bất cập hại, biến việc tốt thành việc xấu. Việc Triệu Cơ bênh vực cho mình, thể hiện quan hệ hai người rất thân thiết, sâu sắc, nhưng chỉ lo rằng, chỉ nhỡ một lời nói không cẩn thận cũng đủ để lộ chân tướng thì mối quan hệ tế nhị hiện có giữa hai người cũng tan biến. Vì vậy, nhân lúc đang có quan hệ tình cảm ba bề bốn bên với thái hậu, ông dặn đi dặn lại thái hậu rằng, không được giải thích và nói gì về việc này nữa “mở khóa phải do người đóng khóa làm lấy”, mọi việc cứ để cho ông tự lo liệu “mất bò thì phải tự đi làm chuồng” vậy, lấy lại uy tín cho mình. Việc đầu tiên là ông cho thu dọn bộ “Lã Thị Xuân Thu” ở cổng thành, công việc được tiến hành một cách lặng lẽ. Sau đó, tự mình mang đến trước cung Hàm Dương vứt toẹt xuống đất. Xong tự trách mình:
- Lão thần xưa là thương gia, cứ theo thói xưa: hàng gì có giá là bày ra chợ, để khách tự chọn. Bộ “Lã Thị Xuân Thu” này cũng vậy, đưa bày ngoài thành, quan khách đến xem đủ mặt anh tài, đã mấy ngày qua, không ai nói gì, rằng hay rằng dở, mất công mất của mà chẳng ra gì!
- Khanh đã treo giải thưởng một chữ nghìn vàng, sao chẳng ai nói gì? - Doanh Chính nghe Lã Bất Vi nói chẳng ra gì, bèn hỏi. Trong lòng ngài, có vơi đi phần nào cái ác cảm và nghi kỵ trước đó.
- Có thể vì thu thập quá rộng, viết quá nhiều ngành nên người đọc không thích; cho nên, tuy có trọng thưởng vẫn không có người góp ý kiến. - Lã Bất Vi thừa dịp, làm giảm bớt ảnh hưởng của cuốn sách.
Doanh Chính cười nhạt. Ngài nói:
- Nhạt nhẽo như vậy, chẳng phải là tổn thương đến danh tiếng của thừa tướng hay sao?
- Sách này do các môn khách của hạ thần sưu tầm, hạ thần tổng hợp lại, nội dung nông cạn, không thể đưa vào văn hiến của đại Tần, để khỏi làm nhỡ đến sự tôn nghiêm của đại Tần. Thiên hạ đã không muốn ngó ngàng đến, thì cái tiếng tăm nhỏ nhoi của hạ thần, có đáng kể gì. Chỉ phụ lòng mong đợi của thánh thượng, uổng phí ăn bổng lộc của triều đình, thật hổ thẹn lắm thay!
Với cách nói khiêm nhường, hạ mình, Lã Bất Vi đã che giấu được dã tâm chính trị vốn có trước đây: viết sách nêu lý thuyết để đề cao cá nhân. Ông còn giả vờ tức giận và nói:
- Xem ra bộ sách chẳng ra gì, đem đốt quách cho xong.
Doanh Chính vốn là con người hay nghi ngờ, rất đố kỵ, càng hẹp hòi với mọi người. Nhưng khi thấy đối phương đã ở vào cái thế yếu kém hơn mình, đã chịu thua và thừa nhận thất bại rồi thì Doanh Chính cảm thấy mình đã chiến thắng và mãn nguyện. Hơn nữa, Doanh Chính cũng còn muốn tìm hiểu bộ sách ấy có nói gì về mình hay không. Nghĩ vậy, Doanh Chính bèn nói:
- Thừa tướng hà tất phải thận trọng như vậy. Sách đã viết ra rồi, dù có ảnh hưởng không hay, cũng không nên tính toán hơn thiệt. Cứ tạm để lại đó mà đọc cũng được.
Thực ra thì Lã Bất Vi làm sao mà có thể hủy bỏ một thành phẩm mà mấy trăm người đã làm trong mấy năm, lại đặt tên bằng họ của mình. Đó chẳng qua là để giải tỏa lòng nghi kỵ của Doanh Chính đối với mình, cho nên mới làm cái trò độc diễn kín đáo ấy mà thôi. Và khi nghe Doanh Chính nói không phải đốt thì mừng như mở cờ trong bụng, vội nói:
- Đa tạ ân điển của bệ hạ.
Sau đó sai người đưa cả mấy bó sách viết trên các thanh tre chất lên xe kiệu của mình đưa về nhà. Sau này, Doanh Chính bảo Lý Tư đưa bộ sách ấy đến cho mình xem, thấy trong các thiên “Khứ hưu”, “Bất xâm”, “Hối qua” đều có phê phán các vua Tần: Huệ Văn Khuông, Chiêu Vương và Mục Công, nhưng đều là phê phán từ góc độ tổng kết lịch sử, còn đối với Doanh Chính thì không có lời nào khinh thường hoặc công kích rõ rệt. Cho nên, Doanh Chính cũng không truy cứu nữa. Tuy nhiên, Doanh Chính đã từng cho rằng, sở dĩ Lã Bất Vi tổ chức tập thể sáng tác bộ sách này, lại còn treo giải thưởng “Một chữ nghìn vàng” để thu hút người đọc, là cốt để tỏ rõ thực lực chính trị và tầm vóc to lớn của ông ta. Cũng có nghĩa rằng, Lã Bất Vi viết sách không phải để có sách, mục đích của ông nằm ngoài bộ sách. Tức là, bộ sách đó cùng với hơn ba nghìn môn khách của ông, là một thế lực hùng mạnh kình địch với Doanh Chính; là một tập đoàn chính trị to lớn hùng cứ trên vũ đài chính trị đại Tần.
Qua hai sự việc “Một chữ nghìn vàng” và chuyện tư tình với thái hậu suýt nữa bại lộ, Lã Bất Vi cảm nhận sâu sắc rằng, thích huênh hoang và trọng tình cảm là nhược điểm chết người của ông. Ông nhất thiết phải sửa. May mà ông sớm thu vén, lại giỏi biện bạch nên không xảy ra hậu quả nghiêm trọng. Về quan hệ với thái hậu, đã có Lao Ái thay thế cho nên ông cũng thoát ra một cách thể diện, chẳng khác gì như “ve sầu lột xác”. Ông nghĩ rằng từ nay sẽ phải chú ý củng cố cái ghế thừa tướng và phát triển thế lực vừa để bảo vệ bản thân, vừa tích tụ lực lượng, chờ thời. Khi điều kiện chín muồi, sẽ lật đổ Doanh Chính, chiếm lấy chính quyền đại Tần. Nhưng ông đã quên mất một tập đoàn chính trị lớn mạnh khác đang nhanh chóng nổi lên, đó là bọn Lao Ái, một nhân vật đặc biệt mà ông đích thân tiến cử cho thái hậu.
