← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MƯỜI BA MAO TIÊU CAN GIÁN VÌ VIỆC NGHĨA-TẦN VƯƠNG ĐÓN MẸ, NỐI TÌNH THÂN------

Đối với Tần Vương, việc phế truất người mẹ đã đau khổ tuyệt vọng gần như phát điên, và việc lục soát và xử tử hai đứa trẻ thơ dại, là một việc quá dễ. Nhưng tại sao ông ta phải huy động quân đội, đao to búa lớn như vậy? Đó là vì, sau cái hôm thái hậu định vượt qua cổng và bị ngăn lại, rồi buộc phải quay về, bà đã tức giận thốt lên rằng: “Phản rồi! Phản rồi!”. Nói vậy, chẳng qua là thái hậu quá căm giận, chẳng biết làm thế nào, nên kêu than vậy thôi. Nhưng Đôn Nhược nghe vậy lại hiểu khác đi; ông ta cho rằng thái hậu gắn bó tình cảm với Lao Ái, nên thề sống chết với con trai - nhà vua; vì vậy, bà mới thốt lên lời như thế. Vì vậy, Đôn Nhược đoán rằng trong cung Đại Trịnh vẫn còn bọn đồng mưu của Lao Ái; nếu chẳng may bọn này điên khùng chống lại, thì bản thân ông ta sẽ rất bị động.

Ông ta đã mấy lần đi vào kiểm tra xem, nhưng đều bị người trong cung (bảo vệ, quan hoạn, cung phi) ngăn cản. Vì vậy ông ta lại càng lo. Trong tình hình khó xử đó, ông ta bẩm tâu với nhà vua tình hình trong đó rất nghiêm trọng. Tần Vương vốn là một người đa nghi, sau khi xem bản tấu của Đôn Nhược, ngài bèn nghĩ rằng số người bảo vệ, nội thị và cung phi trong cung Đại Trịnh đều là bộ sậu từ cung Cam Tuyền ở Hàm Dương đưa đến; đều là thân cận của Lã Bất Vi và Lao Ái. Bọn này thì cầm chắc là những kẻ đắc lực nhất trong bọn nổi loạn. Vì vậy lẽ ra chỉ cần sai Triệu Cao mang thánh chỉ, có Đôn Nhược phối hợp đưa thêm một ít binh sĩ là xong việc. Nhưng Tần Vương lại “ngự giá thân chinh” như sắp giao chiến một trận đánh lớn. Khi xông vào cung Đại Trịnh, quân bảo vệ cung (của Thái hậu) không biết nhà vua đến, nên đã đánh nhau với Đôn Nhược (đi trước nhà vua). Điều này khiến Tần Vương càng tin lời Đôn Nhược nói là đúng. Nghĩ vậy, Tần Vương bèn tự mình xông vào cung. Trên đường vào cung, hễ gặp ai là giết ngay. không kể người ngay hay kẻ gian, người chống cự, hay đầu hàng hoặc trốn chạy. Cho nên, trước khi vào cửa cung, Doanh Chính đã hưng phấn thái quá đến mức hăng máu giết người.

Khi hai mẹ con gặp nhau, thái hậu không những không biết đường nhận tội, mà lại còn nói Lao Ái là “cha dượng” của Tần Vương, hai đứa trẻ là em trai ông ta, làm thế nào mà ông ta có thể chịu đựng được sự sỉ nhục đó? Vì vậy tức nước vỡ bờ, già néo đứt dây, cơn thịnh nộ đã đưa đến hành động độc ác tàn bạo nhất, đến nỗi tự tay đập chết hai đứa em, làm cái việc thất đức, bệnh hoạn, điên cuồng nhất.

Sau khi tuyên bố hình phạt đối với mẹ mình, ông ta đã ra lệnh tháo dỡ tất cả những tiện nghi hào hoa của cung Đại Trịnh, cũng như toàn bộ vàng bạc, tài sản trong cung, đưa về Hàm Dương, không để lại bất cứ một thứ gì ở Ung Thành mà thái hậu đã dùng đến. Những vết máu còn dính trên tường và dọc đường đi trong cung thì cứ để nguyên, không được xóa, để nhắc nhở và cảnh báo mọi người: Ai dám chống lại Doanh Chính ta đây, là tự chuốc lấy cái chết.

Khi xa giá của nhà vua trở về Hàm Dương vẫn có đội cận vệ và đội kiêu binh hộ tống. Trên đường về, ngài không nhìn thấy dân chúng đang đứng chật hai bên đường để nhiệt liệt hoan hô chào mừng như dạo trước ngài đưa quân đi diệt Lao Ái ở Ung Thành. Ngài bèn hỏi Triệu Cao tại sao. Triệu Cao biết rõ mười mươi đó là do lòng dân bất bình (với việc giết em và trừng phạt mẹ đẻ); nhưng không dám nói thật. Triệu Cao giải thích rằng, lần trước là đi diệt bọn giặc phản nghịch, tình hình rất khẩn cấp, dân chúng hoan hô nhà vua để bày tỏ sự ủng hộ đối với triều đình và quân chủ và cũng để cổ vũ tinh thần quân sĩ. Còn bây giờ, bọn nổi loạn đã bị xóa sổ, những việc còn sót lại cũng đã xử trí xong xuôi. Quân ta trở về, bước chân từ từ vững chắc, không khẩn trương vội vàng như trước; cho nên dân chúng nghĩ rằng bệ hạ đã quá mệt mỏi, cần được nghỉ ngơi. Vì vậy họ chỉ đưa mắt kính chào bệ hạ một cách tôn kính, chứ không dám kéo nhau ra quá đông rồi hô lớn, gây ồn ào náo nhiệt, ảnh hưởng đến sự yên tĩnh của bệ hạ.

Nhà vua nghe xong, thấy cũng có lý, bèn yên tâm nhắm mắt lim dim, rồi ngủ say lúc nào không biết. Cuộc hành trình này mất gọn ba ngày mới về đến Hàm Dương. Khi đi qua các phố nội thành Hàm Dương, nhà vua nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát do chiến sự gây ra; từ phố lớn cho đến hang cùng ngõ hẻm, biết bao nhà cửa, hàng quán bị tàn phá, kinh tế tiêu điều, chợ búa vắng vẻ, dân chúng đau buồn. Trước tình cảnh đó, cảm nghĩ bình yên sau khi dẹp loạn bỗng biến mất; nhà vua lại lo nghĩ mông lung, ngài cảm thấy rất bất bình, căm giận và ác cảm đối với Lao Ái, Lã Bất Vi và mẹ mình. Nhà vua cũng biết rằng không nên để cho luồng tư tưởng này kéo dài mãi, mà phải hạn chế và xóa bỏ đi. Nghĩ vậy, ngài quyết định coi mọi việc vừa qua như tạm thời kết thúc, để từ đây, bắt đầu xử lý những việc đại sự của nhà nước quân sự.

Trong một buổi thiết triều sau một thời gian ngắn phải tạm nghỉ, và sau khi xét duyệt một số bản tấu thông thường, nhà vua tuyên bố trịnh trọng:

- Nổi loạn ở Hàm Dương đã dẹp yên, Ung Thành dư đảng đã bị loại trừ. Các khanh hợp lực, bách tính đồng tình. Từ nay về sau, không được bàn chuyện đó nữa, phải chú ý những việc quan trọng hơn.

