← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MƯỜI HAI XÉ XÁC LAO ÁI, BÃI CHỨC BẤT VI-GIẾT EM GIAM MẸ, CÒN GÌ LÒNG NHÂN------

Cuộc bao vây cung Kỳ Niên của bọn nổi loạn bị đánh tan, bọn giặc kẻ bị giết kẻ bị thương, một số đầu hàng. Xem ra vua Tần đã cầm chắc phần thắng trong tay, các đại thần bèn khuyên ngài yên tâm nghỉ ngơi; việc truy bắt bọn tàn quân, sẽ do tả hữu thừa tướng Xương Bình Quân và Xương Văn Quân. cùng các đại tướng Hoàn Kỳ, Vương Tiễn, Trương Đường, Vương Bôn chịu trách nhiệm. Sau một ngày đằng đẵng hành lễ gia miện, rồi suốt đêm chỉ huy tướng sĩ tác chiến với quân phản nghịch, Doanh Chính không hề tỏ ra mệt mỏi; hơn nữa, còn rất hăng hái. Bởi vì đây là lần đầu tiên ngài ở kề cận trong tấc gang với cuộc đảo chính quân sự. May nhờ sớm có dự kiến, bố trí hợp lý, điều quân kịp thời, lâm trận vững vàng, chỉ huy đúng đắn, tốc quyết tốc chiến, mọi việc thuận chiều, nên đã chiến thắng vẻ vang. Một quân chủ trẻ tuổi mới tròn hai mươi mốt, đã tỏ ra mưu trí và dũng cảm phi thường, đánh địch tan hoang khiến bề tôi run sợ. Những chiến công đó đã tăng thêm lòng tin và ý chí của Tần Doanh Chính trong việc cai trị nước Tần và cả trong việc san bằng sáu nước, thống nhất thiên hạ. Trong lúc chiến công vừa mới giành được bằng chính bàn tay của mình đang phát huy tiếng tăm của nó, thì làm sao mà Doanh Chính có thể nghỉ ngơi được.. Nghĩ vậy ngài bèn khoát tay rất mạnh để gạt bỏ đề nghị của mọi người, ngài nói kiên quyết:

- Bọn Lao Ái đột nhiên gây biến, may mà ta sớm có chuẩn bị, đông đảo tướng sĩ liều mình bảo vệ vương triều, nên đánh một trận là diệt sạch bọn chúng. làm sao Trẫm có thể ngồi xả hơi để chờ đợi tin mừng? Nay là lúc phải dũng cảm hăng hái hơn nữa, đuổi diệt tàn quân, loại trừ ô uế, khôi phục hào quang cho vương triều đại Tần.

Mọi người đều nhất trí ủng hộ quyết sách của nhà vua, ai cũng xung phong đi đầu tiêu diệt lũ giặc. Doanh Chính bèn ra lệnh:

- Tất cả gia quyến, cung phi, quan hoạn, các thành viên hoàng gia già yếu và các quan văn đều ở lại, không để họ ra trận tác chiến vì như vậy sẽ gây trở ngại cho quân chủ lực. Số còn lại, gồm các tướng lĩnh, các đội cận vệ, đội kiêu binh, đội binh nhạc, đều phải biên chế vào quân đội, đi theo Trẫm hành quân cấp tốc về Hàm Dương.

Doanh Chính không ngồi xe rồng, ngài ngồi con ngựa Tiêm Ly đen bóng; tay cầm đốc kiếm, đi giữa hàng quân, luôn miệng đôn đốc, tăng tốc hành quân. Dọc đường, dân chúng đứng chật hai bên chào mừng hoan hô. Thấy vậy, nhà vua càng thêm hăng hái, lại giục tăng tốc, chỉ hơn nửa ngày mà chạy được hai trăm dặm (một dặm lúc ấy bằng 1/4 kilômét hiện nay), nhanh như thác cuốn gió bay, nhoáng một cái đã đặt chân đến quảng trường trước cung Hàm Dương. Các tướng vội đến trước mặt nhà vua để trình báo chiến quả: bọn nổi loạn trong nội thành đã bị quân ta dẹp xong, đang chia nhau truy diệt bọn tàn quân. Ngoài trung đại phu Lệnh Tề đã bị bắt ở Ung Thành, nay đã bắt sống thêm được ba tên đầu xỏ khác là “vệ úy” Kiệt, “tá dặc” Kiệt và “nội lại” Tứ. Ngoài ra còn có hơn hai mươi tên bè cánh khác của Lao Ái, cũng cúi đầu để quân ta bắt giữ.

Nhà vua gật đầu khen:

- Thật là cầm quân phải biết thần tốc, mới lập được kỳ công. - Tiếp đó, ngài hỏi - Lao Ái hiện đang ở đâu?

Không có tiếng trả lời. Ngài lại hỏi nữa, giọng rất gay gắt:

- Có bắt được tên Lao Ái cầm đầu phản nghịch hay không?

Ở dưới có tiếng trả lời rất run sợ:

- Chỉ vì hắn rất gan dạ, lại có rất đông người hộ vệ, nên đã phá vòng vây chạy thoát rồi ạ!

- Đánh giặc không bắt tên cầm đầu, khác nào thả hổ về rừng; hậu họa vô cùng. Các ngươi mau cùng ta đuổi bắt Lao Ái. Khi nào bắt được tên này thì hành hình cả bọn một thể. - Để động viên sĩ khí, ngài lập tức nói rất to. - Ai bắt được Lao Ái, phong tước ba cấp, thưởng tiền một triệu. Ai nộp thủ cấp của nó, thưởng năm mươi vạn. Những người đã bắt được “vệ úy” Kiệt, “nội lại” Tứ, “tá dặc” Kiệt, trung đại phu Lệnh Tề, được ban tước hai cấp, thưởng tiền năm mươi vạn. Ngoài bốn tên chủ phạm ấy, ai giết được những tên khác, thưởng mười vạn. Trong trận này, ai lấy được một trăm đầu giặc, ban tước một cấp, thưởng tiền mười vạn.

Quả đúng là “nếu có trọng thưởng ắt có dũng sĩ”. Nhiều người đã lập công, đã được ban thưởng theo đúng lệnh vua ban. Số tướng sĩ còn lại lại xuất phát tìm diệt tàn địch, mở rộng chiến quả. Quân của nhà vua ngày đêm truy kích đã giết, bắt hoặc bắt hàng ba vạn tên, gồm dư đảng của Lao Ái và của tên Địch Quân Công, thủ lĩnh rợ Khuyến Nhung, kẻ chạy theo Lao Ái làm phản. Lao Ái nhờ có bọn thân cận của hắn bảo vệ, hóa trang thành dân thường, ngày trốn đêm đi, vừa đói vừa rét, cuối cùng bị tướng Hoàn Kỳ đuổi kịp bắt sống.

Đến đây, cuộc dẹp loạn toàn thắng. Hoàn Kỳ đưa tên tù binh Lao Ái và đồng bọn trở về, hàng vạn dân đô thành đổ ra đường để chứng kiến cái kết cục nhục nhã của tên phản tặc. Người thì ném đá, kẻ vứt rác rưởi hoặc chỉ tay chửi mắng. Có người nói rằng, hắn đã bị Lã Bất Vi làm hại, bởi vì nếu như hắn không vào cung, làm gì có chuyện thất bại như hôm nay. Nhưng phần lớn mọi người đều nói rằng, xét cho cùng thì vẫn là do Lao Ái quá ư xấu xa. Nếu hắn cứ yên phận ở trong cái nhà của mình thì tốt biết bao, nhưng lại háo sắc dâm loạn. Như vậy thì dù cho không vào cung, cũng làm cho đồi phong bại tục trong dân gian, cũng không tránh khỏi cực hình xử tử.. Xem ra số trời đã quyết, hắn phải chết.