Khi thái hậu và Lã Bất Vi gặp nhau, hai người bao giờ cũng nói chuyện về triều chính, thái hậu vẫn chủ ý giữ vai trò thái hậu của mình. Còn bây giờ thì thái hậu đang gần kề với một anh chàng vũ phu, hoàn toàn không có một chút hiểu biết gì về chính trị. Từ địa vị cao sang nhất, thái hậu trở lại với địa vị và tâm trạng của một người phụ nữ bình thường, tự coi mình phụ thuộc vào người tình mới, mà cũng thực sự là người chồng mới. Do đó, thái hậu cảm thấy thoải mái, vui vẻ. Còn Lao Ái thì do hiểm họa mà lại được hưởng phúc; hơn nữa còn được mệnh phụ phu nhân cao quý nhất ôm ấp yêu chiều, cho nên cảm thấy vô cùng hãnh diện. Cố nhiên, quan hệ tình cảm giữa hai người rất nồng hậu. Nhất là thái hậu, giờ đây nàng dã trút bỏ được tâm lý sợ hãi và gánh nặng tinh thần; vì trước đây, trong ba năm lén lút thông dâm với Lã Bất Vi, lúc nào cũng canh cánh lo lắng trong lòng, còn bây giờ thì mặc sức hành sự. Vì vậy, chuyện gì đến thì đã đến. Đó là chưa đầy nửa năm ăn nằm với Lao Ái, tức là năm Doanh Chính mười chín tuổi (năm 240 trước Công nguyên), thái hậu mang thai. Nàng vui mừng báo tin này cho Lao Ái. Đối với Lao Ái, đây thật sự là một tin sét đánh ngang tai, anh chàng sợ đổ cả mồ hôi hột. Lao Ái vội vàng nói:
- Nếu nhà vua biết được, thì tính mạng nô tài chẳng còn?
Nhưng thái hậu thổ lộ với Lao Ái nỗi đau của mình:
- Ta tuy được gả cho vương tôn Tử Sở và rồi làm hoàng hậu, nhưng có đến một nửa cuộc đời sống khổ sống sở, có chồng mà chẳng được sống bền lâu, có con mà thiếu hẳn thân tình mẫu tử. Còn có cái khổ nào bằng. Nay may mắn gặp người, được thỏa lòng ân ái, hòa hợp như cá với nước, nay đã có thai, cớ sao không giữ lại, để hoàn thành cái nghĩa mà đạo trời đã cột chặt ta và chàng?
- Hạ thần được thái hậu chiều chuộng, cái ơn ấy mang mãi suốt đời Nhưng rốt cuộc thì vẫn là giao hoan vụng trộm, chỉ là đôi vợ chồng hờ, tạm bợ, nhưng như thế cũng đủ lắm rồi, sao còn dám sinh con và làm cha làm mẹ nữa? - Lao Ái vẫn lo lắng trong lòng.
Triệu Cơ vừa sụt sùi vừa nói rất thương cảm:
- Đã có chồng, ắt phải có con. Đó mới vẹn toàn cái đức của người phụ nữ. Ta đã là vợ của chàng, ắt phải là người mẹ có con. Nếu không, làm sao có thể thỏa lòng ước nguyện của ta và còn gì là ý nghĩa của đạo làm người nữa?
- Thái hậu đã định đoạt như vậy, hạ thần không dám không nghe. Nhưng phải nghĩ cho ra một mưu kế gì cho an toàn, để khỏi hậu họa về sau. - Lao Ái đành phải vâng lời thái hậu, nhưng mong sớm có một biện pháp.
Triệu Cơ yêu cầu Lao Ái cứ bình tĩnh, không tự để lộ chân tướng, cố gắng trong thời kỳ đầu mang thai, không ai phát hiện ra là được.
Lúc ấy bà Hạ Cơ, mẹ đẻ của Tử Sở chết. Hạ Cơ là bà nội của Doanh Chính. Từ nhỏ Doanh Chính đã biết cuộc đời bất hạnh của bà nên Doanh Chính làm lễ tang cho bà rất long trọng. Thái hậu Triệu Cơ mặc tang rộng thùng thình, hai tay lại luôn đặt trước bụng, hoàn toàn che giấu được cái thai mới nhú ở bên trong. Hơn nữa, tất cả các thành viên hoàng gia và triều thần đều đứng cúi gầm mặt xuống để tưởng nhớ lão thái hậu Hạ Cơ; cho nên, chẳng ai để ý đến nàng. Vì vậy, Triệu Cơ trót lọt vượt qua một tuần tang lễ. Hơn nữa, khi nhìn thấy các thầy mo, thầy cúng, cô đồng, đang cầu khấn cho vong linh siêu độ và bói toán nơi chôn cất người quá cố, Triệu Cơ lại liên tưởng tới ngày nào, Lã Bất Vi cũng bày trò tương tự để đưa Tử Sở lên ngôi thái tử, chiếm đoạt cái ghế của Tử Hề là anh của Tử Sở, còn bản thân (Lã Bất Vi) thì được Hiếu Văn Đế phong làm thừa tướng. Như vậy là lễ tang long trọng với thầy cúng cô đồng đầy đủ lễ bộ này, đã mang lại kinh nghiệm cho thái hậu trong việc tìm mưu kế giải quyết việc nan giải của mình. Tối hôm đó, thái hậu rất vui, nàng lại chủ động kéo Lao Ái vào giường. Lao Ái tuy vẫn hăng hái giao hoan nhưng vẫn tỏ ra chẳng vui chút nào, vì còn lo lắng cho tính mạng của mình. Triệu Cơ biết ý, bèn nói nhỏ thầm thì một lúc. Lao Ái nghe xong mừng rơn.
Ngày hôm sau, có tin từ cung Cam Tuyền truyền ra nói rằng thái hậu bị đau quặn bụng, đau cấp tính. Doanh Chính vội sai ngự y đến thăm khám và chữa trị. Nhưng vô hiệu. Chẳng những thế mà còn đau dữ dội hơn. Lao Ái là hoạn quan hầu hạ gần nhất của thái hậu, nên đã tự mình đi mời thầy cúng cô đồng đến xem quẻ bắt mạch. Một nhóm thầy cúng, thầy mo, cô đồng đến ngay và lập đàn chay ngay chính giữa phòng lớn của cung Cam Tuyền. Họ thắp đèn đất hương, rắc giấy cầu thần, vung tay múa kiếm, mồm niệm thần chú, rồi đốt miếng vỏ rùa cháy khét lẹt. Sau lại giơ miếng vỏ rùa ngang mặt, xem đi xem lại, chỉ tay vào miếng vỏ rùa đã bị cháy nham nhở cho đức vua Doanh Chính xem, rồi nói rất trịnh trọng:
- Xin xem cho kỹ, vỏ rùa đã nứt, báo hiệu chẳng lành, gây bao tai hại, thái hậu bị đau là do bọn chúng, mau mau lánh xa để tránh tai họa!