- Đại vương anh minh quyết đoán, chúng thần xin tuân chỉ thực hiện.

- Cuộc dẹp loạn lần này nhanh chóng, đã bắt hết đầu sỏ, triều đình được bình an, cung khuyết [i] yên tĩnh. Danh tiếng đại vương muôn dặm lẫy lừng, hồng phúc vạn năm.

Bên dưới vang lên những lời chúc tụng. Nhà vua sắp cho bãi triều, bỗng trong hàng ngũ văn quan, có một vị đại phu đứng dậy, vái lạy rồi nói:

- Xin bệ hạ dừng bước. Vi thần có việc khẩn xin bẩm tấu!

- Khanh có việc gì cần, mau tấu trình. - Nhà vua hỏi.

- Vi thần xin hỏi bệ hạ, đối với bệ hạ thì thái hậu và Lã thừa tướng, ai thân ai sơ? [ii] - vị đại phu đứng nghiêm, chắp tay hỏi.

- Cố nhiên là thái hậu thân, thừa tướng sơ - Nhà vua trả lời, nhưng trong bụng nghĩ sao người này lại hỏi một chuyện ấu trĩ như thế.

- Nhưng sai lầm của thái hậu và của thừa tướng, ai nặng ai nhẹ? - Vị đại phu hỏi tiếp.

- Đương nhiên là thái hậu nặng, thừa tướng nhẹ - nhà vua bèn nghĩ rằng người này không có thiện chí đây, nhưng vẫn kiên nhẫn đáp lại.

Vị đại phu không tán thành. Ông ta nói:

- Tha cho vi thần to gan, vi thần cho rằng phải ngược lại với những lời bệ hạ vừa nói.

Nhà vua nhẹ nhàng hỏi lại:

- Tại sao nói vậy?

- Loạn Lao Ái, Lã thừa tướng biết nhưng không theo, nên bệ hạ không xử phạt là rất anh minh. Nhưng thái hậu không biết, sao bệ hạ lại nói là tội nặng? - Vị đại phu nói rất có lý có lẽ.

Nhà vua tức giận nói như mắng:

- Lao Ái cầm con dấu dành riêng cho thái hậu, có thể coi thái hậu là đồng mưu với Lao Ái.

- Nếu là đồng mưu, tại sao thái hậu không có mặt ở Hàm Dương với Lao Ái để chỉ huy bọn nổi loạn; mà lại ở một mình tại Đại Trịnh cung, khoanh tay ngồi chờ người ta đến bắt? Bà là quốc mẫu, tại sao không được hiểu biết gì cả, để đến nỗi như vậy? - Vị đại phu cứ hùng biện, hầu như không để cho nhà vua kịp thở nữa. Ông ta lại nói tiếp - Mà theo lời cung khai của chúng, dấu ấn của thái hậu là do Lao Ái ăn cắp, thái hậu hoàn toàn không biết. Nhưng bệ hạ đã xử tội đồng mưu, phế bỏ danh hiệu thái hậu của mẹ đẻ, giam vào lãnh cung. Vì vậy, vi thần bất bình thay cho thái hậu.

- Điều đó không nói nữa. Việc thái hậu tư thông với Lao ái đẻ ra nghiệt chủng, chẳng lẽ trẫm phế bỏ thái hậu không được ư? - Nhà vua đành phải chuyển sang nội dung khác.

- Tuy thái hậu có đánh mất đức hạnh, nhưng đứa con sinh ra vẫn là cốt nhục mẫu tử. Đại vương có thể khiển trách hành vi xấu xa, tước bỏ danh hiệu cao quý, nhưng tự tay đánh chết hai đứa em, đuổi mẹ đẻ vào lãnh cung, đạo hiếu ở đâu, nhân nghĩa chỗ nào? - Vị đại phu ăn nói tự nhiên, không chút nao núng, mặt đầy phẫn nộ.

Nghe những lời quyết liệt như vậy, nhà vua không thể chịu nổi nữa. Huống hồ vị đại thần lại chỉ trích trước mặt đông đủ triều thần văn võ. Vậy thì làm thế nào để điều khiển được đám bầy tôi này, làm thế nào để điều hành triều chính đại Tần, chứ đừng nói đến việc chinh phục thiên hạ. Nhà vua xấu hổ quá hóa bất bình, mặt đầy giận dữ, thét mắng hung tợn:

- Nhà ngươi bênh cho thái hậu, nhiếc mắng cả ta, nhất định phải là dư đảng của Lao Ái. - Nói xong bèn sai người - Bắt ngay tên này đưa đi chém cho ta!

Bọn vệ sĩ cung đình chém ngay vị đại phu, sau trình thủ cấp để nhà vua xem lại. Tần Vương thấy đôi mắt trên cái đầu bê bết máu ấy vẫn còn mở to và nhìn trừng trừng vào ông ta, ngài bất giác giật mình, thầm nghĩ: Những người như vậy, nếu lại có thêm mấy người tương tự, thì làm sao mà chống cự lại được họ. Nhất quyết không thể để cho khí thế này kéo dài. Nghĩ vậy, ngài ra chỉ dụ:

- Đưa đầu và xác của viên đại phu đặt dưới chân tường cung đình, lấy cỏ gai kê ở dưới, cho gai đâm vào lưng, giết một răn mười, rung cây đuổi khỉ, xem còn kẻ nào dám can gián vụ việc thái hậu nữa hay không. Chẳng lẽ cái bọn mọt sách ấy không sợ chết hay sao?

Sự thật lại trái ngược với ý muốn của Tần Vương. Thi thể của vị đại phu nọ không những không ngăn cản được sự bất bình của dân chúng; ngược lại, càng gây nên căm phẫn trong nhiều người, vẫn có mấy người khác liên tục lên tiếng can ngăn nhà vua về vụ việc thái hậu. Họ đều bị giết hết. Xác đều để bên cạnh vị đại phu, máu chảy lênh láng. Doanh Chính sai người viết cáo thị dán lên cột sơn đỏ cạnh đó. Cáo thị viết “Kẻ nào dám bàn về chuyện của thái hậu, hãy xem chỗ này trước đã”. Nhưng vẫn không đe dọa nổi những người ngay thẳng, muốn can gián trung thực. Hơn nữa, từ chỗ chỉ có một vài cá nhân lên tiếng, nay có từng nhóm nhiều người cùng lên tiếng. Họ phát biểu rất mạnh bạo và kiên quyết, làm cho nhà vua càng tức tối, ngài bèn cho ra một bản cáo thị khác: “Ai dám can gián vụ việc thái hậu, sẽ bị chặt chân tay và ném thân thể ở cửa khuyết”.

Ai ngờ vẫn có người can gián, họ vẫn không sợ. Người trước ngã xuống, người sau tiến lên; họ cho rằng đây là việc nghĩa cần làm. Vì vậy, chỉ trong mấy ngày, đã có đến hai mươi bảy người lên tiếng. Để thực hiện nghiêm lệnh đã ban ra, Tần Vương cho chất những xác người ấy như đống củi, không cho đưa đi chôn. Ông ta còn muốn xem xem, có ai dám đưa thân vào chỗ chết. Khi mà nhà vua đại Tần đang dùng hình phạt tàn khốc là giết thảm rồi phơi thây, để đe dọa, khủng bố mọi người, thì ở tận nước Tề có một người tên là Mao Tiêu, là một đại phu (một học vị) đến Hàm Dương và dám lao vào cái chết đó. Mao Tiêu lúc đầu đến Tần là cốt để tìm một chức vụ gì đó, nhưng sau thấy có chuyện thái hậu, và mặc dù đã có hàng chục người can gián bị giết thảm hại, ông ta vẫn nghiễm nhiên xin gặp nhà vua để nói hộ cho thái hậu Triệu Cơ.