Đúng là cái kết cục bi kịch của Lao Ái là chưa từng có. Số người đến xem đông vô kể, không khí vô cùng náo động. Thật ra, trước khi Lao Ái bị bắt, nhà vua đã ra lệnh cho “khách khanh” Lý Tư, Diêu Giá và Đốn Nhược phải tra tấn khốc hình đối với “nội lại” Tứ, “tá dặc” Kiệt và “vệ úy” Kiệt, để lấy cung thật đầy đủ, chi tiết về cuộc nổi loạn này. Nay thẩm vấn Lao Ái, đã có đầy đủ nhân chứng vật chứng, hơn nữa, bản thân Lao Ái đã bị thương, lại bị bệnh do đói rét mấy ngày qua, cho nên chẳng phải tra khảo đao to búa lớn gì nữa. Nhưng nhà vua cứ muốn tận mắt mình xem và tự tai mình nghe những lời cung khai và quá trình nhận tội của tên phản nghịch này, để cho hả cơn giận. Nhưng lại rất ngại, vì đây là việc xấu xa của mẹ đẻ, nên không tiện ra ngồi thẩm vấn, mà giao cho Lý Tư chủ trì; còn bản thân phải ngồi bên trong tấm màn để quan sát và nghe qua bình phong.

Lúc này, Lao Ái đã biết “vệ úy” Kiệt và mấy người kia đã cung khai hết mọi chuyện về nguồn gốc và quá trình lôi kéo bè đảng và tiến hành đảo chính quân sự của chúng, nên Lao Ái cũng không dám quanh co giấu giếm, mà cứ cung khai thẳng tuột, đúng như sự thật. Nhưng về động cơ tại sao nổi loạn làm phản, thì hắn ấp a ấp úng, há miệng mắc quai. Lúc này nhà vua bèn gợi ý cho Lý Tư truy hỏi Lao Ái:

- Nhà ngươi mắc tội dâm cuồng, đã bị hoạn rồi mới cho vào cung, làm nội thị cho thái hậu; đã nhiều lần được phong chức và ban thưởng, làm đến chức Trường tín hầu, phú quý hết mức, hà cớ gì lại lấy oán báo ân, phản nghịch phạm thượng, giết vua đoạt quyền, phạm tội tày trời?

- Đó là do lòng tham vô đáy, u mê ngu muội. - Lao Ái trả lời chung chung.

Lý Tư đập mạnh dùi gỗ vào bàn. Tiếp ngay đó là hai chiếc gậy cứ nện rất mạnh vào Lao Ái, da thịt của hắn nát ra, nhưng hắn vẫn cắn răng chịu đựng, không khai một lời. Nhà vua ngồi phía sau nhìn thấy tất cả, ngài nghiến răng nói với Lý Tư:

- Tra tấn mạnh tay hơn nữa, lúc nào khai ra mới thôi.

Lý Tư bèn liên tiếp tăng thêm nhục hình, kẹp đầu ngón tay, chọc kim vào móng tay, kéo hai chân theo kiểu “hổ ngồi”, rồi lấy sắt nung đỏ đặt vào ngực cháy xèo xèo. Lúc này Lao Ái không chịu được nữa, mới nói hổn hển:

- Đó là bởi vì Lã thừa tướng hỏi cung chung thẩm, biết ta là người có dương vật to; nên giả làm quan hoạn, đưa vào cung hiến cho thái hậu, rất được sủng ái, nên có hai con. Vì muốn ân ái lâu dài, nên làm phản nghịch hòng đoạt ngôi vua, cướp cả triều đình. Nay đã bại lộ, tội này đáng chết, cầu xin thánh thượng, tha người vô tội là thái hậu và hai con được toàn tính mạng. Được vậy thì dù ta phải xé xác phanh thây, cũng xin cam chịu, xuống nơi cửu tuyền, ngậm ơn đại vương. - Nói xong, Lao Ái bèn khấu đầu liên tục, khóc sụt sùi.

Nhà vua nghe đến đây, không kìm nổi tức giận, ngài bèn bật dậy, đạp tung màn che, nhảy ra bên ngoài, bất chấp việc nhà, chỉ vào mặt Lao Ái mà mắng lớn:

- Giả hoạn để vào tư thông với thái hậu, đã đáng tội chết. Lại còn cả gan mưu đoạt ngôi vua, lật đổ triều đình, tội này phải trời chu đất diệt. Mẹ đã thất tiết, con là nghiệt chủng [i], sao có thể tha được? - Tiếp đó, ngài vội ra lệnh cho Lý Tư - Tội đã cung khai, án có thể quyết, mau mau hành hình, giết ngay gian tặc! - Nói xong liền quay về cung Hàm Dương.

Theo quan niệm thời cổ đại đối với bơn mùa và quan niệm “ngũ hành” thì mùa thu, cây cỏ đã khô héo trơ trụi, không khí điêu tàn chết chóc; đó là mùa âm mạnh dương suy. Nói về phương hướng, thì phương Tây là “kim” (kim loại) trong ngũ hành; dụng cụ hành hình bằng kim loại; gió tây lạnh nên thổi lá cây rụng xuống, cũng có nghĩa là “sát khí” (không khí giết chóc). Vì vậy, người làm công việc hành hình gọi là “thu quan” (quan mùa thu), hành quyết tử hình cũng vào mùa thu. Việc hành hình Lao Ái được tiến hành vào ngày giờ X tháng Chín năm thứ chín niên hiệu Tần Vương Chính. Địa điểm hành hình đặt tại trung tâm quảng trường bên trong cung Hàm Dương. Để nêu cao thanh thế, tăng cường uy nghiêm, nhà vua còn cho đặt thêm một bục rất cao, ngài ngồi trên đó, hai bên ngài là tả thừa tướng Xương Bình Quân và hữu thừa tướng Xương Văn Quân. Còn các văn võ bá quan thì đứng ở dưới đất, ở hai bên, theo trật tự võ tướng đứng trước, văn quan đứng sau, tất cả hơn ba trăm triều thần, gồm ngự sử đại phu, tướng quân, phụng thường, lang trung lệnh, đình uý, bác sĩ, bốc xạ, trung lang tướng... Ngoài ra còn có hơn năm trăm người khác, gồm các thành viên hoàng gia, nội thị cung đình, và các quan chức nữ giới. Các đội kiêu binh, đội kèn, đội cận vệ, đứng ở bốn phía quảng trường. Tổng cộng có hơn sáu nghìn người tham dự buổi hành hình Lao Ái, khung cảnh hết sức hùng vĩ, hoành tráng, nhưng rất nghiêm trang, mọi người đều đứng thẳng, rất nghiêm, không ai cười nói ồn ào. Chỉ thấy hoạn quan tổng quản “đại hoàn môn” Triệu Cao phất cờ hiệu, lập tức trống nổi thùng thùng, vang trời dậy đất, tiếng kèn đưa ma kêu tò te theo nhịp. Một toán đưa năm cỗ xe ngựa chạy vào chính giữa quảng trường, gồm ngựa hồng, vàng, trắng, đen và loang lổ trắng đen, tượng trưng cho ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Năm con ngựa kéo theo năm cỗ xe, đứng quay đầu theo hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, và trung. Triệu Cao lại phất cờ, bỗng có bốn người lính mặc quần áo màu đỏ, cầm đại đao giơ cao, áp tải tử tù Lao Ái đi ra đứng chính giữa năm con ngựa, trên cổ Lao Ái có mang gông, ghi rõ tội tử hình. Bốn người này lấy dây thừng cột đầu và bốn chân tay Lao Ái vào phía sau xe ngựa. Họ làm công việc này rất thành thạo, chóng vánh. Lao Ái bị cột nằm ngửa, lơ lửng là là mặt đất; nhưng hắn đã bạt vía kinh hồn, bất tỉnh nhân sự. Khi mọi việc đã xong đâu vào đấy, Triệu Cao lại xem bóng mặt trời chiếu trong “đồng hồ” [ii], lúc ấy vừa đúng giờ ngọ (chính trưa) ba khắc (một khắc = 15 phút); ông ta lại phất cờ, trống kèn lại nổi lên, năm binh sĩ lập tức quất mạnh roi vào mông ngựa, ngựa đau quá chồm lên chạy nhanh. Trong nháy mắt, xác Lao Ái bị xé làm năm mảnh, máu chảy lênh láng, vẽ thành năm vệt dài trên sân, ghê rợn kinh hồn.