- Nhưng không biết tránh ở đâu bây giờ? - Doanh Chính vội hỏi.
Cô đồng lại đốt một miếng vỏ rùa khác, nhắm tịt mắt lại rồi chỉ những đường nứt trên vỏ rùa cho nhà vua xem, nói:
- Những đường nứt này nói rằng, bọn ma quỷ từ phía Tây tới, nay Thái hậu phải đi về phía Đông. Người bị ma ám phải đi ngược chiều với ma mà. Phải đến một nơi cách Hàm Dương hai trăm dặm về phía Tây, ở đó mới yên ổn sinh sống, phục hồi ngọc thể.
Nhà vua suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Từ đây đi về phía Tây hai trăm dặm, có cố đô Ung Thành, nơi mà thế tổ thứ tám Đức Công đã xây dựng, chắc là vỏ rùa muốn nói nơi này đây.
Ngay lúc ấy, có một thị vệ tự xưng là lão thần ba triều vua, bẩm báo rằng:
- Tiểu thần đã đi theo ba đời tiên vương đến ngự lãm Ung Thành (nay là huyện Phong Tường tỉnh Thiểm Tây), cung Đại Trịnh do nhà vua Đức Công xây dựng nay vẫn còn nguyên vẹn, các phòng ngủ phòng chơi rất đầy đủ, có vườn hoa lầu các, có hồ nước lung linh, có chim chóc muông thú, là nơi vui chơi du ngoạn tốt nhất. Nghỉ ngơi tĩnh dưỡng ở đó, thật chẳng có nơi nào bằng.
- Có một nơi tiên cảnh như thế, thật là ơn trạch của tiên vương để lại, ban phước cho mẫu hậu rồi đấy.
Doanh Chính nói rất vui vẻ. Sau đó, liền sai thị vệ cho người đến cung Đại Trịnh quét dọn sạch sẽ để nghênh đón thái hậu đến. Lại còn trọng thưởng cho hai cô đồng. Bọn này tạ ơn muôn vạn lần rồi cáo từ ra về. Dọc đường, chúng cười rả rích với nhau, bởi vì trước đó Lao Ái đã cho họ năm mươi dật vàng rồi (mỗi dật bằng 20 - 24 lạng). Những lời phán đoán từ vỏ rùa, chẳng qua chỉ là do thái hậu bày đặt ra và do Lao Ái nói cho họ biết để làm đúng như thế.
Trong thời gian chuẩn bị để thái hậu chuyển đến nơi ở mới, Doanh Chính thường lui tới cung Cam Tuyền để thăm mẹ ốm. Thái hậu thì luôn luôn nằm trên giường, đắp kín chăn gấm; cho nên, nhà vua không thể phát hiện mẹ mình đã có thai mấy tháng rồi. Thái hậu thì giả vờ bệnh tình rất nặng cứ than thở rằng Lao Ái chỉ là một quan hoạn nội thị bình thường, khi đến cung Đại Trịnh, ở đó có rất nhiều hoạn quan cũ từ đời vua trước, vậy Lao Ái làm sao có thể sai bảo được những người ấy. Nhà vua bèn phong Lao Ái làm trưởng hoạn quan ở cung Đại Trịnh, tổng quản mọi việc ở cung này. Thái hậu vội bảo Lao Ái khấu đầu tạ ơn đại vương. Lao Ái vội làm theo và hứa sẽ hết lòng hết sức hầu hạ thái hậu, để không phụ lòng mong đợi của đại vương.
Sau khi thái hậu và Lao Ái đi khỏi cung Cam Tuyền, quan hệ giữa nhà vua và thừa tướng Lã Bất Vi có bớt căng thẳng; tâm tư của hai người ở vào trạng thái rất tế nhị, nhưng không ai để lộ ý nghĩ của mình. Doanh Chính thì nghĩ rằng, lão già họ Lã này chắc là vẫn rất thèm khát cái váy của mẫu hậu đây [v]. Còn Lã Bất Vi thì cho rằng, ta đã tiến cử một “của quý” để hoan lạc với thái hậu rồi, xem ra cả hai người đều say đắm như nhau, kẻ tám lạng người nửa cân, lúc nào cũng cảm thấy chưa đã cơn thèm, thật là xứng đôi vừa lứa. May mắn hơn nữa là họ đã nghĩ ra một diệu kế, cao chạy xa bay. Từ nay, chuyện dâm loạn trong cung, Doanh Chính không tài nào phát hiện được nữa. Bản thân Lã Bất Vi cũng không bị liên quan với chuyện hành lạc mới của thái hậu, nên có thể yên tâm và mạnh dạn làm công việc của mình. Nhưng Lã Bất Vi không biết rằng, sau khi thái hậu và Lao Ái đến Ung Thành, không những có thể hoàn toàn tự do thỏa thích trong sinh hoạt tình dục mà còn nhanh chóng hình thành một thế lực mới, suýt nữa thì lật đổ triều đình của Doanh Chính.
Sự việc diễn ra như sau. Sau khi Triệu Cơ và Lao Ái thực hiện được mưu kế “chuyển nhà” của mình, Lao Ái lại nắm trọn quyền lực to lớn là tổng quản của Đại Trịnh, bèn sinh ra xa hoa dâm đãng, bao nhiêu gái cũng không vừa, muốn làm gì thì làm. Trong khi đó vẫn thỏa mãn mọi dục vọng của thái hậu, chỉ trong hai năm bà đã liên tục sinh ra hai chú bé kháu khỉnh lanh lợi, bập bẹ suốt ngày, ngây thơ khả ái. Vợ chồng sáng chiều quấn quýt bên nhau, con cái vui chơi quanh mình, cuộc sống như thế là mãn nguyện lắm rồi. Qua những điều thổ lộ của thái hậu thì bà rất bằng lòng với hiện trạng, không mong muốn gì hơn nữa. Nhưng Lao Ái thì khác, một phần vì Triệu Cơ đã quá bốn mươi, lại liên tiếp đẻ hai đứa con, không còn đòi hỏi tình dục sôi sục như trước, không thể đáp ứng đòi hỏi của Lao Ái nữa. Một phần khác là vì trong cung có hàng trăm cung phi và đều trẻ đẹp xinh tươi, luôn luôn hấp dẫn Lao Ái, một kẻ chuyên nghề làm tình nổi tiếng. Vì vậy, Lao Ái lại tái phạm cái bệnh mà anh ta đã mắc phải khi ở Hàm Dương. Tức là luôn luôn đưa cung phi vào phòng riêng và hành lạc vô tội vạ. Sự việc đến tai thái hậu, bà nhiếc mắng Lao Ái phụ nghĩa bạc tình. Trước mặt Triệu Cơ, Lao Ái thề sống thề chết rằng từ nay xin chừa, quyết không tái phạm nữa. Nhưng chỉ mấy ngày sau thì lại chứng nào tật ấy dâm loạn liên miên. Thái hậu tự biết mình nhan sắc đã tàn phai không thể thỏa mãn sự thèm khát tình dục không bao giờ cạn của chàng vũ phu Lao Ái cho nên thái hậu đành dùng tiền tài để anh ta tiêu xài nhằm thỏa mãn dục tình của mình. Ngoài việc cung phụng tiền vàng cho Lao Ái mặc sức xa xỉ, thái hậu còn luôn luôn nói với Doanh Chính rằng Lao Ái đã hầu hạ mình chu đáo tận tình như thế này thế nọ, ông ta làm tổng quản cung Đại Trịnh rất tốt, đâu vào đấy, công sức rất to lớn.