Nhà vua nghĩ rằng người trong nước lên tiếng, có thể có liên quan với Lao Ái. Người này ở nước khác đến, chắc chắn là chẳng dính líu gì, tại sao lại đem thân thử thách với luật pháp? Cứ xem đây là chuyện gì. Nghĩ vậy ngài bèn nghiêm sắc mặt tiếp kiến. Mao Tiêu bước vào, hành lễ bái kiến, nhưng không hề nói một chữ nào về thái hậu, chỉ tự mình nói một câu: “Té ra là như vậy!”

Nhà vua thấy người này nói chẳng đến đầu đến đũa, bèn hỏi:

- Nhà ngươi đến để nói hộ cho thái hậu, nay tại sao thấy trẫm lại không hé răng, lại còn lẩm bẩm cái gì thế?

Mao Tiêu trả lời thong thả tự nhiên:

- Hạ thần là dân đen nước Tề, nghe tin đại vương là quân chủ anh minh của nước đại Tần nên chẳng quản đường xa nghìn dặm, cố gắng tới đây để hầu hạ bệ hạ. Vừa qua biết có hai mươi bảy người đã chết, tưởng là đồng bọn với Lao Ái, không ngờ họ đều bị trị tội vì sự việc của thái hậu. Bệ hạ làm một việc không hợp lý hợp tình đó, chắc là phải hiểu. Cho nên tự than rằng: “Té ra là như vậy!”

- Trẫm có thể ngang trời dọc đất, trị quốc bình thiên hạ, sao lại nói là không hợp lý hợp tình? - Nhà vua nói rất cao ngạo.

- Xin đừng nói cao xa, chẳng giúp ích gì cho sự việc; hãy nhìn vào hiện vật cụ thể sẽ thấy rõ. Nay có hai mươi bảy người đã chết vì dám nói thẳng để can gián, đủ thấy chính trị của bệ hạ là không thông suốt, lòng người bất bình. Đó chính là không hợp lý hợp tình. - Những lời nói ngay thẳng của Mao Tiêu vang lên sang sảng.

- Sao lại nói chính trị của ta không thông suốt, lòng người bất bình? - Nhà vua đòi Mao Tiêu phải có vật chứng, không được nói suông.

- Xin hỏi đại vương lấy gì làm gốc để trị quốc? - Mao Tiêu lại hỏi.

- Đương nhiên lấy “hiếu” làm gốc. - Nhà vua trả lời quả quyết.

- Đại vương nói rất phải. - Mao Tiêu tán thành nhà vua, và nói rộng ra - Cái đức hạnh tốt đẹp của con người là lòng hiếu thảo. Cái tình nghĩa đó phù hợp với luân lý. Nay bệ hạ phế bỏ mẫu hậu, là trái với đạo hiếu. Đập chết em nhỏ, là trái với luân lý. Vậy trị nước làm sao có chính trị thông suốt, lòng người ưng thuận được?

- Thái hậu tư thông với Lao Ái, làm sao trẫm có thể có đạo hiếu được? Ta với hai đứa trẻ nghiệt chủng, làm sao có chuyện luân lý được? - Nhà vua rất cố chấp.

Mao Tiêu thẳng thừng bác bỏ từng điều của nhà vua. Ông ta nói:

- Chuyện quan hệ nam nữ là ham muốn tự nhiên của con người. Bệ hạ là bậc tôn quý của đất nước, trong cung có hoàng hậu hoàng phi, cung tần mỹ nữ, người đông như kiến, sớm chiều chung vui. Chỉ không nhớ mẫu hậu lứa tuổi trung niên, một mình cô quạnh, nên không chịu nổi. Việc tư thông với Lao Ái tuy có đánh mất đức hạnh và không thể chấp nhận được, song điều đó, con người khó tránh. Còn việc đẻ hai đứa con, và do đó ra sức bảo vệ tình mẫu tử, thật đáng thương lắm thay. Nếu muốn trừng phạt, thì chỉ cần nhắc nhở về đạo đức và tiết hạnh, sao lại bất chấp chữ hiếu, giam mẹ vào lãnh cung. Lại giết hai em, thật mất hết tình người! Lại còn bãi chức trọng phụ, xé xác “cha dượng” và chu diệt nhiều họ tộc có liên quan, giết cả những người vô tội. Thật là bất nhân bất hiếu quá lắm!

- Làm người quân chủ, sợ nhất là bầy tôi bất trung. Họ Lã, họ Lao dòm ngó ngôi vua, hòng lật đổ triều đình, nếu không hành hình, làm sao giữ được vương triều đại Tần của ta đây! - Nhà vua vừa nói vừa không giấu nổi tức giận.

- Bề tôi bất trung là do nhà vua bất nhân [iii]. Người có đức nhân, lấy chữ hiếu làm gốc; cho nên các đời vua Nghiêu, Thuấn, vua Ngu, Thành Thang, đều lấy chữ hiếu để trị thiên hạ. Nay thấy bệ hạ lại quên mất rằng thái hậu đã nuôi ngài trong thời buổi loạn lạc ở đất nước thù địch (Triệu), đã chăm sóc ngài dưới nanh vuốt của hổ beo lang sói. Thái hậu phải ngậm đắng nuốt cay để bảo toàn tính mạng cho ngài. - Mao Tiêu còn nói gay gắt hơn cả nhà vua.

- Chỉ vì quan hệ với Lao Ái, nên dẫn đến việc phản loạn ở Hàm Dương, trẫm không thể chịu nổi nên mới phế truất danh hiệu thái hậu. Lúc ấy quá nóng quá vội, nên có phần thái quá.

Lúc này nhà vua mới bắt đầu thấy sai. Vì vậy, Mao Tiêu cũng dịu bớt, ông ta tiếp tục gợi ý:

- Thái quá cũng như bất cập, đều trái với nhân tình, ngược với đạo lý. Hai mươi bảy người kia chỉ muốn bệ hạ sửa sai lầm, trừng phạt hợp lý, phải có tình mẹ, nêu cao đạo hiếu. Những người trung ngôn nghịch nhĩ (lời nói thẳng, chối lỗ tai), đều bị giết thảm hại, gây nên kinh hoàng trong quần thần, thiên hạ bất bình.

Tần Vương có vẻ lo lắng, ngài chau mày tư lự, rồi nói:

- Lúc đầu trẫm chỉ muốn ngăn chặn việc can gián phạm thượng. Không ngờ không chặn được mà còn ngày càng bung ra, không thu gọn lại được nữa.

Mao Tiêu nhân đà này bèn phô diễn tài ăn nói của mình, ông ta nói có ngụ ý cảnh báo:

- Muốn có tài ngang trời dọc đất thì phải có lòng rộng lượng hải hà, như vậy mới tập hợp được nhân tài, chọn điều hay lẽ phải. Nay đại vương tự cao ngạo mạn, nhắm mắt bịt tai, giết người trung lương, chặn đường ngôn luận, tự mình cô lập. Chừng nào bầy tôi chống lại, người thân bỏ đi, lại phải đi theo vết xe đổ của vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Chu. Khi đó, bệ hạ lâm nguy, đại Tần cũng lâm nguy!