Trước cảnh thảm khốc đó, không ai tỏ ra thương xót cho tên phản tặc, mà còn vui mừng sung sướng. Hàng nghìn người đồng thanh hô lớn:

- Kính chúc Đại vương vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!

Các quan triều thần đều quỳ xuống, khấu đầu bái lạy nhà vua.

Tần Vương đứng trên bậc cao, đón nhận lời chúc phúc và chào mừng của mọi người. Ngài vẫy tay chào lại. Khi tiếng hô vạn tuế vừa dứt, ngài nói rất lớn:

- Xương Bình Quân, Xương Văn Quân, mỗi người được thưởng một vạn nén vàng, tăng thêm hai nghìn “thạch” bổng lộc. Thăng cấp Lý Tư lên làm “đình úy”. Thăng cấp Mông Vũ lên đại tướng quân. Mông Quát, Mông Nghị đều thăng cấp tướng quân. Triệu Cao giữ chức tổng quản Đại hoàng môn. Tất cả những người có công khác, đều được phong chức và ban thưởng.

Đến ngày “đông chí” tháng Mười, cũng tại quảng trường nói trên, lại diễn ra một cuộc hành hình cực kỳ bi thảm khác. Hai mươi tên tử tù, gồm “vệ úy” Kiệt, “tá dặc” Kiệt, trung đại phu Lệnh Tề, “nội lại” Tứ... bị ngựa phanh thây (giống như hành hình Lao Ái).

Ngoài ra có hơn bảy trăm tên bị giết, gồm gia quyến của Lao Ái, cùng với môn khách, sá nhân [iii] và bà con thân thích của Lao Ái. Số người phục dịch tại Sơn Dương, đất phong của Lao Ái, bị giết hơn một nghìn. Hơn ba mươi quan lại câu kết với Lao Ái, bị chu di tam tộc, bị giết hoặc bị chôn sống, tất cả trên sáu nghìn người. Lại còn có hơn bốn nghìn hộ có liên quan với vụ Lao Ái bị di chuyển toàn bộ đến huyện Phòng Lăng ở Nán Trung. Họ bị đưa đến đây với danh nghĩa là “tự canh” (tự cày cấy) nhưng thực ra họ bị quân lính canh quản nghiêm ngặt, phải lao động như nô lệ, toàn bộ thu hoạch phải nộp cho quan phủ, bản thân không được giữ lại bất cứ sản phẩm gì, hoàn toàn không có tự do.

Sau khi xét xử và thi hành hình phạt nghiêm khắc đối với Lao Ái và đồng bọn, nhà vua vẫn chưa hề yên tâm và thanh thản. Bởi vì ngài cảm thấy trong vụ này, số người phản lại mình sao mà nhiều đến thế, dã tâm và thực lực của chúng sao mà lớn đến vậy. Nếu ngài không phát hiện và kịp thời quyết đoán hành động, có lẽ đã chết toi mạng rồi; cung điện vàng son của đại Tần vừa mới chính thức lên ngôi dã thay ngôi đổi chủ mất rồi. Quốc hiệu đã đổi thành “Lao” hoặc “Lã” rồi. Cho nên bản thân ngài không thể kê cao gối mà ngủ được, mà phải thừa thắng truy kích, nhổ tận gốc, đốc tận rễ những mầm họa còn ẩn náu.

Qua lời khai của bọn bè đảng của Lao Ái, cũng như các nhân chứng, vật chứng đã thu được, cho thấy Lao Ái chỉ là một tên tiểu thị dân; lại là một tên tử từ vì tội cuồng dâm, chỉ còn chờ chém; vậy mà nghiễm nhiên được “cải tử hoàn sinh” để được hoạn giả, rồi vào cung chung sống bừa bãi với thái hậu, bí mật đẻ con, rồi quay về Hàm Dương gây sự, định lật đổ triều đình. Đó là do thừa tướng Lã Bất Vi thay hình đổi dạng cho hắn, làm cho hắn có một bộ mặt hoàn toàn khác và tiến cử cho thái hậu. Như vậy, trong tâm linh nhà vua lại hiện lên câu chuyện mà bài hịch của Phàn Vu Kỳ năm nào nói rằng Lã Bất Vi và Triệu Cơ đã lấy nhau trước, đã mang thai rồi mới tái giá; đứa con tên là Chính, họ thật là Lã, còn Doanh là họ giả. Nhớ lại chuyện này, ngài rất đau lòng. Vì vậy, ngài nghĩ rằng dù là việc nước hay là chuyện cá nhân gia đình, Lã Bất Vi đều là kẻ thù không đội trời chung với ngài, cần lập tức loại trừ. Ngài cho gọi các đại thần văn võ tới, ra chỉ dụ:

- Lao Ái làm ô uế cung đình, còn đưa quân định cướp ngôi, tội của hắn đáng chết vạn lần. Nhưng nguyên nhân là do họ Lã, cần theo luật để giữ nghiêm phép nước, đặng ổn định xã tắc và lấy lại lòng dân. Khanh nào có thể đưa quân đi bắt Lã Bất Vi?

Xương Bình Quân vội khuyên can:

- Đại vương nói rất phải. Nhưng loạn Lao Ái vừa dẹp xong, dân tình rất cần được vỗ về. Nay nếu lại trừng phạt họ Lã, số người liên quan rất lớn, sợ rất khó ổn định tình hình. Xin đại vương xét lại cho kỹ.

- Trẫm thấy ông ta có địa vị cao, quyền lực lớn, thế lực khuynh đảo triều đình, đã từng giúp trẫm rất đắc lực, mọi việc trôi chảy thuận chiều. Nhưng nếu quay lại phản nghịch, cũng như chặt trúc chẻ tre, nguy hại cực lớn. Trẫm mới lên ngôi kế thừa cơ nghiệp, làm sao có thể chống trả nổi quả đấm trời giáng của ông ta? - Nỗi lo của Tần Vương Chính cũng có cái lý của nó.

- Đại vương tuy mới lên ngôi chưa lâu, nhưng cơ nghiệp đại Tần ta đã có mấy trăm năm, vững vàng như bàn thạch, thánh thượng không nên quá lo nghĩ.