Lúc mới đầu, nhà vua chỉ nghe xong để đấy, biết vậy thôi, chẳng nói gì. Thái hậu bèn nói thẳng rằng bà muốn nhà vua ban thưởng và phong chức cho Lao Ái. Doanh Chính vâng lời mẹ, phong Lao ái làm Trường tín hầu, ban cho đất Sơn Dương (nay là huyện Tu Vũ, tỉnh Hà Nam), còn đổi tên quận Thái Nguyên trên đất Sơn Dương thành quận “Ái Quốc” (Nước của Lao Ái). Nhà vua còn chỉ dụ yêu cầu Lao Ái lập tức chuyển đến ở tại đất phong của mình là Sơn Dương. Điều này làm cho thái hậu dở cười dở khóc. Bởi vì, lúc đầu bà nghĩ rằng mình xin nhà vua phong chức ban thưởng cho Lao Ái, Lao Ái sẽ cảm ơn mình và sẽ ở lại bên cạnh mình. Ai ngờ lại đi xa tới hàng nghìn dặm. Quả là đang yên đang lành bỗng gây ra tai họa. Bà suy nghĩ mãi để tìm cách nói với nhà vua không bắt Lao Ái đi Sơn Dương, để anh ta ở lại hầu hạ mình. Nhưng lại rất sợ là có thể vì thế mà làm cho nhà vua sinh nghi ngờ, biết được đã có hai đứa con thì hậu quả không biết đến đâu mà lường. Bà lại tiếp tục suy nghĩ. Bà cho rằng lần trước Doanh Chính đã từng nghi ngờ mối quan hệ giữa mình và Lã Bất Vi và cũng đã chẳng mấy tin vào tiết hạnh của mẫu hậu rồi, cho nên bây giờ, chi hơn là cứ nói thẳng mọi chuyện với Lao Ái. Lúc ấy, nếu con (Doanh Chính) thông cảm với nỗi lòng cô quạnh của một người quả phụ như mẹ, có lẽ sẽ cho phép Lao Ái ở lại chăng. Cho dù Doanh Chính không tán thành thì cũng không thể đem chuyện xấu trong nhà để nói cho thiên hạ biết, vì đây là sự thể diện của cả vương triều đại Tần và của cả chính bản thân Doanh Chính. Với suy nghĩ đó, Thái hậu nói chuyện này với Lao Ái, và sẽ cùng Lao Ái đến gặp nhà vua lúc đó, bà sẽ vén tấm màn bí mật lâu nay bao trùm quan hệ giữa bà và Lao Ái; và bà sẽ cầu xin con rủ lòng thương hại mẹ goá. Lao Ái nghe thái hậu nói vậy bèn lắc đầu. Lao Ái biết rõ rằng nhà vua Tần Doanh Chính rất sĩ diện, không bao giờ chấp nhận mối quan hệ như vậy, chưa biết chừng ngài còn phát điên phát khùng lên và lúc ấy thì hậu quả khôn lường. Thái hậu nói:
- Sự việc không đến nỗi nguy hiểm như vậy đâu!
Lao Ái bèn nhắc lại việc nhà vua đã đánh dẹp vụ nổi loạn của Thành Kiều trước đây cho thái hậu:
- Trong vụ nổi loạn của Thành Kiều, nhà vua và Thành Kiều là anh em ruột cùng cha khác mẹ, quan hệ thân thiết như thế, nhưng nhà vua vẫn thẳng tay bức tử Thành Kiều. Hành động này của nhà vua chắc chắn là được quyết định sau khi ngài biết được chuyện xấu xa trong gia đình mình qua bản hịch văn của Phàn Vu Kỳ viết. Lúc đó, hạ thần cũng tham gia trận đánh Đồn Lưu, nên mới biết việc này. Do đó, mối quan hệ giữa hai ta, nhất quyết không được nói cho nhà vua biết. Nếu không may mà nhà vua biết được, thì dù đối xử với thái hậu như thế nào chăng nữa, chứ không bao giờ tha thứ cho hạ thần. Lúc đó thì nhà vua có thể không nói gì, nhưng sau đó thì có thể lấy bất cứ lý do nào đó để giết hạ thần bất cứ lúc nào. Thái hậu có thể nhẫn tâm để cho hạ thần hồn lìa khỏi xác, chết mất mạng ư?
Nói đến đây, Lao Ái cảm thấy rất sợ hãi, bỗng gục đầu vào lòng Triệu Cơ mà khóc.
Thái hậu cũng tỉnh người ra sau khi nghe Lao Ái nói vậy. Bà cũng thấy sợ, không thể liều mạng chủ động nói rõ sự thật để rồi mang vạ vào thân. Nhưng bà vẫn muốn tìm ra một giải pháp nào đó để giữ chân Lao Ái lại ở bên mình mà không gây ra sự nghi ngờ của Doanh Chính. Bà thở dài não nuột:
- Đã là vợ chồng thì phải ăn ở với nhau đàng hoàng. Còn đàng này thì sống chui sống lủi, thật không thể chịu nổi. Tại sao lại đến nông nỗi này?
Lao Ái cũng nói:
- Đó là vì Doanh Chính có quyền lực, muốn giết ai thì giết, muốn cho hay muốn tước đoạt của ai cái gì đều được cả. Tính mạng của chúng ta và hai đứa con đều nằm trong tay của Doanh Chính; cho nên việc gì cũng cứ phải cẩn trọng, hết sức kín đáo!
Thái hậu nói:
- Quyền lực ư? Quyền lực lợi hại như vậy ư? Đến nỗi không thèm nhận người nhà anh em [vi] của mình ư? Theo ngôi thứ thì ta là mẹ đẻ của nhà vua, chàng là chồng của ta. Lẽ ra Doanh Chính phải gọi chàng là “cha dượng” mới phải. Nhưng chúng ta lại phải sợ, sợ cái quyền lực của Doanh Chính... - Thái hậu càng nghĩ càng không thông, càng tức giận. Bà nói tiếp - Chúng ta cũng phải có quyền lực chứ! Phải có quyền lực để bảo vệ cuộc sống của gia đình chúng ta, bảo vệ con cái của chúng ta.