- Tại sao nhà ngươi dám so sánh trẫm với các bạo chúa thuở xưa? - Nhà vua lại nổi giận.

- Hạ thần thấy hai mươi bảy người chết, thì khắc biết đại vương không có lượng khoan dung, nên mới liều chết can gián, những mong bệ hạ suy xét. Một tấm lòng son đã nói ra, tấm thân bảy thước này có tiếc gì. Xin ban cho được chết, để được đứng chung với hai mươi bảy người đi trước, nằm trên cỏ gai, để mãi mãi ghi sâu hình phạt tàn khốc của nhà Tần. Ngước mặt trời cao, kêu than muôn lời, nỗi oan thái hậu!

Nói xong, Mao Tiêu nghiễm nhiên đứng thẳng dậy, giật mạnh cổ áo, cho họng lồi ra, mắt trừng nhìn Tần Vương.

Nhà vua thấy Mao Tiêu nói hợp lý, nghiêm khắc và không chút sợ hãi, cảm thấy đó là lẽ phải, phải nghe; bèn vội rời ghế nói khiêm tốn:

- Được nghe khanh nói thẳng thắn chân thành đều vì việc nghĩa, đạt lý thấu tình, thâm thúy sâu sắc, phân rõ lợi hại, hết sức đáng mừng. Trẫm phải sửa sai, để được lòng dân, thiên hạ mong chờ.

Tiếp đó, ngài sai gỡ bỏ hai bản cáo thị và đốt đi; cho mai táng hai mươi bảy thi thể. Nhưng vì đã để ở đó nhiều ngày, nên đã nát ra, không thể phục hồi nguyên trạng được nữa, chỉ có thể đưa vào một quan tài chung, chôn trong một mộ lớn, đặt tên là “hợp trung mộ” (mộ chung của những người trung thực).

Để sửa chữa sai lầm, tiếp thu ý kiến trung thực, nhà vua tuyên bố: Từ nay về sau, ai muốn gặp nhà vua để can gián, đều được mời ngồi chiếu trên, không bao giờ thất lễ. Trong buổi thiết triều sáng hôm sau, nhà vua tuyên bố trước mặt đông đủ văn thần võ tướng: phong Mao Tiêu làm thái phó (thầy dạy thái tử), ban tước thượng khanh. Mao Tiêu tạ ơn nhà vua, ông nói:

- Việc can gián nhà vua để sửa sai, làm lại cho đúng, là bổn phận của bề tôi. Nay đại vương phong chức ban tước, điều này cho thấy đại vương có dũng khí sửa sai. Đó là hạnh phúc của thần dân và cũng của đại Tần. Nhưng thái hậu vẫn ở nơi lãnh cung, ơn trạch của đại vương vẫn chưa đến được với thái hậu, điều này làm cho hạ thần cảm thấy chưa yên tâm.

Nhà vua nói:

- Lúc đó ta có chỉ dụ rằng thái hậu không bao giờ được trở về Hàm Dương; nay có thể thu hồi chỉ dụ đó. Nhưng hiện vẫn chưa biết dùng hình thức gì để vừa có thể bao quát toàn cục vừa không tổn thương đến thể diện.

Mao Tiêu cười nhạt và nói rằng:

- Đại vương suy nghĩ về bản thân mình quá nhiều, tại sao không nghĩ đến nỗi đau của thái hậu?.”Vua không nói chơi”, để rồi không thay đổi chỉ dụ, vậy thì hạ thần xin kể câu chuyện “Trịnh bá khắc Đoàn ư Yên” [iv] cho đại vương nghe. Chuyện này như sau:

Thời Xuân Thu, vua nước Trịnh là Vũ Công, lấy vợ người nước Thân là Vũ Khương. Vũ Khương sinh được hai con trai, tên là Trang Công và Cộng Thúc Đoàn. Khi đẻ Trang Công, Vũ Khương bị đau dữ dội, nên rất sợ hãi, và đặt tên con đầu lòng là “Ngộ Sinh” [v], vì vậy, bà rất ghét đứa con đầu lòng, chỉ yêu thích con thứ là Thúc Đoàn, muốn lập Thúc Đoàn làm thái tử. Bà nhiều lần xin Vũ Công lập Thúc Đoàn, nhưng không được, vì không hợp chế độ.

Đến khi Vũ Công mất, Trang Công nối ngôi, bà lại xin Trang Công phong đất cho Thúc Đoàn ở vùng Chế (thời Tam Quốc gọi là “Hổ Lao Quan”) [vi]. Nhưng Trang Công sợ Thúc Đoàn đến đó sẽ không an toàn, nên xin mẹ đổi nơi khác. Bà Vũ Khương bèn bảo Trang Công phong đất Kinh cho Thúc Đoàn. Trang Công vâng lời mẹ, để cho em đến ở đất Kinh, gọi đất Kinh là “Kinh thành Thái Thúc”.

Theo chế độ lúc bấy giờ, tại các đô thị lớn, số lượng các “đoạn được xây cao lên” của tường thành [vii] không được vượt quá một phần ba số lượng các “đoạn được xây cao lên” của tường thành kinh đô. Các đô thị hạng trung bình, số lượng “đoạn được xây cao lên” đó, không được vượt quá một phần năm của đô thành. Các đô thị loại nhỏ, không được vượt quá một phần chín. Nhưng kinh thành của Thái Thúc đã vượt quá tiêu chuẩn đó, là trái với chế độ. Đại phu Tế Trọng đã nhắc nhở Trang Công rằng, Thái Thúc làm vậy là rất nguy hiểm đối với Trang Công, là một tai họa tiềm tàng, nhưng Trang Công nói đó là nguyện vọng của Vũ Khương (bà mẹ), làm con không thể trái ý mẹ. Tế Trọng nói rõ rằng lòng tham của Vũ Khương là vô đáy, giống như cỏ dại vậy, cỏ dại mọc lan tràn, không ai nhổ hết được, huống chi người em của ngài đã được nuông chiều quen thân rồi. Trang Công lại nói rằng, làm quá nhiều việc bất nghĩa rồi sẽ tự chuốc lấy cái chết. Cứ chờ xem.

Không bao lâu sau, Thái Thúc chiếm đoạt đất “nhượng địa” của nước Trịnh ở biên giới Tây Bắc, coi như của riêng của mình. Công tử Lã lại can gián Trang Công. Ông nói rằng, nhà nước không cho phép thôn tính đất “nhượng địa” như vậy; đồng thời, cũng không cho phép tồn tại cục diện hai thế lực kình địch nhau như hiện nay. Ông cũng yêu cầu Trang Công có biện pháp rõ ràng, hoặc là để cho Thái Thúc muốn làm gì thì làm; hoặc là tiêu diệt ông ta cho xong. Nhưng Trang Công nói rằng, chúng ta chẳng phải làm gì cả, Thái Thúc khắc nuốt lấy quả đắng mà thôi.

Sau đó, Thái Thúc lại mở rộng lãnh địa của mình đến Lẫm Diên. Quan đại phu Tử Phong bèn nêu kiến nghị với Trang Công. Ông nói rằng đã đến lúc phải hành động, Thái Thúc chiếm đất quá nhiều rồi, số người cũng tăng lên, sẽ trở thành một lực lượng quân sự lớn mạnh. Trang Công nói rất nghiêm túc rằng, Thái Thúc không giữ đạo nghĩa gì với nhà vua, không tử tế với anh cả, thì chiếm được nhiều đất cũng sẽ thất bại thôi.