Diêu Giá bày tỏ lòng trung thành với triều đình bằng lời nói rất kiên định:

- Cái gan lỳ lợm của Lao Ái không địch nổi vài ba keo của mạt tướng. Còn việc bắt sống họ Lã thì dễ hơn là thổi bay một lớp tro mỏng. Nhưng đụng đến người này thì giống như rứt dây động rừng. Việc bắt bớ lục soát có thể làm cho cả đô thành Hàm Dương này không ngày nào yên. Cho nên xin tạm hoãn việc trừng phạt họ Lã. Việc cấp bách trước mắt là phục hồi sản xuất và đời sống, để dân được an cư lạc nghiệp. Đó là điều chủ yếu.

Đại tướng Hoàn Kỳ cũng ra sức can gián Tần Vương chớ vội vàng trong việc này:

- Trước đây, họ Lã dám khinh thường quân chủ và lạm quyền, tạo cơ hội cho Lao Ái làm loạn; đó là nhờ được tôn xưng “trọng phụ”, nhờ tranh được địa vị thừa tướng, lừa bịp thiên hạ để có được danh tiếng, đặng đạt được mưu gian của mình. Từ khi bệ hạ đích thân dẹp loạn ở cung Kỳ Niên, đã sai Xương Bình Quân thay thế công việc của họ Lã. Nay giặc Lao đã tiêu diệt hết, hành vi xấu xa của họ Lã nổi rõ lên, muôn dân phỉ nhổ. Nếu họ Lã cứ gian giảo cũng không dám phạm tội tày trời để dân chúng phẫn nộ và như vậy tự chuốc lấy diệt vong. Cho nên việc diệt trừ họ Lã không nên vội, hãy tạm gác lại đó đã; và còn xem động tĩnh, xét hiệu quả sau này của nó ra sao, khi đó sẽ định đoạt cũng không muộn.

Xương Văn Quân tiếp tục chứng minh Lã Bất Vi đã ở vào thế yếu không thể tạo nên mối đe dọa lớn đối với nhà vua, cho nên tạm để đó đã, để xem tình hình sau này hãy quyết định.

Tần Vương thấy các đại thần đều không muốn lập tức ra tay, nên cũng không cố chấp. Nhưng ngài vẫn muốn cảnh báo cho Lã Bất Vi, cho ông ta biết rằng ông ta chưa phải được miễn xét xử theo luật định đâu, chớ có cho rằng mình đã bình an vô sự, để rồi ngựa theo đường cũ, lại ngóc đầu dậy, hành động ngu xuẩn.

Chủ trương của nhà vua tuy được mọi người ủng hộ, nhưng lúc ấy chưa thể nghĩ ra cách gì thật hay, vừa khôn khéo vừa linh hoạt, lại vừa có hiệu nghiệm nhanh chóng, để đánh vào điểm lợi hại nhất của Lã Bất Vi. Ngài đang phân vân thì Triệu Cao, hoạn quan tổng quản Đại hoàng môn quỳ xuống tâu rằng:

- Vi thần có diệu kế, có thể hàng phục Lã Bất Vi, để ông ta không dám hành động nữa.

Mọi người vội hỏi:

- Tổng quản có diệu kế gì, nói mau!

Triệu Cao nói hơi lúng túng:

- Mưu kế của hạ thần quá tục tĩu, không tiện nói ở nơi uy nghiêm.

- Đã là diệu kế, thì không cần phân biệt tục hay không tục, cứ nói thẳng ra, để chúng tôi góp thêm vài lời.

Ý kiến của Xương Bình quân được mọi người tán đồng. Ai cũng bảo Triệu Cao cứ “hiến kế”.

- Đã vậy thì xin đại vương cho thánh chỉ, có được phép nói hay không. - Triệu Cao nói xong, quay nhìn về phía nhà vua để cầu xin.

- Được. Để trẫm nghe qua nhà ngươi nói cái diệu kế ấy là thế nào đã.

Nhà vua vẫy Triệu Cao lại. Triệu Cao đến gần nhà vua. nói nhỏ mấy câu bên tai ngài, thái độ có vẻ khoái chí. Nói xong vội cúi đầu, bây giờ lại có vẻ sợ hãi.

- Tuyệt! Tuyệt! Mưu kế này vừa khôn khéo vừa thẳng tay. Không có nhà ngươi thì không có diệu kế này. - Nhà vua cười lớn, nổi cả gân cổ lên; và đưa ngón tay cái ra chỉ vào Triệu Cao để khen.

Các đại thần thấy nhà vua vui mừng như thế, cũng đều cảm thấy nhẹ cả người. Xương Văn Quân nói:

- Chẳng mấy khi bệ hạ ban khen như thế, chúng tôi thật không thể sánh được với trí tuệ của tổng quản.

Tiếp đó, các đại thần văn võ liền vây quanh Triệu Cao, đòi ông này nói rõ ra để “tăng thêm trí tuệ, mở mang bụng dạ tối tăm của mình”.

Mọi người nói vậy làm cho Triệu Cao rất luống cuống đến nỗi đỏ mặt tía tai, bèn vội cầu xin nhà vua:

- Hạ thần đã nói rồi, kế này chỉ bẩm với đại vương là đủ rồi. Còn nói cho mọi người nghe thì ngượng quá!

Ai ngờ nhà vua vốn rất nghiêm nghị, thậm chí không bao giờ cười, vậy mà bây giờ rất cởi mở, hòa mình với mọi người. Ngài cười mỉm và nói:

- Trẫm là thiên tử còn nghe được, tại sao họ lại không nghe dược. Cứ mạnh dạn nói đi.

- Vâng ạ. Đại vương đã cho phép rồi. Ngài còn ngần ngại gì nữa? - Mọi người lại giục.

- Bệ hạ đã rộng lượng cho phép, xin lượng thứ cho sự bạo gan của hạ thần. Dù cho mưu kế này có thi hành được hay không, các vị cứ tha hồ mà bình luận, nhưng nhất thiết không được chê cười. - Sau khi nêu các điều kiện nói trên, Triệu Cao bèn nói cái diệu kế của mình. Ông ta vừa nói vừa minh họa, rất sinh động cụ thể.

- Ha! Ha! Ha! Thật là kiệt tác! Tuyệt nhất trần đời!

- Ha! Ha! Ha! Lão thánh Quỷ Cốc Tử và Tôn Tẫn cũng không thể có mưu kế như vậy!

- Chà! Chà! Chà! Nếu không có cái đau hồi nào thì không có cái khoái hôm nay!

Tiếng hoan hô tán thưởng của mọi người khiến Triệu Cao dở khóc dở cười. Ông ta nói có vẻ rất xấu hổ:

- Nếu bản thân không trải nghiệm qua chuyện ấy, làm sao mà nghĩ ra được cái mẹo ấy cơ chứ!

Nhà vua và các đại thần đều cho rằng cách ấy rát hay; và quyết định giao cho Triệu Cao thực hiện.

Triệu Cao chắp tay đáp lễ và nói:

- Hạ thần tuân chỉ. Xin đại vương ra chiếu chỉ, để tiện việc hành sự.

Nhà vua nói đùa:

- Việc này không cần văn vẻ dài dòng, chỉ cần viết mấy chữ “Kiến vật tư qua”[iv] là đủ.

Các đại thần đều khen đại vương “lời gọn ý đủ”, chỉ một lời mà trúng đích.

Sau buổi thiết triều, mọi người ra về trong không khí vui vẻ nhẹ nhàng.