Qua những lời than vãn của Triệu Cơ, Lao Ái được gợi mở, Lao Ái thấy ra vấn đề, bèn nhắc nhở Triệu Cơ:
- Quyền lực ấy à, thái hậu cũng có đấy. Cái ngọc tỷ (con dấu bằng ngọc) mà thái hậu đang cầm trong tay, chính là quyền lực. Hạ thần nay là “Trường tín hầu” cũng có con dấu, có quyền lực, cũng có thể dùng quyền lực đó để sinh, sát, cho và chiếm đoạt.
Đến đây, trong quá trình đấu tranh để được tự do yêu đương và hết sức đau khổ vì không được tự do như thế, đôi nam nữ bình thường này đã nhận ra tầm quan trọng của quyền lực và sinh ra ham muốn tăng cường và mở rộng quyền lực của mình.
Vì vậy Lao Ái càng phải đi Sơn Dương. Đến đó để thành lập vương quốc riêng của mình, để có thể sống tự do phóng đãng hơn. Về chính trị, có thể kình địch với Doanh Chính, lúc cần thiết có thể huy động quần chúng, lật đổ cả triều đình nhà Tần.
Lúc phải xa nhau, thái hậu và Lao Ái rất quyến luyến, không muốn rời nhau. Nhưng vì tham vọng quyền lực, nên buộc phải tạm thời ly biệt. Sau khi đến Sơn Dương, nhờ có thu hoạch kinh tế của đất phong và cũng do của cải rất hậu mà thái hậu ban cho, Lao Ái đã xây dựng nhà cửa hết sức khang trang rộng lẫy, gọi là “Phủ trường tín hầu”, sống cực kỳ xa hoa hoang phí. Lao Ái muốn bằng vai bằng lứa với Văn tín hầu Lã Bất Vi ngay cả về dinh thự, nhà cửa, không chịu thua kém một ly. Đó chính là ý chỉ của thái hậu. Bà muốn cho người chồng mới của bà phải hơn người chồng cũ. Vì vậy, trong một thời gian ngắn, Lao Ái đã có tới ba trăm thê thiếp ca kỹ và hơn tám nghìn gia nô (nô lệ gia đình) [vii], lại còn có hơn một nghìn môn khách đến nương tựa Lao Ái để hy vọng phát đạt và phát huy tài năng của mình. Tiếng tăm và phong độ của Trường tín hầu nổi lên như cồn. Từ nay Lao Ái đã có thể có thái độ ngạo mạn và ương ngạnh đối với đô thành Hàm Dương rồi.
Để làm vừa lòng thái hậu về tình cảm, nhất là để bòn rút càng nhiều sự cung phụng và tiền của, Lao Ái thỉnh thoảng trở về Ung Thành để sống chung với thái hậu, đem thêm nhựa sống cho bà. Thái hậu cảm thấy Sơn Dương ở xa Ung Thành quá, bà sống một mình không chịu nổi, Lao Ái bèn xây một biệt thự tại Nam Dương, gọi là “Phủ trường tín hầu” tại đô thành, đưa toàn bộ người nhà, gia nô và môn khách về đó ở. Ngoài ra, vẫn tiếp tục gây dựng những người ủng hộ mình, giao tiếp rộng rãi với tầng lớp quyền quý. Để làm suy yếu thế lực của Doanh Chính, Lao Ái không tiếc tiền, bỏ ra những khoản lớn để mua chuộc một số cận thần của vua Tần về với mình, trong đó có “vệ úy” Kiệt, quan bảo vệ cung đình; “nội lại” Tứ, trưởng quan hành chính Hàm Dương; “tá dặc” Kiệt, quan trông coi việc săn bắn của nhà vua và việc tuần tra ở cung đình. Lao Ái cậy thế cậy của, ra sức lôi kéo chia rẽ, lung lạc lòng người, đến mức nghênh ngang ngạo mạn, bất chấp hết thảy, coi trời bằng vung.
Lao Ái là một tay lang bạt kỳ hồ, chẳng qua gặp may mà bỗng chốc phất lên về chính trị, nên nhanh chóng quên mất thân phận của mình, lao vào ăn chơi phóng đãng, phơi trần cái bản chất hèn hạ, xấu xa của mình. Một hôm, ông ta được “trung đại phu” Lệnh Tề, mời cơm.
Khi hơi men đã chếnh choáng, người nào cũng mặt đỏ tía tai, bèn bảo nhau đưa bài ra đánh, chơi trò đỏ đen, mua vui xả láng. Lao Ái vốn là dân nghèo kéo xe bán đậu phụ đi rong ngoài phố, sống chui rúc trong đám tiểu thị dân thấp hèn nhất của xã hội, cho nên giờ sẵn có đồng tiền, khi ngồi vào sòng bạc, lúc nào cũng do dự chần chừ, rụt rè tính toán, đúng theo kiểu cách ti tiện keo kiệt của dân nghèo lưu manh. Nhưng cũng vì thế mà thành một thói quen là chỉ thắng, không chịu thua. Nói cho đúng hơn là: thắng thì được, thua thì không chịu.
Nhưng nay Lao Ái đã là người tình của thái hậu, lại được phong làm Trường tín hầu, có đất vua ban, có cung thất biệt thự, có bổng lộc tiền tài; lẽ ra ở sòng bạc phải tỏ ra tay chơi sang, hào phóng hơn người, chỉ chơi cho vui, chẳng màng thua được mới phải. Nhưng như người đời vẫn nói, giang sơn dễ đổi thay, còn bản tính con người khó thay đổi. Đánh chết cái nết không chừa. Lao Ái cũng vậy. Khi nào được vài ván thì hớn hở mặt mày, nói cười bô bô, huênh hoang tự đắc. Khi nào thua thì mặt mày tái mét, mắt đỏ sòng sọc, phùng mang trợn má, hăm dọa người được tiền. Bộ mặt Lao Ái lúc ấy rất bỉ ổi, đáng ghét vô cùng. Hôm nay, đúng như câu tục ngữ nói: “Làm tình thoải mái, đánh bạc thua hoài”, mỗi khi Lao Ái “cầm cái” đều bị thua, mất rất nhiều tiền. Lao Ái cho rằng mình còn vận đen, một người mà phải đối phó với nhiều người thì thua là cái chắc. Nghĩ vậy, cho nên chưa tiện nổi nóng lên. Bây giờ đến lượt “trung đại phu” Nhan Duệ “cầm cái”, Lao Ái bèn hăng máu đặt rất nhiều tiền, hòng gỡ lại con số đã bị thua. Ai ngờ cứ thua mãi, như vứt tiền cho người khác nhận, đút chuối cho voi ăn. Lao Ái sốt ruột vô cùng, cứ nhấp nhỏm không yên. Nhưng càng đánh bạc càng khát nước. Lao Ái ném thêm tiền xuống chiếu, coi như một mình đánh với người cầm cái. Nhưng vẫn thua, Lao Ái cay cú phát khùng, bèn giở trò du côn, giơ tay vơ hết số tiền lớn mà mình vừa bỏ ra, cho vào tay áo, không để cho người “cầm cái” lấy. Nhà cái Nhan Duệ cố nhiên không chịu, đòi Lao Ái phải bỏ tiền ra, Lao Ái khăng khăng không nghe, nói bừa rằng “nhà cái” đánh tráo bài, chơi gian nên ông ta mới bị thua. Nhan Duệ không lấy được tiền, lại còn bị vu cáo độc địa, nên cũng nổi nóng, xông vào Lao Ái giằng lấy số tiền trong ống tay áo Lao Ái. Lao Ái đang có đà, bèn gạt Nhan Duệ sang một bên rồi chửi:
- Ta là quan “hầu”, Trường tín hầu, thắng thì lấy, thua thì đánh [viii]. Ta không đưa tiền cho nhà ngươi, làm đếch gì ta nào?