Thái Thúc ra sức nuôi ngựa, rèn quân, tăng xe, tăng lính, chuẩn bị đánh chiếm cả nước Trịnh. Trong mưu đồ này, có thái hậu Vũ Khương làm nội ứng, bà sẵn sàng mở cửa quan để đón Thái Thúc vào thành, làm đảo chính quân sự, giành chính quyền. Trang Công dò tin biết được ngày giờ khởi sự của Thái Thúc, bèn sai đại phu Tử Phong đưa hai trăm xe đến bảo vệ Kinh Thành. Dân chúng Kinh Thành quay giáo chống Thái Thúc; Thái Thúc bị thua, chạy đến đất Yên. Ở đây Thái Thúc lại bị thua, phải chạy đến nước Cộng.

Trang Công rất căm giận mẹ đã bí mật nuôi dưỡng và phối hợp với em mình làm phản, bèn phế bỏ danh hiệu thái hậu của bà và đưa bà đến ở Dĩnh Thành. Sau đó, thề độc rằng: “Nếu bà ấy chưa chết để về ở dưới “suối vàng”, thì ta không bao giờ gặp bà ấy!”. Về sau, Trang Công cảm thấy hối hận, nghĩ rằng mình không nên quá dứt tình với mẹ như vậy.

Dĩnh Khảo Thúc là người quản hạt vùng biên giới, biết được việc này, cảm thấy rất bất an, ông ta bèn mang một ít quà biếu Trang Công. Trang Công mời Dĩnh Khảo Thúc ở lại ăn cơm. Khảo Thúc không ăn thịt dọn ra, mà để dành. Trang Công ngạc nhiên hỏi tại sao làm thế. Khảo Thúc nói: “Mẹ tôi đã ăn thịt do tôi nấu nướng và biếu bà, nhưng chưa bao giờ được ăn thịt của nhà vua ban cho; xin nhà vua cho phép tôi mang chỗ thịt này về để biếu mẹ tôi, đặng tỏ lòng hiếu thảo với mẹ”. Trang Công than rằng: “Nhà ngươi có mẹ, có thể tỏ lòng hiếu thảo, hay biết bao. Ta thì không có”. Khảo Thúc hỏi tại sao Trang Công nói vậy, Trang Công bèn nói đầu đuôi câu chuyện của mẹ mình cho Khảo Thúc nghe và tỏ ra hối hận. Khảo Thúc nói: “Có gì khó đâu cơ chứ. Ngài hãy đào một con đường hầm dưới đất, cho đến khi nào nhìn thấy “suối vàng” thì thôi; hai mẹ con ngài sẽ gặp nhau ở đó. Vậy thì có ai nói là không được đâu!”. Trang Công bèn làm đúng như thế. Hai mẹ con gặp nhau tại đường hầm “suối vàng”, rất cảm động, cùng nhau kể lại tình mẫu tử, làm lại từ đầu như xưa.

Cuối cùng Mao Tiêu nói:

- Sở dĩ hạ thần kể câu chuyện “gặp mẹ ở suối vàng” dài dòng lôi thôi như vậy là chỉ mong ngài suy nghĩ kỹ. Đầu đuôi câu chuyện giữa ngài và mẹ ngài, rất giống với quan hệ giữa Trang Công và mẹ ông ấy. Điều khác nhau là ở chỗ, bà Vũ Khương là một người mẹ không tốt, còn thái hậu là một người mẹ tốt. Trịnh Trang Công có thể tha thứ cho người mẹ đã âm mưu làm hại ông ta, vậy ngài lại càng nên thông cảm người mẹ luôn luôn yêu thương ngài!

Nhà vua cảm động rơi nước mắt, rất cảm ơn Mao Tiêu. Ngài nói:

- Nếu như lúc đầu, ngươi nói ngay cho ta biết câu chuyện này, thì ta đã nghe lời lẽ khuyến cáo của ngươi từ lâu rồi, việc gì phải quanh co mãi như thế?

Mao Tiêu cười và nói rằng:

- Nếu can gián dễ dàng như vậy, thì đã không có chuyện có đến hai mươi bảy xác chết nằm trên cỏ gai, và càng không có việc một thuyết khách từ nước Tề như hạ thần phải đến Hàm Dương để khua môi múa mép như thế này.

Nhà vua rất tán thưởng trí tuệ và tài hùng biện của Mao Tiêu và quyết định sử dụng Mao Tiêu như là nhân vật tham mưu cho mình.

Sau đó, nhà vua lại bàn bạc với Mao Tiêu về việc đến cung Phụ Dương ở Ung Thành để đón thái hậu. Qua việc này, nhà vua thấy Mao Tiêu hiểu rất rõ đầu đuôi xuôi ngược cuộc đảo chính cung đình ở Hàm Dương, lại còn phân tích rất sâu sắc, chính xác và nhận định hợp lý đối với tội lỗi và sai lầm mà thái hậu phải chịu trách nhiệm. Cách nói của Mao Tiêu không quá nghiêm khắc, cũng không quá khoan dung. Nhà vua nghĩ vậy, cảm thấy rất xúc động. Ngài nói:

- Nếu trẫm cũng sáng suốt và có lý trí như khanh, thì đâu đến nỗi có người mẹ vô tội bị oan và lạm sát những người trung thực như vừa qua?

Mao Tiêu lại gợi ý:

- Điều này gọi là “trong cuộc không tỏ, ngồi chõ thì tinh”. Người thủ lĩnh đứng trước một thế cờ phức tạp, các thế lực đối lập lại ở cận kề nhau, gốc rễ xoắn xuýt với nhau, trên chính trường thì thủ đoạn xảo quyệt, trong phòng the thì son phấn mê ly. Trong bối cảnh ấy, nếu hơi thiếu thận trọng, thì thắng hay bại, lập công hay phạm sai lầm, nhiều khi chỉ do sự khác nhau ở một thoáng suy nghĩ hay một bước đi giải pháp mà thôi. Người đứng đầu thiên hạ như đại vương, sao không cẩn trọng cho được?

Nhà vua thấy Mao Tiêu nói chí lý, nên quyết tâm dùng hành động để sửa chữa sai lầm của mình, xóa bỏ ảnh hưởng không tốt. Nghĩ vậy, ngài bèn hỏi ý kiến về việc đó. Mao Tiêu nói:

- Đại vương đã nghĩ ra như thế, chứng tỏ ngài có thể nghe theo những lời nói trung thực, rút ra bài học, đó là sự mở đầu tốt đẹp. Trong đó, việc đón thái hậu về Hàm Dương là một dịp tốt. Vì vậy, hạ thần đề nghị tổ chức lễ đón thật long trọng; đại vương phải đích thân đi đón, để thể hiện lòng thành và hiếu thảo.