Qua sự kiện cung Kỳ Niên ở Ung Thành, Lã Bất Vi đau đớn cảm nhận rằng mình đã suy yếu rồi. Bởi vì, khi ông ta giả vờ bày tỏ lòng trung thành với Doanh Chính, thì bị ngài tỏ thái độ lạnh nhạt, và còn nói kháy ông nữa; nhất là Xương Bình Quân và Xương Văn Quân đã thay thế chức vụ thừa tướng của ông ta. Khi trở về Hàm Dương, ông ta không dám gặp ai, nhất là không dám gặp Doanh Chính và các đại thần, chỉ đóng cửa ngồi trong nhà không tiếp khách. Ông ta rất sợ người ta hỏi về quan hệ giữa ông ta và Lao Ái, khi đó, thì chỉ bị đánh một đòn cũng đủ chết rồi, và tự chui vào lưới pháp luật. Nhưng ông ta không bao giờ chịu bó tay để cho người ta đến bắt, ngồi chờ bị giết. Vì vậy ông ta bí mật sai môn khách và gia nô đi chắp nối liên lạc với những nhân vật chính trị và thương mại có quan hệ chặt chẽ với ông ta; cũng như người thân cận tại các châu quận thuộc quyền cai quản của ông ta, yêu cầu những người này giúp đỡ một tay. Do vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, một loạt bản tấu và thư, tới tấp gửi về triều đình xin miễn xá và nói hộ cho Lã Bất Vi, nhiều đến nỗi đọc không xuể. Ngoài những người trong triều và ngoài xã hội ở nước Tần, còn có vua quan các nước chư hầu; sứ thần các nước; quan chức, học giả, thương nhân các nước chư hầu, đều cho rằng Lã Bất Vi công lớn tội nhỏ, xin được giảm miễn. Lúc đầu Tần Vương có ác cảm đối với những phản ứng đó. Nhưng về sau, xem những sự việc và lý do biện bạch được nêu trong các bản tấu, thấy đó đều là những thực tế cụ thể. Chẳng hạn như nói, nếu không có sự giúp đỡ của họ Lã, thì Tử Sở không thể còn sống để quay về nước Tần. Nếu Lã Bất Vi không gả Triệu Cơ cho Doanh Dị Nhân thì ngay bản thân Doanh Chính cũng không có mặt trên đời, càng không nói đến chuyện lên ngôi vua. Lại còn chuyện đánh diệt Tây Chu; cứu tế thiên tai, bình dẹp Thành Kiều nổi loạn, tiến cử Cam La dùng mưu lấy được mười sáu thành của nước Triệu... Đó thật sự là những công lao xuất sắc. Còn việc có liên quan với việc nổi loạn của Lao Ái, ông ta cũng không phải là chủ mưu, dù có tội cũng không lớn. Vì vậy, xin miễn tội chết cho ông ta. Thêm vào đó là các trọng thần Xương Bình Quân, Hoàn Kỳ đều ra sức can gián, nói rõ lợi hại. Cho nên, nhà vua mới thôi chủ trương xét xử Lã Bất Vi như suy nghĩ mấy lâu nay, chuyển sang sử dụng hình thức khác, giao cho Triệu Cao truyền đạt thánh chỉ để cảnh báo ông ta.

Qua hồi âm của các môn khách và gia nô, Lã Bất.Vi biết được rằng nhà vua tạm chưa có ý định giết ông ta, nên cũng hơi yên tâm. Nhưng rốt cuộc là như thế nào, vẫn là một dấu hỏi lớn.

Hôm nay, Lã Bất Vi đang đi đi. lại lại trong phòng, vẻ mặt lơ lắng không yên, bỗng nghe tiếng hô “thánh chỉ tới”, ông vội bước nhanh tới phòng lớn, phủ phục xuống đất tiếp chỉ. Ông ta liếc mắt nhìn, chỉ thấy Đại hoàng môn Triệu Cao mang thánh chỉ, đứng ở phía trên gian phòng chính, nghiêm chỉnh nói:

- Thánh chỉ tới. Lã Bất Vi tiếp chỉ.

Lã Bất Vi vội nói:

- Có thần!

Ông ta nằm phủ phục xuống đất, lắng nghe thánh chỉ. Nhưng tiếp đó chẳng nghe gì nữa, thành ra không biết đây là lành hay dữ, rất sốt ruột. Dù sao thì Triệu Cao cũng phải cho biết một vài câu chứ. Ông ta đổ mồ hôi trán, chịu không nổi nữa, bèn ngẩng đầu lên; vừa lúc ấy thấy Triệu Cao lấy một vật gì đó từ cái khay do viên tiểu thái giám cầm, rồi ném vụt một cái về phía ông ta, và rơi xuống trước mặt. Lã Bất Vi vội mở to mắt nhìn kỹ, té ra là một vật dài được bọc bằng vải đỏ, ông ta bỗng giật mình, nước mắt như mưa, nghĩ rằng, đây là ban chết. Nhưng tại sao lại không nói rõ tội trạng? Ông ta sợ hãi ngước mắt hỏi:

- Tạ ơn ân điển của thánh thượng. Dám hỏi có tội trạng gì?

Triệu Cao chỉ tay xuống đất và nói.

- Ý của thánh chỉ ở trong cái bọc đó, nhà người tự xem lấy! - Nói xong đi ra và lên xe về.

Chờ cho đến khi Triệu Cao đi khỏi, Lã Bất Vi mới lại quỳ đến gần cái bọc, vẻ mặt rất thương tâm. Ông ta xem kỹ, nhìn bề ngoài thì vật này không giống cái kiếm, trong lòng vẫn rất đau buồn. Bởi vì, theo tiền lệ, nếu nhà vua “ban chết”, thì cái bọc kia phải là thanh kiếm, mà kiếm thì phải dài trên ba thước (mỗi thước Trung Quốc bằng 1/3 mét), hoặc là một dải lụa dài bảy thước. Còn cái vật này không dài, chắc là cái dao găm hay đoản kiếm. Như vậy, Doanh Chính nghĩ rằng đối với Lã Bất Vi, cắt cổ là quá dễ, tiện quá; mà phải bắt mình dùng dao găm để tự đâm chết. Vậy thì quá đau đớn, vì từ khi đâm dao cho đến khi tắt thở, phải giãy giụa lâu hơn rất nhiều so với cắt cổ bằng kiếm. Chẳng lẽ Lã Bất Vi này phải tự mình tra tấn mình cho đến chết như vậy ư? Càng nghĩ càng đau khổ, nhưng “vua bảo bề tôi chết, bề tôi không thể không chết”. Lã Bất Vi đành phải nhật cái vật ấy lên vừa run rẩy vừa mở vải bọc ra, để xem là cái gì. Bỗng rất kinh ngạc, bởi vì căn bản không phải là một cái dao găm, mà là một cái dương vật, nó to và dài quá cỡ. Lã Bất Vi lập tức nghĩ rằng, đây chẳng lẽ là “cái ấy” của Lao Ái bị cắt trước khi bị xé xác? Nhưng xem kỹ thì “cái ấy” không phải là mới cắt, mà đã cũ lắm rồi. Lúc này, Lã Bất Vi càng thắc mắc khó hiểu. Không biết là của ai đây? Bỗng ông ta nhớ lại rằng Triệu Cao có nói thánh thượng có ban cho ông ta một câu, bèn xem kỹ mảnh lụa đỏ, thấy có một mảnh vải nhỏ hơn, ghi bốn chữ “kiến vật tư quá” (thấy vật nhớ sai). Đến đây, ông ta mới tỉnh người ra, đây là cái dương vật của con lừa mà năm xưa ông ta đã đánh tráo vào, để mọi người tưởng là dương vật quá cỡ của Lao Ái. Bởi vì, lúc bấy giờ, theo luân lý truyền thống và quan điểm sinh lý hồi ấy, thì “tóc da của mình là do cha mẹ để lại không được gây thương tổn”. Vì vậy, cho dù là bị tội hoạn và bị cắt dương vật, cũng coi đó là một phần “gốc rễ của con cháu”, là tuyệt đối không thể vứt bỏ. Những di vật ấy, được tẩm thuốc, sấy khô, lại tẩm thuốc để trở lại nguyên dạng như cũ, sau đó được bảo quản lưu giữ. Cái dương vật giả mạo này cũng được kiểm nghiệm và xử lý y như thường lệ; sau đó, đặt lên bàn thờ tổ tiên của Lao Ái; và gọi đó là “bảo bối”. Chế độ này lưu hành đến thời nhà Thanh, thật là “nguồn gốc sâu xa lưu truyền lâu dài”.