Nhan Duệ không chịu lép vế, chửi lại Lao Ái rất đau:
- Nhà ngươi chỉ lòe loẹt bên ngoài rỗng ruột, bên trong chỉ là đồ vô lại, thất đức thất tín, lưu manh côn đồ.
Chủ nhà Lệnh Tề và Tử Khang, chú của nhà vua Doanh Chính cũng có mặt ở đó, rất sợ vụ việc này to ra, sẽ rất lôi thôi, bèn đến can ngăn, lôi hai người ra, đẩy mỗi người ra xa một nơi. Nhưng khi bị tách ra, hai người vẫn rất hùng hổ. Nhan Duệ chỉ tay vào mặt Lao Ái chửi độc:
- Mày là tên quan hoạn, cớ gì mà làm được Trường tín hầu?
Câu chửi này trúng tim, Lao Ái tức điên người, quên hết mọi chuyện, xông vào tát Nhan Duệ hai cái lại còn đắc chí trả lời:
- Cớ gì hả? Ta là cha dượng (cha kế) của đương kim Tần vương, là cha dượng của vua Tần, chứ chẳng chơi.
- Quan “hầu” say rồi, mới nói vậy thôi.
- Nói vậy là bậy bạ, mắc tội khi quân đấy. - Lệnh Tề đại phu và Tử Khang (em ruột Tử Sở) vội ngăn lại.
Lúc này, Lao Ái hoàn toàn mất tự chủ, nói rất rành mạch:
- Sao lại không được nói? Thái hậu và ta đã lấy nhau ba năm, đã có hai con, đều ở cung Đại Trịnh, chúng đều là em của vua Tần. Ta danh chính ngôn thuận là cha dượng vua Tần, chẳng có gì mà hổ thẹn cả! Ha! Ha! Ha!...
Mọi người có mặt, đều kinh ngạc vô cùng, ai cũng trợn mắt lè lưỡi, lúng ta lúng túng; chỉ có “trung đại phu” Nhan Duệ vừa ôm mặt bị tát, vừa khóc van:
- Tội của hạ thần đáng chết muôn phần, đáng chết vạn phần! - Rồi chạy ra khỏi nhà.
Vua Tần đang ngồi đọc bản tấu, bỗng nghe nội thị vào bẩm báo rằng trung đại phu Nhan Duệ có việc khẩn muốn yết kiến. Nhà vua liền cho vào.
Nhan Duệ vừa vào đến nơi, vội phủ phục xuống đất nói:
- Hôm nay hạ thần đã mắc tội tày trời, xin đại vương tha chết.
Doanh Chính hỏi:
- Nhà ngươi phạm tội gì, sao không nghe thừa tướng bẩm báo gì cả?
Nhan Duệ nói:
- Hạ thần vừa rồi đắc tội với Trường tín hầu.
Nhà vua cả cười mà rằng:
- Tội nặng đến mức phải xử tử ư?
Nhan Duệ bèn nói rõ hơn:
- Hạ thần đã uống rượu, đánh bạc với Lao Ái, Lao Ái không chịu thua, còn đánh hạ thần.
Nhà vua có phần sốt ruột. trách Nhan Duệ:
- Việc này nhà ngươi tự chuốc lấy mà thôi, cho qua đi cho xong chuyện, việc gì cứ lắm lời, còn làm to chuyện đến mức xin tha tội chết, nhà người coi luật lệ đại Tần là trò đùa ư?
- Hạ thần không dám. Chỉ vì Trường tín hầu nói nặng lời, nhục mạ đại vương. Hạ thần là người đã gây ra cuộc cãi vã đó, nay xin tự chịu tội trước đại vương. - Nhan Duệ vừa nói, vừa run sợ.
Doanh Chính nghiêm sắc mặt, hỏi gấp:
- Ông ta dám nhục mạ ta ư?
- Hạ thần... không dám ạ. - Nhan Duệ đưa mắt nhìn bọn nội thị ở gần đó.
Nhà vua biết ý bèn đuổi nội thị đi ra và giục Nhan Duệ nói ngay. Nhan Duệ run sợ, nói lập cập:
- Trường tín hầu chửi hạ thần dám trái lời ông ta, ông ta là cha dượng của đại vương.
- Thật đúng là đáng tội chết ngàn lần! - Nhà vua tức giận, vội đứng ngay dậy, ngài thét lên - Nhà ngươi dám làm nhục ta như thế ư?
- Hạ thần dù có to gan bằng trời di nữa cũng không dám láo xược với đại vương như thế. Đó là câu của chính miệng Trường tín hầu nói ra đấy ạ!
Nhà vua không nói gì thêm nữa, ngài chỉ bảo Nhan Duệ giữ kín chuyện này, chờ điều tra xác minh sự thật. Sau khi Nhan Duệ di khỏi, nhà vua cho gọi Tử Khang (chú ruột) và Lệnh Tề, trung đại phu. Hai người này đều nói giống như Nhan Duệ, ngoài ra còn nói thêm rằng, Lao Ái còn điên cuồng nói rằng ông ta sẽ đưa đứa con đẻ hoang đó thay ông ta để lên làm vua nước đại Tần. Nhà vua tức giận đỏ mặt tía tai, run bắn người lên. Ngài bỗng nhớ tới bài hịch của Phàn Vu Kỳ hồi nào, đã làm cho ngài nhục nhã quá chừng. Nhưng lúc đó chỉ là dư luận, còn có thể dễ dàng bác bỏ và xóa sạch đi. Nay Lao Ái có mẹ mình làm hậu thuẫn, đang nuôi hai đứa con riêng để dòm ngó ngai vàng quân chủ của mình. Hơn nữa, đã hình thành một tập đoàn chính trị - quân sự lớn mạnh. Nếu xử lý không khéo, chẳng những không diệt được giặc, mà còn chuốc họa vào thân. Ngài có ý định gặp riêng Lã Bất Vi để mật đàm đối sách, nhưng lập tức nhớ lại cảnh ân ái giữa ông ta và thái hậu mà ngài bắt gặp, nên cảm thấy rất ghét ông ta. Hơn nữa, Lã Bất Vi có ba ngàn thực khách, một vạn gia nô lại còn rất nhiều quan lại trong triều nhờ cậy dựa dẫm, cho nên cũng không thể coi thường. Nếu làm cho hai cánh thế lực đó xung đột lẫn nhau, thì bản thân ngài sẽ nắm chắc phần thắng. Nếu để cho họ bắt tay nhau, ngài sẽ bị cô lập, sẽ nguy hiểm hơn tình hình hiện nay. Cho nên, ngài nghĩ rằng, nếu yêu cầu Lã Bất Vi hợp lực với ngài để diệt Lao Ái, e rằng không chắc ăn, thà cứ một mình ra tay cứu vãn tình thế.