Nhưng nhà vua vẫn còn nghi ngại. Ngài nghĩ rằng cuộc nổi loạn ở Hàm Dương vừa qua, bộc lộ mối quan hệ chằng chịt giữa các tập đoàn chính trị quân sự ở tầng lớp trên. Trong đó, vừa có sự câu kết với nhau, vừa có sự chia rẽ lẫn nhau; ngoài mặt thì tranh giành nhau, bên trong thì hất cẳng đấu đá nhau; gây thiệt hại hết sức nặng nề cho dân cho nước. Nay tuy đã dẹp yên, nhưng hậu quả chưa khắc phục hết. Nếu việc đón thái hậu tổ chức quá lớn, quá phô trương rầm rộ, e rằng sẽ bị chê trách, người đời sẽ phê phán nhà vua lợi dụng sự uy nghiêm tôn quý của mình để phung phí của cải tiền bạc, quên mất nỗi khổ của dân đen.

Mao Tiêu nói:

- Hạ thần lúc đầu cũng nghĩ rằng không nên làm quá to, nhưng sau khi đọc lại một số sự kiện lớn, cảm thấy trong những thời gian và điều kiện nhất định, để có thể tập hợp lực lượng, mở rộng ảnh hưởng, thì không thể không làm như thế. Chẳng hạn như việc thực thi cực hình “xé xác, bêu đầu lâu” đối với bè đảng Lao Ái, nếu không tổ chức thật rầm rộ, quy mô lớn, thì không thể nêu cao chính nghĩa, cổ vũ lòng người. Vì vậy, việc đón thái hậu về, cũng nên từ chỗ giáng xuống quá sâu nay phải nâng lên thật trân trọng, phải cử hành thật trọng thể việc phục hồi danh hiệu tôn vinh, như vậy mới nêu cao được tinh thần khoan dung độ lượng và sự đôn hậu hiếu thảo của đại vương; từ đó sẽ được dân chúng hoan nghênh và ủng hộ. Như vậy thì có gì mà không dám mạnh tay tiến hành?

Nhà vua nghe vậy rất vui mừng, ngài nói:

- Ngươi không những có thể làm phụ tá cho ta mà còn là bậc thầy của ta.

Nói xong, ngài bèn sai Đại hoàng môn Triệu Cao tổ chức lễ đón thái hậu trở về cung Cam Tuyền với nghi lễ cao nhất, có đội ngũ chỉnh tề, trống chiêng rầm rộ, thanh thế hùng tráng.

Trong lúc ấy, thái hậu Triệu Cơ đang ở cung Phụ Dương, sau khi bị phế truất và bị hôn mê do tận mắt chứng kiến hai đứa con yêu bị nhét vào bao tải và bị đập chết thảm thương. Bà được chữa chạy, và tỉnh lại. Bà thấy mình đang ở trong một nơi chẳng khác gì cái hang bằng đất của những người dân nghèo nước Triệu mà bà và cu Chính thường phải trốn trong đó để tránh bọn lính triều đình Triệu đến lục soát truy nã bà hồi nào. Tuy nhiên, khi ở đất Triệu, mặc dù sống rất gian khổ thiếu thốn, luôn trong tình trạng sợ sệt đề phòng, nhưng được dân nghèo đồng tình, giúp đỡ và che chở. Đặc biệt, lúc ấy cu Chính còn rất gắn bó quấn quýt bên mẹ; còn Tử Sở thì tuy đã về nước, nhưng vẫn luôn trông ngóng Triệu Cơ về. Vì vậy, khổ thế nhưng khổ nữa cũng vẫn chịu được. Sức mạnh tinh thần to lớn đó đã nâng đỡ Triệu Cơ sống một cách ngoan cường, vượt qua mọi gian truân. Còn hiện nay, chỗ ở ẩm thấp, tối tăm, ảm đạm, cô đơn, đau buồn; mọi chuyện ăn uống đi lại đều cách xa một trời một vực so với khi còn là thái hậu. Mặc dù còn có một số nữ tỳ và nội thị theo hầu bà như trước, tiếp tục giúp đỡ và an ủi bà, nhưng trụ cột tinh thần của bà đã sụp đổ; hy vọng đã tan thành mây khói. Bà chẳng còn tin vào cuộc sống và chẳng còn muốn sống nữa. Nhưng bà vẫn phải sống bởi vì bà vẫn tưởng nhớ và lo lắng cho số phận và hoàn cảnh của Lã Bất Vi, cho dù ông ấy có nhớ đến bà hay không. Bởi vì Lã Bất Vi là người đã cứu bà khỏi cuộc sống long đong, rồi giúp bà trở thành thái tử phị và sau đó là hoàng hậu, cuối cùng là thái hậu. Lã Bất Vi thật sự là người chồng nghĩa nặng tình sâu. Bà nghĩ rằng sau khi Doanh Chính giết được Lao Ái và hai đứa trẻ, Doanh Chính chắc sẽ quay lưỡi kiếm về phía thừa tướng, người cha đẻ của mình. Nghĩ vậy nên bà ăn không ngon ngủ không yên, đêm nằm giật mình tỉnh giấc nhiều lần đến nỗi giống như con chim thấy cung là sợ, suốt ngày sống trong nghi kỵ lo âu.

Tâm trạng đó của thái hậu gây nên sự lo lắng của những người hầu hạ bà. Họ cố gắng làm cho bà sống vui vẻ, thậm chí giả vờ vui cười, ca hát, tấu nhạc, nhảy múa. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Điều duy nhất mà bà cần bọn họ giúp, là nói cho bà biết Lã Bất Vi ở đâu, làm gì.

Sau khi Lao Ái bị xé xác không lâu, từng có tin nói rằng Doanh Chính sắp xử tử Lã Bất Vi. Lúc đó bà còn ở cung Đại Trịnh, mặc dù không được tự do ra vào cung, nhưng bà vẫn nhờ người nói với Doanh Chính rằng Lã Bất Vi là người có công to lớn và ơn nghĩa sâu xa đối với cả nhà vua và cả nước Tần. Nhưng đều bị Doanh Chính gạt bỏ hết. Sau khi bị giam ở cung Phụ Dương, một hôm bà bỗng nghe bọn nội thị đi công cán ở ngoài về nói rằng, do sự can gián của cả nước Tần và vua chúa các nước chư hầu, cũng như các sứ thần, các thuyết khách; cho nên vua Tần đã miễn tội chết cho Lã Bất Vi, nhưng không cho ông ấy tham gia chính sự nữa. Điều này khiến thái hậu nhẹ nhõm chút ít, bèn sai bọn nữ tỳ, nội thị nhảy múa, và tự mình ngâm nga một bài tự tình như sau (dịch ý):

Gió đưa lá rụng, báo mùa thu,

Thoi thóp hơi tàn, sông mịt mù.

Xưa chàng thừa tướng, thiếp chánh cung

Ơn nặng tình sâu, chẳng đền bù.

*

* *

Bỗng đâu gió thảm mưa sầu.

Đêm dài vò võ canh thâu chốn này.

Làm con mà tàn nhẫn thay

Số chàng, phận thiếp bấy chàng nhớ thương.