Xem ra, diệu kế này sở dĩ do Triệu Cao nghĩ ra là vì ông ta là hoạn quan tổng quản, bản thân ông ta đã trải nghiệm thực tế đó, chả trách mà nhà vua và các đại thần cứ bật cười mãi. Khi Lã Bất Vi nhận ra cái “của quý” ấy, xem lại lơi chỉ dụ của nhà vua “thấy vật nhớ sai”, ông ta mới hiểu ý nghĩa của sự việc trên cũng như dụng ý của nó. Đó là: Này, Lã Bất Vi, ông là kẻ bày ra chuyện giả hoạn quan Lao Ái và đưa hắn vào cung, gây ra cuộc đảo chính quân sự để hòng cướp đoạt chính quyền, nay Lao Ái đã bị giết nhưng ông là nguồn gốc của tội ác này, không thoát khỏi bị xét xử đâu. Cái dương vật con lừa này là “vật chứng”; cho nên ông phải “thấy vật nhớ sai”. Nếu không tỉnh ngộ sửa sai, thì hậu quả chưa biết đến đâu mà lường!

Đối với cái diệu kế này của Triệu Cao, Lã Bất Vi vừa cảm thấy xấu hổ, vừa hết sức tức giận. Nhưng ông cũng phải tự răn mình, vì đây là do nhà vua ban cho ông bằng chỉ dụ hẳn hoi; chẳng những không thể vứt đi, cũng không thể hủy hoại, mà (theo tục lệ) phải kính cẩn đặt lên “bàn thờ tổ tiên cha mẹ” nhiều đời của họ Lã, đó là một điều sỉ nhục vô cùng đau đớn, không tiền khoáng hậu [v]. Nhưng Lã Bất Vi đành phải chịu đựng, nhưng vẫn tức anh ách, hiềm một nỗi là không thể chui xuống đất để mãi mãi không ngoi lên nữa để nhà vua và bọn họ dần dàn quên ông ta đi, như thế mới bảo toàn được tính mạng.

Nhưng Tần Vương làm sao có thể quên Lã Bất Vi được. Những người dân thường bị chiến tranh do bọn nổi loạn gây ra lâm cho tan cửa nát nhà, máu chảy đầu rơi, càng không bao giờ quên Lã Bất Vi, một gian tặc đầy dã tâm độc ác, mưu cướp triều đình để chiếm đoạt Tần quốc. Vì vậy, trong dân gian có những bài ca dao nguyền rủa Lã Bất Vi. Sau đây là một bài như thế (dịch ý):

Chỉ một con người, mà những hai mồm [vi]

Có da có thịt, nhưng lòng ma quỷ.

Vờ bàn quốc sự, đến Cung Cam Tuyền

Gặp người vợ cũ, thái hậu Tần ta.

Như cá gặp nước, phè phỡn đêm ngày

Chăn loan gối phượng, bốn chân hai đầu.

Chỉ một con người, mà hai chữ khẩu

Khuôn mặt trang nhã, bụng dạ xấu xa

Ăn cháo đái bát, no rồi bỏ ra

Lại còn giở trò, hiến dâng Lao Ái

Làm đến thừa tướng, vẫn thấy chưa vừa

Cả gan mưu tính, thoán đoạt ngôi vua.

Nay sợ hết hồn, ru rú trong nhà

Chẳng dám ra ngoài, chẳng dám nhìn ai.

Những bài dân ca như trên nói lên sự bất mãn của dân chúng đối với Lã Bất Vi, tuy có nói đến chuyện xấu xa nơi buồng the phòng kín, nhưng thực ra lúc ấy thiên hạ đều biết cả. Nhà vua cùng không truy xét nữa. Vả lại, dân ca lại có thái độ ủng hộ nhà vua, khiến ngài cảm thấy không cần khoan dung Lã Bất Vi nữa, bèn ra chỉ dụ đưa ông ta về Lạc Dương yên phận tuổi già ở đó, giữ lấy cái tiếng của mình lúc cuối đời.

Hai tháng nay, người đau khổ nhất, sợ hãi nhất là thái hậu Triệu Cơ, người đang bị giam lỏng ở cung Đại Trịnh. Hồi đầu tháng Chín, nhà vua đến Ung Thành (cung Kỳ Niên) để làm lễ “gia miện”, bà cứ tưởng thế nào con cũng đến cung Đại Trịnh thăm mẹ - mặc dù quan hệ mẹ con có hơi xa cách, nhưng dù sao thì vẫn cứ muốn gặp con, để được an ủi phần nào. Vả lại, lễ gia miện này tiến hành rất long trọng, Lao Ái là trọng thần Trường tín hầu, thế nào cũng đi theo “xa giá” để đến đây; bà lại có dịp gặp Lao Ái, thỏa nỗi nhớ nhung tình nghĩa vợ chồng, còn hai đứa con, bà đã cho làm một phòng kín, lúc bình thường thì ba mẹ con chơi đùa với nhau, thỏa tình mẫu tử. Một khi nhà vua đến, lúc nào cũng có nội thị truyền tin, và lập tức hai đứa con được đưa vào trốn ở phòng kín, hoàn toàn yên tâm. Vì vậy, thái hậu vẫn cứ vui vẻ chờ đợi để đón tiếp nhà vua đến thăm. Nhà vua đến Ung Thành, sau đó đến ngay cung Đại Trịnh, gặp thái hậu một lúc. Khi thái hậu nói bà muốn dự lễ “gia miện”, nhà vua từ chối bằng lý do rất khôn ngoan. Ngài nói:

- Trước đây, mẫu hậu bị quỷ nhập ma ám, nên mới đến tránh ở đây. Nay bệnh đã thuyên giảm, nhưng nếu có mặt ở cung Đại Trịnh, e rằng lại bị ma ám quỷ nhập. Cho nên, mẫu hậu không cần phải dự lễ nữa.

Điều này làm cho thái hậu cảm thấy quan hệ mẹ con ngày càng xa; chẳng còn hy vọng gì để được chia sẻ một chút tôn kính và vẻ vang cho sự uy nghi của con mang lại nữa. Bà chỉ còn mong đợi chia sẻ chút tình cảm với Lao Ái mà thôi, vì đây là người cha của hai đứa con với bà. Vì vậy, khi Doanh Chính ra về bà không giữ lại, hơn nữa, còn mạnh bạo hỏi một tiếng:

- Trường tín hầu tại sao không đến thăm ta?

Doanh Chính trả lời cho xong chuyện:

- Lễ xong tất nhiên sẽ đến.

Sau đó, ngài lập tức lên xe về cung Kỳ Niên.