Sau khi suy nghĩ rất kỹ như vậy, nhà vua giả vờ như không hay biết gì về chuyện rắc rối xảy ra giữa Nhan Duệ và Lao Ái. Ngài chuyên tâm vào kế hoạch của mình. Nhân ngày sinh thứ 21 của Doanh Chính (năm thứ chín Tần Doanh Chính; tức năm 238 trước Công nguyên), một ngày nào đó của tháng Tư năm ấy, nhà vua ngồi xe loan sơn son thếp vàng, có đội kiêu binh đi trước, hai hàng hộ vệ đi hai bên, phía sau là một đoàn dài, nối đuôi nhau, gồm cung tần mỹ nữ, hoạn quan nội thị, thành viên hoàng gia, văn võ bá quan, cờ bay rợp trời, xập xình chiêng trống, nổi đám nổi đình, ra khỏi Hàm Dương tiến thẳng đến Ung Thành. Đoàn ngự giá của nhà vua đông tới mấy trăm người, rầm rầm rộ rộ hành quân. Đó là theo quy chế của nhà Tần, mỗi khi vua mới, đến kỳ sinh nhật 21 tuổi đều phải đến Ung Thành là nơi tiên tổ nhà Tần do Đức Công xây dựng nên để làm lễ “gia miện” [ix]. Đó là ngày lễ lớn cả nước trông vào, mọi đại thần đều phải tham gia. Riêng Lao Ái thì có tật giật mình, giả vờ đập bệnh, xin nghỉ ở nhà và được nhà vua đồng ý.
Lã Bất Vi đương nhiên phải theo xa giá đồng hành. Nhưng ông ta lại tiết lộ việc nhà vua đến Ung Thành cho “vệ úy” Kiệt, người phụ trách đội vệ binh cung đình, bạn của Lao Ái và đó chính là nguyên nhân khiến Lao Ái đột nhiên mắc bệnh. Lã Bất Vi thì đã có sẵn mọi mưu kế rồi. Cuộc biến động cung đình này, nếu Doanh Chính thắng thì Lã Bất Vi đương nhiên vẫn có cái thế “phụ tá có công”, nên vẫn nắm chắc trong tay cái ghế thừa tướng; hơn nữa có thể qua đó làm giảm được sự nghi kỵ của Doanh Chính đối với mình. Sau đó, tùy cơ mà ứng biến. Còn nếu Lao Ái thắng, ông ta sẽ nhân lúc Lao Ái chưa đứng vững chân sẽ bắt tay với hoàng gia và các triều thần để nhanh chóng loại trừ Lao Ái; sau đó bản thân ông ta sẽ lấy danh nghĩa người có công đầu giúp vua và lấy tư cách trọng phụ để bước lên ngai vàng quân chủ.
Lễ “gia miện” được cử hành trọng thể tại điện Kỳ Niên ở Ung Thành. Mọi việc tiến hành theo đúng trình tự lễ nghi, khung cảnh rầm rộ, náo nhiệt, linh đình. Nhà vua đội mũ bằng, trước sau có mười hai dây tua rủ xuống óng ánh, ngài ngồi trên ngai vàng, tiếp nhận bái lạy của các thành viên hoàng gia và đại thần. Hành lễ xong, bắt đầu đại tiệc, ca múa tạp kỹ trình diễn rất đẹp mắt. Mọi người đang chăm chú thưởng thức văn nghệ, bỗng có lính cấp báo: Lao Ái và “vệ úy” Kiệt cùng đồng bọn đã làm đảo chính quân sự làm chủ đô thành Hàm Dương, chúng đang đưa hai mươi vạn quân cấp tốc hành quân tới cung Kỳ Niên, phao tin rằng có gian tặc ở cung Kỳ Niên, nên đem quân đến cứu nhà vua.
Sau khi nghe tin trên, mọi người bỗng giật mình, hoang mang lo sợ, cảm thẩy tai họa sắp ập đến. Lã Bất Vi mừng thầm, nhưng lúc này ông ta giả vờ hết sức lo lắng và vội vàng nói với nhà vua:
- Không ngờ tên côn đồ ấy vong ơn bội nghĩa như vậy. Chẳng hay đại vương đối phó thế nào?
Tuy hỏi nhà vua như thế, nhưng trong lòng Lã Bất Vi thì suy nghĩ khác, ông ta sẽ tùy theo tình hình căn cứ vào kết cục của cuộc đảo chính để quyết định đối sách của mình.
Trước sự đột biến như vậy, Doanh Chính tỏ ra rất bình tĩnh và vững vàng. Ngài đứng trên bậc cao nhất của tam cấp tuyên bố dõng dạc với đội quân bảo vệ cung Kỳ Niên:
- Nói ngay với quân nổi loạn lời chỉ dụ sau đây của ta: Gian tặc chính là Trường tín hầu Lao Ái và bè đảng của hắn. Ai mù quáng nghe theo lời mê hoặc của chúng, nay phải từ bỏ chúng ngay. Kẻ nào yếu hèn, cho trở về nhà. Ai có dũng khí, hãy quay giáo tiêu diệt bè lũ Lao Ái. Ai bắt sống được Lao Ái, thưởng một triệu đồng. Ai giết được Lao Ái và nộp thủ cấp thưởng năm mươi vạn. Ai bắt sống được những tên đầu sỏ khác. thưởng hai mươi vạn. Ai giết được đầu sỏ và nộp thủ cấp. thưởng mười vạn. Giết một tên giặc, ban tước một cấp. Hãy truyền đạt ý chỉ đó của trẫm cho mọi người.