Bọn nữ tỳ và nội thị nghe bà ngâm nga lâm ly thống thiết, đều xúc động rơi nước mắt. Có đứa hỏi bà tại sao chỉ nhớ thương Lã Bất Vi mà không nhắc đến nhà vua. Thái hậu cười đau khổ, bà nói rằng: “Các người chỉ nặng về tình mà nhẹ về lý, ta tuy là mẹ nhà vua, nhưng đã đánh mất cái đức hạnh đàn bà, lại muốn nuôi dưỡng Lao Ái làm loạn, làm cho nhà vua mất thể diện, rồi lại bị uy hiếp. Để củng cố chính quyền, lấy lại uy thế quốc gia, nhà vua đã giết Lao Ái, bãi chức thừa tướng, đó đều là chủ trương cần thiết. Ngay dù lúc thịnh nộ, đánh chết hai đứa con yêu của ta, rồi đưa ta vào lãnh cung, ta hết sức đau khổ, nhưng cũng không dám oán trách nhà vua quá nhiều. Bởi vì ta là một phụ nữ yếu đuối, chỉ biết đòi hỏi tình vợ chồng và con cái, không hiểu được cái lợi cái hại của ảnh hưởng từ nơi màn trướng của hậu cung đối với triều chính, để đến nỗi gây ra họa lớn. Nay thì hối không kịp nữa, chỉ nhẫn nhục xấu hổ, hứng chịu cái khổ mà thôi. Còn tại sao nhớ thương thừa tướng, đó là vì vợ chồng đã hai lần sống với nhau rất hạnh phúc, bây giờ rất khó quên. Hoàn cảnh của ông ấy gian nan nguy hiểm hơn ta nhiều; vả lại, ông ấy bây giờ là người thân duy nhất còn lại của ta! Những sự việc đó, các người đều biết hết cả, ta cũng chẳng giấu giếm gì, nay tâm sự với các người cho khuây khỏa. Ta nghĩ rằng từ nay về sau, chỉ còn Lã thừa tướng là còn có thể đến thăm ta mà thôi. Còn nhà vua, ta không dám, và cũng không tự cho phép mình yêu cầu nhà vua đến thăm ta, một người mẹ đã phụ lòng tiên vương và phụ lòng con ta (Doanh Chính), và gây tai họa cho triều đình. Nếu như sự việc vừa qua của ta không còn gây ra hậu quả gì nữa, thì ta cũng yên phận ở nơi này thôi”.

Không ngờ, mùa hè năm thứ mười niên hiệu Tần Vương Chính, có hai mươi bảy người can gián nhà vua để xin tha cho thái hậu, đã bị nhà vua giết và đem xác phơi trên cỏ gai ở chân tường cung đình. Thái hậu nghe tin này đã khóc liền mấy ngày, hoàn toàn không còn muốn sống nữa, thậm chí muốn sớm chết quách đi cho xong. Một buổi chiều nọ, nắng vàng đã nhạt, gió ấm ngày hè, liễu xanh rủ xuống, chim hót trên cây, cảnh trời êm dịu. Nhưng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, thái hậu chẳng còn thiết gì đến cảnh vật chung quanh, bà cứ nằm thổn thức trên tấm chiếu trúc. Bỗng ở phía ngoài cổng có tiếng ồn ào. rồi có những bước chân đi nhanh vào. Một tiếng hô lớn: “Đại vương giá lâm”. Theo bản năng, thái hậu vội đứng đậy, hai tay khoanh trước ngực, tim đập thình thình. Một thoáng suy nghĩ vụt qua, chắc chắn là hai mươi bảy người ra sức can gián đã làm cho Doanh Chính điên khùng lên, nên quay lại trút cơn giận vào mẹ đây. Hẳn là Doanh Chính lại đến xét tội ta một lần nữa đây. Chắc là sẽ ban cái chết cho mẹ đây, hoặc là một chén rượu độc hoặc một dải lụa bảy thước... Nghĩ đến đây, Triệu Cơ bỗng bình tâm lại. Bà nghĩ rằng thà chết cho thỏa thích còn hơn là kéo dài cuộc sống trong sự giày vò đau khổ, mà lại còn tránh cho nhiều người khác khỏi bị liên lụy, phải bỏ mạng vì mình. Bà buông tay sửa lại mái tóc đang xõa rối trên đầu, vuốt lại quần áo cho đỡ nhăn nheo, chuẩn bị sẵn sàng nhận cái chết. Lúc này, bọn nữ tỳ và nội thị đã chạy đến, chúng đứng vây chung quanh bà, cũng chờ đợi một tai họa đang tới gần.

Lại một tiếng hô nữa vang lên: “Thánh thượng đã tới”. Tám vệ sĩ đi trước, đã bước vào phòng thái hậu, đứng thành hai hàng hai bên. Thái hậu đứng ngây ra mở to mắt nhìn. Bà thấy người đang đến với mình không phải nhà vua oai phong lẫm liệt, ngồi cao ngất ngưởng, mắt trợn mũi phồng, lưng rồng miệng hổ; mà lại là Doanh Chính, con bà, đầu trần, tóc xõa, đi quỳ, cúi mặt, đang khóc sụt sùi. Bà và các nữ tỳ, nội thị vẫn cứ sững sờ, đứng ngây ra, chẳng nói chẳng rằng. Trong giây lát, mọi vật hình như đang ngưng đọng lại, lặng ngắt như tờ.

Doanh Chính đi quỳ đến trước mặt mẹ, ngẩng đầu nhìn lên, kêu lên thương cảm:

- Mẫu hậu, mẹ của con!

- Con Chính, con Chính của mẹ. Sao lại đến nông nỗi này?

Thái hậu thấy con quá khắc khổ, làm cho mọi người thấy vậy đều sinh nghi ngờ, bèn tưởng rằng con bà đã bị ai đánh bại, lật đổ mất rồi; bà bất giác cảm thấy rất thương tâm, vội cúi sấp xuống, hỏi gấp.

- Nhi thần, nhi thần... - Doanh Chính nghẹn ngào không nói nên lời, vì quá xúc động.

Nhưng như vậy lại càng làm cho thái hậu thêm sốt ruột, liền quay sang hỏi bọn cận vệ:

- Đại vương, đại vương... đại vương như thế nào đây?

Lúc ấy, Mao Tiêu đến bên cạnh Doanh Chính, vội đứng nghiêm chắp hai tay, bẩm với thái hậu:

- Đại vương đến đón thái hậu trở về.

- Đến đón ta ư, đón ta trở về ư? - Thái hậu lơ đãng lắc đầu, như tự nói một mình, thật sự chẳng dám tin.

- Đúng thế. Thánh thượng đưa chúng thần đến đón thái hậu về. - Mao Tiêu lại bẩm báo lần nữa.

- Đón ta về ư? - Thái hậu vẫn bán tín bán nghi; vẫn ngần ngại. Bà rụt rè hỏi lại Doanh Chính - Con Chính, quả có việc ấy ư?

- Quả có việc ấy! - Doanh Chính ngẩng đầu nhìn thái hậu rồi trả lời rõ ràng.

- Con đến đón mẹ phải không? - Thái hậu vẫn không dám tin.

- Nhi thần đến nghênh đón mẫu hậu đây! - Doanh Chính khẳng định, thành kính.

- Đón mẹ về đâu?- Thái hậu hỏi.

- Đón mẫu hậu về cung! - Doanh Chính vội trả lời.

Thái hậu đã phần nào tin rồi, nhưng lại lập tức tự nói với mình với vẻ thương cảm:

- Về cung! Về cung ư? Không! Không! Không! Ta không về. Ta không về - Vừa nói vừa định quay lùi ra phía sau.

Doanh Chính vội bước lên, hỏi gấp:

- Về cung, sao lại không về ạ?