Mặc dù câu trả lời của con không được nhiệt tình lắm, đó vốn là tính cách lạnh lùng vốn có của Doanh Chính; cho nên bà cũng không để ý làm gì. Bà tin chắc rằng sau buổi lễ thế nào Lao Ái cũng đến với mình. Nghĩ vậy, bà bảo người hầu tắm rửa cho hai đứa con, mặc quần áo mới, cho vào chơi trong cái cũi có thể đẩy đi đẩy lại được. Bản thân bà cũng tắm gội xức nước thơm đầy người, chờ Lao Ái đến, hý hửng tận hưởng cái vui của vợ chồng con cái, hoan lạc của vợ chồng. Vì vậy khi nghe thấy tiếng trống kèn và tiếng hoan hô vang trời dậy đất ở Ung Thành dội đến, bà vẫn bỏ ngoài tai, vì cho rằng chẳng có liên quan gì đến mình. Bà chỉ đăm đăm nhìn vào trướng màn nơi phòng ngủ, chỉ cầu mong Trường tín hầu, người đàn ông tuấn kiệt ngang tàng này, bay nhanh đến đây.

Nhưng lòng mong đợi và khát khao của thái hậu đã bị tắt ngấm mất rồi. Trường tín hầu chẳng quay lại. Bà đoán già đoán non rằng chắc là Lao Ái đã có “vui duyên mới” ở Hàm Dương nên mới lạnh nhạt xa lánh bà. Máu ghen nổi lên đùng đùng, thái hậu vội sai nô tỳ thân cận ra ngoài dò hỏi xem, những người từ Hàm Dương đến dự lễ, họ đã về Hàm Dương hay chưa? Nhất là Lao Ái, làm gì? Đi đâu? Nhưng những người đi thăm dò về nói rằng, Trường tín hầu gây biến ở Hàm Dương, đem quân bao vây cung Kỳ Niên, đã bị quân của nhà vua đánh bắt. Nhà vua đã đưa quân về phản công Hàm Dương, một số người cầm đầu nổi loạn đã bị bắt, nhưng không nghe nói có Lao Ái trong đó; hiện giờ chưa rõ ông ra sống chết ra sao, vì trong khi hai bên đánh nhau, mọi chuyện có thể xảy ra.

Tin tức nói trên làm cho thái hậu hết sức đau buồn và sốt ruột. Sự việc đã đến thế này, thái hậu chỉ còn một cách duy nhất là mong cho quân của Lao Ái thắng. Chỉ có như vậy, bà mới có chồng, có con và một gia đình đầm ấm. Nếu không, sẽ thân bại danh liệt, tiền đồ mờ mịt, nghĩa là mất sạch. Bà lo lắng bồn chồn, trong lòng như lửa đốt. Vài ba ngày ăn không ngon ngủ không yên như vậy. bà lại sai người ra ngoài thăm dò, nhưng lúc ấy cung Đại Trịnh của bà đã bị quân Tần bao vây, không cho ai ra vào. Đến đây, thái hậu liều mình tự mình ra ngoài để biết tình hình. Bà ngồi xe kiệu, có cận vệ và cung phi hộ giá, khi ra cổng, bị một viên tướng chặn lại.

Thái hậu hỏi nhẹ nhàng:

- Nhà ngươi là ai, sao dám ngăn xe của ta?

Vị tướng kia chắp hai tay hành lễ, đứng nghiêm trả lời:

- Mạt tướng là Đôn Nhược, phụng mệnh thánh chỉ, bảo vệ cung Đại Trịnh.

- Đã gọi là bảo vệ, tức là vì sự an toàn, sao không cho người ra vào? - Thái hậu hỏi, nghiêm sắc mặt.

- Mạt tướng chỉ biết phụng chỉ hành sự, còn vì cớ gì mạt tướng không thể bẩm báo. - Đứng trước mặt thái hậu, Đôn Nhược phải nói tránh đi, không dám nói thật.

- Nhà ngươi không thể trả lời ta, vậy ta phải đi hỏi thánh thượng. - Thái hậu tỏ ra cứng rắn hơn.

Ai ngờ Đôn Nhược cũng không nể nang gì nữa, ông ta trả lời, có vẻ như ỷ vào một thế lực nào đó, nên không hề sợ hãi:

- Thánh thượng ban chỉ nói rằng, mạt tướng phải canh gác nghiêm ngặt ở cửa cung, những người ở trong cung không được phép đi quá một bước giới hạn đã định.

- Ta là mẹ của nhà vua! - Thái hậu đã tức giận đến mức không kìm nén được nữa, kêu lên rất giận dữ.

- Xin đừng nói là mẹ của thánh thượng, ngay cả Thái thái hậu đến đây, mạt tướng cũng không thể không vâng lệnh. - Đôn Nhược lại nói rất cứng rắn với thái hậu.

Thái hậu không thể chấp nhận được thái độ ấy, bèn bảo bọn thị vệ:

- Cứ xông ra ngoài, xem ai dám cản xe ta!

Các thị vệ đang sắp sửa chạy vượt qua cổng, thì Đôn Nhược chạy đến nắm lấy dây cương ngựa và giơ cao một văn bản, ông ta nói:

- Đây là thánh chỉ, thái hậu nhất thiết không được hấp tấp!

Thái hậu và đám tùy tòng lắng nghe những điều ghi trong thánh chỉ:

Đôn Nhược bảo vệ cung Đại Trịnh

Cắt đứt mọi việc ra vào cung.

Không ai được vượt quá hàng rào.

Bất kể trên dưới phải nghe theo.

Cho dù hoàng thân hay quốc thích,

Từ bên trong hay ở bên ngoài.

Ai dám trái lệnh thánh chỉ này,

Thượng phương bảo kiếm sẽ ra tay [vii].

Đôn Nhược đưa hai tay giơ cao thanh “thượng phương bảo kiếm”, bẩm tấu với thái hậu:

- Thật là không thể làm trái lệnh, mong thái hậu tha tội cho hạ thần.

Thái hậu bị chặn lại như vậy, không dám mạo hiểm nữa, đành quay ngựa đi vào, vừa sợ hãi vừa nói rất bất đắc dĩ:

- Phản rồi! Phản rồi!

Đôn Nhược đưa mắt nhìn theo xe của thái hậu quay vào rồi tự nói một mình, cũng có ngụ ý gì đó:

- Phản rồi! Phản rồi! Không phải là mạt tướng “phản rồi”, mà là Lao Ái của thái hậu “phản rồi”; cái mạng của ông ta bị “phản” mất rồi, thế mà bà ta vẫn không biết.

Đúng là thái hậu Triệu Cơ “không biết” gì cả, vì bà bị giam lỏng trong cung, bị bao vây bốn bề. Bà không thấy con mình đã áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với mình, như vậy cho thấy tình hình rất nghiêm trọng, lành ít dữ nhiều. Bà đặt toàn bộ hy vọng vào Lao Ái và Lã Bất Vi, nay chẳng biết hai người này sống chết ra sao, để đến nỗi bỏ bà ở đây. Nay chỉ còn hai đứa con ở bên cạnh, bà thấy mình có trách nhiệm bảo vệ chúng, bèn ôm lấy con mà khóc. Nhưng ở trong tình trạng bị phong tỏa như vậy, giống như độc thân nơi cô đảo hoang vắng, không hay biết chuyện gì ở ngoài đời, tịch mịch cô quạnh, đêm khuya thanh vắng, lặng ngắt như tờ, lòng như lửa đốt, bàng hoàng nôn nao, thở dài não ruột, hết đêm lại ngày. Mặc dù chỉ mới hai tháng, nhưng bà đã gầy xọp, và thần kinh hơi bị hoảng loạn.