Nhà vua vừa nói xong, đội quân bảo vệ cung Kỳ Niên nhiệt liệt hưởng ứng. Toàn bộ chạy ra cổng thành chuẩn bị chống trả quân địch. Lúc ấy, quân nổi loạn của Ung Thành do trung đại phu Lệnh Tề cầm đầu đang bao vây cung Kỳ Niên, nhưng chưa dàn xong trận địa, bỗng nghe quân bảo vệ truyền đạt chỉ dụ nhà vua, bèn chùn tay lại, không dám tấn công. Có người trong bọn họ kêu lên rằng mình bị mắc lừa, bèn dẫn đầu nhiều đồng bọn quay mũi giáo chĩa thẳng vào bọn giặc, đuổi theo những tên tướng giặc đang tháo chạy. Do vậy, cuộc bao vây cung Kỳ Niên không đánh mà tan. Chỉ trong nháy mắt, trung đại phu Lệnh Tề, một đại thần làm phản bị bắt sống, y khiếp sợ đến mức nhũn như con chi chi, ngã người ngất xỉu.
Lã Bất Vi làm bộ làm tịch, vờ mắng Lệnh Tề để tâng công với Doanh Chính, giả bộ trung thành với nhà vua; bỗng lại có tin cấp báo: Hai mươi vạn quân do Lao Ái, “vệ úy” Kiệt và “tá dặc” Kiệt cầm đầu vừa ra khỏi cửa phía Tây Hàm Dương mười dặm, đã bị mấy chục vạn quân ta phục kích và tiêu diệt. Quân nổi loạn đại bại, những tên đầu xỏ đang tháo chạy, quân ta đang đuổi bắt. Quân ta do tả thừa tướng Xương Bình Quân, hữu thừa tướng Xương Văn Quân, hai người vừa được nhà vua Doanh Chính phong chức; cùng với các đại tướng Vương Tiễn, Trương Đường, Hoàn Kỳ chỉ huy.
Tin trên vừa truyền xong, cung Kỳ Niên bỗng vang dậy tiếng hoan hô, chúc mừng nhà vua đã chiến thắng. Tất cả tung hô “vạn tuế” ba lần. Đặc biệt, Lã Bất Vi đã trổ tài nịnh hót, ca ngợi Doanh Chính hết lời. Ông ta nói:
- Bệ hạ thật đại trí đại dũng, kỳ mưu mai phục, một trận toàn thắng, diệt sạch giặc thù. Trong lúc lâm nguy, vẫn rất tự chủ, chỉ trong nháy mắt, biến họa thành phúc. Chư hầu thiên hạ, không ai sánh bằng.
Nhà vua cười và đáp:
- Một bọn côn đồ, lâu la ô hợp, từ trong xó xỉnh chui ra, có đáng gì một trận đòn. Ngay cả những kẻ già đời, lắm mưu nhiều kế, dùng binh tài giỏi, nếu cả gan tính toán phản nghịch, ta cũng nhìn thấu ruột gan, chỉ đánh một trận đòn là diệt sạch. Nhân ngày “gia miện” của Trẫm, Trẫm đã một mình ra tay dẹp loạn, thật là một dấu hiệu tốt lành. - Nói đến đây, nhà vua đưa con mắt sáng quắc nhìn thẳng vào Lã Bất Vi, và hỏi ông ta với ngụ ý sâu xa: - Thừa tướng, ngươi thấy có phải vậy hay không?
Lã Bất Vi vội cúi đầu, cốt tránh con mắt soi mói của nhà vua, vừa sợ hãi vừa nói:
- Bệ hạ nói rất phải. Cầu chúc bệ hạ hồng phúc bao la, giang sơn đại Tần vững chãi muôn đời.
- Thừa tướng.nói rất giỏi. Ha! Ha! Ha! - Tiếng cười lạnh lùng của Tần vương Doanh Chính vang lên trong đêm vắng.
Chú thích:
[i] Lý Tư có công lớn trong việc giúp Tần Doanh Chính thống nhất sáu nước. Sau đó được phong làm thừa tướng. Mất năm 208 trước Công nguyên - ND.
[ii] Trước hết giải thích "Xuân thu”. Xuân thu nghĩa đen là mùa xuân và mùa thu; cũng có khi có nghĩa là bốn mùa trong năm. Xuân thu có nhiều nghĩa bóng: thời gian, tuổi, tên sách, tên thời đại.
Tên sách: sách Xuân Thu, một trang sách kinh điển của Nho giáo, do Khổng Tử biên soạn, viết biên niên sử 242 năm của nước Lỗ, từ Lỗ Án Công (722 trước Công nguyên) đến Lỗ Viên Công (481 trước Công nguyên). Ngoài ra. xuân thu còn có nghĩa là sách sử. Ví dụ Chu xuân thu (Lịch sử nhà Chu), Yên xuân thu, Tống xuân thu, Tề xuân thu...
Tên thời đại: Thời đại Xuân Thu. Đây là do có sách Xuân Thu nên có thời dại Xuân Thu. Sách Xuân Thu là lịch sử nước Lỗ (722-481 trước Công nguyên): thời đại Xuân Thu là từ năm thứ nhất Chu Bình Vương (722 trước Công nguyên) đến năm 44 Chu Kính Vương (476 trước Công nguyên). Như vậy, thời đại Xuân Thu, tuy trùng thời gian với sách Xuân Thu, nhưng nội dung chủ yếu nói về nhà Chu, nước bá chủ thời đại đó.
Sách Lã Thị Xuân Thu có nghĩa là "thời đại của họ Lã" - ND.
[iii] Thời bấy giờ chữ Hán được viết (khắc) trên hai loại giấy: các thanh tre (khắc) và trên lụa (viết bằng sơn) - ND.
[iv] Nguyên văn là: đã quá "tri thiên mệnh" tức vượt quá tuổi tri thiên mệnh. Tác giả trích trong câu của Khổng Tử: Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập tòng tâm sở dục, bất du quỹ - ND.
[v] Nguyên văn: thèm khát "cái quần thạch lựu” của mẫu bậu. Có thể dẫn câu “kiều” sau đây để nói về "cái quần thạch lựu”: "Chơi hoa ai dễ mấy người biết hoa". "Nước vỏ lựu máu mào gà. Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên" - ND.
[vi] Nguyên văn: "lục thân bất nhận". Tức là không thừa nhận ngay cả sáu người thân của mình. Sáu người thân đó là: cha mẹ anh em vợ con. Cũng có ý kiến nói đó là: cha mẹ anh em vợ chồng - ND.
[vii] Việc nuôi gia nô, nô lệ gia đình, có thể là một hình thức sở hữu (chiếm hữu), nô lệ của xã hội nô lệ mà thời kỳ tiên Tần vẫn còn tồn tại mặc dù đây là giai đoạn cuối cùng của chế độ nô lệ Trung Quốc. Việc nuôi hàng nghìn môn khách trong nhà vẫn được pháp luật thừa nhận, có thể cũng thuộc tính chất đó - ND.
[viii] Đánh ở đây là đánh người - ND.
[ix] Lễ trưởng thành hai mươi mốt tuổi.