- Về cung! Nơi ấy năm nào hai đứa con chết thảm, máu còn dính đầy. Ta còn lòng dạ đâu quay về nhìn cảnh ấy để mà đứt ruột đứt gan? - Thái hậu rất đau đớn và nói tiếp - Thôi thì cứ ở đây, để cho những ngày tàn cuối đời ta cứ cô đơn heo hút ở đây cũng được.

Doanh Chính vội níu lấy tay mẹ nói rất khẩn thiết:

- Không! Không! Không phải về cung Đại Trịnh.

- Không về cung Đại Trịnh thì đi đâu? - Thái hậu lại lo.

- Về Hàm Dương. Về cung Cam Tuyền, nơi mà những năm xưa, mẫu hậu đã ở đó. - Doanh Chính nói rất dịu dàng, thân thiết.

- Mẹ không tin. Con đã từng nói không bao giờ để mẹ về Hàm Dương nữa mà. - Thái hậu vẫn nhớ lại chuyện đau lòng năm trước.

Doanh Chính lại quỳ xuống trước mặt thái hậu, nói rất hối hận:

- Đó là lúc nhi thần quá giận, đã nói lỡ lời, để đến nỗi mẹ phải vào ở lãnh cung, nhẫn nhục oan uổng, đó thật là tội của con. May mà các trung thần can gián, con đã biết là trái với đạo trời, vứt bỏ luân lý. Nay đã truyền chiếu nhận lỗi, sửa lại sai lầm, đưa cả thượng khanh Mao Tiêu đến đây, quỳ lạy xin tha tội. Mong mẫu hậu khoan dung và tha tội bất hiếu của nhi thần. Nay xin đón mẫu hậu trở về cung Cam Tuyền một cách vẻ vang, để cho đứa con xấu xa này được chuộc tội cũ, để mẫu hậu an dưỡng tuổi trời, đặng cho con được trọn một chút nhỏ nhoi của đạo hiếu.

Thái hậu nghiêng mình cảm ơn Mao Tiêu:

- Khanh đã trung thực can gián, ta rất cảm tạ. Nhưng nay ta đã bị phế truất, lòng ta đã nguội lạnh, thân này chẳng màng đến cuộc sống phù hoa nữa.

Mao Tiêu vội khuyên thái hậu:

- Thánh thượng đã tự mình truy cứu và tự trách mình. Thánh thượng đã lấy lại tấm lòng hiếu thảo, đi quỳ để cầu xin thái hậu, thật là chân thành. Thái hậu không nên ngần ngại nữa.

Doanh Chính nước mắt đầm đìa vẫn cầu khẩn thái hậu:

- Nếu mẫu hậu không chịu về cung, thì nhi thần ăn nói như thế nào với các tiên vương ở trên và với thần dân cả nước ở bên dưới. Lẽ nào mẫu hậu lại dồn nhi thần vào chỗ bất hiếu bất nghĩa, để triều đình mất chủ, chính trị đất nước mất cân bằng?

Mao Tiêu, các thị nữ và thị vệ đều đến khuyên thái hậu. Bà cũng thấy Doanh Chính có thái độ thành khẩn, thật sự hối cải bèn dằn lòng cười gượng và nâng con trai đứng dậy. Bà nói:

- Con tôi đã có thành ý như vậy, mẹ sẽ theo con về cung Cam Tuyền.

Doanh Chính vội quỳ xuống, khấu đầu liên tục và nói:

- Đa tạ mẫu hậu đã tha tội bất hiếu cho nhi thần!

Thái hậu lại đỡ con dậy, và chỉ tay vào các nữ tỳ và nội thị đứng bên cạnh, nói một cách thương cảm rằng:

- Những người này đã vất vả nhiều vì mẹ, bị thiệt thòi quá nhiều, nên phong thưởng cho họ.

Doanh Chính vội thưa lại:

- Ta tuyên chỉ: Tất cả những người nào đã hầu hạ mẫu hậu trong thời gian ở cung, nay đều theo giá trở về cung Cam Tuyền. Ai bị thiệt thòi nhiều, sẽ được xem xét phong thưởng.

Mọi người trong cung đồng thanh cảm tạ ân điển của nhà vua.

Tối hôm đó, tại cung Phụ Dương, một đại tiệc được diễn ra trong tiếng nhạc vui mừng, ca múa tưng bừng, nói cười rộn rã. Nhà vua và thái hậu ngồi ở hàng ghế cao nhất; hai bên là các cận thần Mao Tiêu, Triệu Cao và các quan chức địa phương. Chủ khách luôn luôn nâng cốc chúc tụng, mọi người đều mừng cho nhà vua và thái hậu nối lại tình mẫu tử như xưa; ca ngợi lòng khoan dung của thái hậu và sự hiếu thảo của nhà vua. Cuộc vui kéo dài mãi tận khuya mới tan.

Ngày hôm sau, hai chiếc xe rồng chở nhà vua và thái hậu lăn bánh rời cung Phụ Dương. Đội kiêu binh đi trước dẫn đường, ba mươi sáu kỵ binh cận vệ của cung đình và bảy mươi hai bộ binh đi hộ giá hai bên xe rồng; theo sau là hàng chục xe chở hàng trăm người khác gồm các đại thần, tùy tùng, cung phi. nữ tỳ, nội thị. Tất cả tạo thành một đoàn dài, ra đi trong tiếng chào tiễn đưa của dân chúng Ung Thành. Cờ long phượng, quạt chiêu dương tung bay trước gió, long đao trích kiếm sáng loáng dưới ánh nắng mặt trời. Đoàn xe đi đến đâu, dân chúng ùa ra chào đón đến đó. Họ hoan hô nhảy múa chúc mừng mẹ con nhà vua. Nhiều người còn hát những bài dân ca mới sáng tác. Chẳng hạn như (dịch ý):

Nắng thu dìu dịu, chim tung cánh

Gió lướt đồng nội, trời tươi xanh.

Cờ long phượng với quạt chiêu dương

Mẹ con thánh thượng ngồi ngất nghểu

Mây vàng lướt nhẹ phía chân trời

Tần vương đón mẹ về Hàm Dương

Con hiếu mẹ hiền, ân đức nặng

Phúc lộc đại Tần mãi ngàn năm.

Chú thích:

[i] Cung khuyết: Cung là cung đình; khuyết là một loại cổng được xây bên trong khuôn viên cung đình - ND.

[ii] Thân sơ: "thân" là thân thích gần gũi; "sơ" là xa cách, xa - ND.

[iii] Bất nhân: Không có lòng"'nhân". Nhân ở đây là lòng yêu người nhân từ. Nhân là nhân từ, viết khác nhân là người. Trang Tử nói: "Yêu người, làm lợi cho vật gọi là nhân". "Nhân" là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo của Khổng Tử - ND.

[iv] "Trịnh bá khắc Đoàn ư Yên": Anh cả nhà Trịnh đánh bại Thúc Đoàn tại đất Yên. Yên, nay thuộc địa phận tỉnh Hà Nam - ND.

[v] Ngộ Sinh: Ngộ là tỉnh, tỉnh dậy. Nghĩa là đẻ lúc tỉnh dậy.

[vi] Hổ Lao Quan: cửa quan chuồng hổ.

[vii] Các đô thành thời xưa đều xây dựng các bức tường bao quanh. Trên bức tường dài, cách một quãng lại có một đoạn được xây cao lên. Đoạn xây cao lên này, tiếng Hán gọi là "trĩ" dài ba trượng, cao một trượng - ND.