Vẫn như mọi ngày, thái hậu đang nhìn xa ra phía ngoài cung, để nghe ngóng xem có động tĩnh gì không, bỗng thấy một toán lính xông vào, theo sau là tướng Đôn Nhược và con bà - vua Tần Vương. Bà biết là tai họa đã ập đến rồi, nhưng vẫn không biết sợ hãi là gì, bà điên cuồng xông lên phía trước và hỏi con rất gấp:

- Doanh Chính, con đưa lính vào trong cung của ta làm gì thế?

- Làm gì ư, bà phải tự biết lấy. - Doanh Chính nói rất lạnh lùng.

- Đương nhiên là tự hiểu, mà còn không có gì hổ thẹn cả - Thái hậu điềm nhiên trả lời, không sợ.

- Sự việc đã đến thế này mà còn lớn tiếng nói không có gì xấu hổ. Nói thật với bà, tôi đem quân đến hỏi tội đây. - Doanh Chính đe dọa thái hậu.

- Nhưng ta có tội gì? - Thái hậu hỏi vặn lại.

Doanh Chính chỉ tay vào mẹ mình rồi nói:

- Bà tư thông với Lao Ái, đẻ ra nghiệt chủng. Đó không phải tội hay sao?

Thái hậu căm phẫn mắng lại:

- Im mồm. Ta là thái hậu, con ta đều là con vua (vương tử). Nếu con chửi chúng nó, tức là làm nhục mẹ.

- Bà là thái hậu, nhưng lại không giữ được tiết hạnh cho trong sạch, có đáng làm mẹ không? Lại còn theo Lao Ái mưu đoạt triều chính. Sao có thể tha tội được? - Doanh Chính nói rất hùng hổ, mặt đầy sát khí.

Thái hậu không còn biết xấu hổ nữa, chỉ chồm lên và hỏi rất gấp:

- Vậy anh đã làm gì ông ta rồi?

Doanh Chính trả lời rất tàn nhẫn:

- Cho năm xe ngựa xé xác hắn ta rồi.

Nghe xong câu trả lời ấy, thái hậu giật thót mình, nhưng vẫn gân cổ kêu gào vì quá căm phẫn:

- Anh xé xác phanh thây ông ta, ta sẽ liều mạng với anh! - Bà xông vào níu lấy Doanh Chính và kêu gào - Trả Lao Ái cho ta. Trả Lao Ái cho ta!

Doanh Chính nói, vẫn bộ mặt sát khí đằng đằng:

- Trả cho bà, trả cho bà ư? Tôi còn đòi bà trao người cho tôi đây này.

- Trao người cho anh. Ta là họ Triệu còn ở đây. Anh dám làm gì ta nào - Thái hậu hỏi dồn Doanh Chính - Chẳng lẽ anh lại dám giết mẹ ư?

- Không dám. Tôi chỉ đòi bà đưa người khác ra. - Doanh Chính vẫn truy đến cùng.

- Đòi đưa người, thì chỉ có ta đây. Không có ai khác. - Thái hậu cứ chối bay.

- Hai đứa con nghiệt chủng kia ở đâu? - Doanh Chính hỏi rất giận dữ.

- Ta biết anh là một tên bạo chúa, thế nào sớm muộn cũng đến đây, nên đã cho người đưa đi xa rồi! - Thái hậu nói dối, nói xong quay mặt di, không dám nhìn thẳng vào Doanh Chính.

Doanh Chính cười nhạt:

- Cung này đã bị vây chặt hai tháng nay, con kiến cũng không chui ra được, con người chạy đâu cho thoát? Bà đừng gạt tôi.

Nói xong, bèn sai lính lục soát. Đôn Nhược dẫn bọn lính sục sạo khắp nơi, chỉ một lát sau là phát hiện ra hai đứa bé ở trong phòng kín, vội dắt chúng ra phòng lớn. Hai đứa trẻ sợ phát khiếp, nhưng nhìn thấy mẹ bèn khóc òa lên, chúng gào thét: “Mẹ! Mẹ!”, và vùng vẫy để cố chạy về với thái hậu. Thái hậu kêu trời kêu đất cứu con bà, điên cuồng nhảy ào tới hai đứa con, liều mạng che chở chúng. Doanh Chính lúc này bất chấp luân thường đạo lý, chẳng còn tính người, đưa tay đẩy thái hậu ra, và chạy về phía hai đứa trẻ.

- Giọt máu đáng thương hại của mẹ. Nó là em của ngươi. Lao Ái là cha dượng của ngươi. Ngươi đã giết cha dượng, đã quá tàn bạo rồi, nay tại sao còn giết đứa bé vô tội! Ta cầu mong nhà ngươi tha cho chúng nó. Hãy tha cho chúng nó!

Thái hậu đã bất chấp tất cả ra sức cứu hai đứa con còn nhỏ, nhưng làm sao có thể ngăn cản được Doanh Chính đang nổi cơn thịnh nộ, hung dữ như lang sói. Ông ta mặc cho mẹ đang ôm chặt lấy chân mình và lăn mình xuống đất để kêu la than khóc, cứ ngang nhiên bảo Đôn Nhược đưa hai cái bao tải đến, nhét hai đứa bé vào trong đó. Hai đứa bé nằm trong bao tải vừa khóc thét vừa giãy giụa, giẫm đạp. Doanh Chính cầm chùy lớn đập mạnh liên tục vào bao tải, hành động như điên như dại. Chúng kêu thất thanh mấy tiếng rồi im bặt. Máu và óc phụt ra ngoài bao tải, rỉ từng giọt từng giọt xuống đất, trông thảm thương vô cùng.

- Ôi con ơi, hỡi con tôi ơi! Trả con tôi đây!Trả con tôi đây! -

Thái hậu khóc thảm thiết, chạy đến ôm xác hai đứa bé. Bà kiệt sức, máu me đầy người, bỗng ngất xỉu, ngã vật xuống đất.

Những người có mặt đều rất đau lòng trước thảm cảnh đó, trong khi Doanh Chính thì vẫn mặt lạnh như tiền, lại còn đắc chí mãn nguyện. Khi Đôn Nhược hỏi ngài về việc xử trí thái hậu, ngài nói rất lạnh lùng:

- Tước bỏ tôn hiệu “thái hậu”, giam tại cung Phụ Dương ở Ung Thành, không bao giờ được trở về Hàm Dương.

Chú thích:

[i] Nghiệt chủng: nghiệt là ác nghiệt, ác độc; chủng là giống, nòi giống - ND

[ii] Thời cổ đại, người Trung Quốc làm dụng cụ đo bóng mặt trời để biết giờ giấc - ND.

[iii] Sá nhân: một hình thức giống như môn khách, nhưng thân thiết với chủ nhà hơn là môn khách - ND.

[iv] Kiến vật tư qua: Nhìn thấy hiện vật là nhớ đến sai lầm. Thấy vật nhớ sai - ND.

[v] Không tiền: chưa từng có; khoáng hậu: về sau này cũng không thể có (khoáng có nghĩa là không có) - ND.

[vi] Hai mồm và hai chữ khẩu, đều ám chỉ Lã Bất Vi, vì chữ "Lã" có hai chữ "khẩu”, là mồm - ND.

[vii] Thượng phương bảo kiếm là thanh kiếm do nhà vua giao cho, người được cầm thanh kiếm có thể giết bất cứ ai - ND.