← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MƯỜI BỐN ĐỂ TRỪ HẬU LOẠN, BAN CHẾT BẤT VI-ĐUỔI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI, LÝ TƯ CAN GIÁN-

Năm thứ 10 niên hiệu Tần Vương Chính (năm 237 trước Công nguyên), Lã Bất Vi bị bãi chức thừa tướng và buộc về ở tại đất phong Lạc Dương. Khi chuẩn bị hành lý để rời phủ thừa tướng ở Hàm Dương, Lã Bất Vi mặt mày ủ dột, tâm tư buồn chán, thỉnh thoảng lại đi xem một lượt lần cuối những nơi đã gắn bó với mình suốt nhiều năm qua như phòng khách, nhà sách, phòng ngủ, vườn hoa, sân tập của các ca kỹ, nhà ở của các môn khách và người làm, thậm chí cả nhà bếp, chuồng ngựa. Có khi, ông còn đứng nhìn đăm chiêu rất lâu, tự lẩm bẩm một mình. Hôm lên đường, ông để cho gia quyến, môn khách, ca kỹ và người làm đi trước; bản thân ông chỉ đem theo một số người thân cận như Lã Yên..., ngồi xe ngựa đi một vòng trong nội thành Hàm Dương, ông đến bốn cửa thành để “viếng” nơi mà năm nào ông đã trình bày bộ sách “Lã Thị Xuân Thu” và thưởng “Một chữ nghìn vàng”, tưởng chừng sẽ mở ra kỷ nguyên mới dòng dõi họ Lã, nào ngờ chấm hết buồn thảm bằng “Quan lại chốn kinh kỳ, chẳng thiếu người tài giỏi. Chỉ riêng mình ta thôi, chơi vơi đứng giữa trời”. Ông vĩnh biệt nơi này trong nước mắt. Sau khi đi hết bốn cửa thành, ông mới ra roi quất ngựa ra cửa đông, cố đuổi kịp đoàn xe dài dài đi trước. Khi gặp đoàn xe này, ông mới lên ngựa, từ từ đi về phía Đông. Dọc đường, ông suy nghĩ nhiều về cuộc đời ba chìm bảy nổi của mình. Mấy chục năm qua, ông đã đóng góp không nhỏ cho nước Tần về kinh tế, chính trị, quân sự, công lao hiển hách, bỗng từ cái ngôi báu thừa tướng đại Tần rơi tõm xuống, suýt nữa còn mất mạng, ngay cả cái việc lưu trú tại Hàm Dương cũng không được. Đây thực sự là thất bại thảm hại, hết sức đau lòng. Ông cảm thấy căm giận và bất bình. Ông không thể nào hiểu được tại sao Doanh Chính đối với ông lại chỉ trích ngày càng gay gắt, oán hận ngày càng nặng nề đến mức phải thanh trừng, thậm chí phải “loại trừ mới yên tâm”. Tại sao lại cứ tích tiểu thành đại, cuối cùng coi ông là kẻ thù không đội trời chung?

Đó là căn bệnh chung của tất cả các nhân vật anh hùng, bi kịch của mọi thời đại cổ kim trung ngoại. Họ đều là khi đắc thắng thì kiêu ngạo, hí hửng huênh hoang, tham vọng công danh, lòng tham vô đáy.

Khi mới đến nước Tần, Lã Bất Vi lợi dụng quan hệ đặc biệt với gia đình vương tôn Tử Sở, nên đã bước lên chính trường một cách thuận lợi, chỉ trong mấy năm từ khách khanh nhảy lên thừa tướng. Nắm được quyền rồi thì không muốn nhả ra nữa. Nhân lúc Doanh Chính còn ít tuổi, ông làm nhiếp chính, lại quan hệ tình xưa nghĩa cũ với thái hậu, được thỏa mãn với tên gọi “Trọng phụ”; cho nên, ông ta nhiều khi tỏ ra thiếu tôn trọng đối với Doanh Chính, thậm chí quên hết quan hệ vua tôi, vô tình hay hữu ý tỏ vẻ bề trên. Chẳng những trong những công việc triều chính hàng ngày, mà ngay cả những khi có bất đồng về đường lối, phương kế lớn, ông cũng hiếu thắng, vô lễ, phạm thượng, trái ý nhà vua. Ví dụ khi bàn về việc đãi ngộ các thành viên hoàng gia tại cung Cam Tuyền, ông đề nghị với Doanh Chính:

- Chế độ phong đất bắt đầu từ thời nhà Hạ, nhà Thương; đến thời nhà Chu thì định hình; trải qua Xuân Thu, Chiến Quốc cho đến nay. Các triều đại của nhà Tần ta, mỗi khi có thay đổi triều vua đều có phong đất cho các tôn thất hoàng tộc, ai cũng có đất phong, được tự mình thừa hưởng. Nay bệ hạ lên ngôi, cũng nên phong đất làm yên lòng bậc cha anh, vỗ về lớp cùng trang lứa để tất cả đều hưởng lợi như nhau, cùng vui vẻ cả. Như vậy, thánh thượng sẽ có nền tảng vững chắc, hoàng gia an toàn.

- Trẫm nghĩ rằng cuộc chiến tranh thời Ngũ Bá, chiến loạn Thất Hùng thời Chiến Quốc, đều là do phong đất cho chư hầu, mỗi người cát cứ một phương, rồi đánh chiếm lẫn nhau. Ý kiến của thừa tướng thật không thỏa đáng - Doanh Chính kiên quyết phản đối Lã Bất Vi.

Lã Bất Vi vẫn không chịu thua, ông nói có phần nào cường điệu đe dọa người nghe:

- Nguồn gốc của chiến tranh không phải do phong đất mà là do chính trị. Xưa, vua Ngu nhà Hạ lập đế, chia đất cho con, anh em nhà vua đoàn kết hòa thuận, người nào cũng thực hiện nhân chính, cho nên không có chiến tranh, còn Ngũ Bá thời Xuân Thu và Thất Hùng thời Chiến Quốc là do nước nào cũng quá tham lam, nên nổi dậy đánh nhau liên miên, đất nước không một ngày yên tĩnh. Nay ta đang thay đổi đời vua, nếu không phong đất, thì hoàng gia tôn thấy thất vọng. Nếu họ tập hợp nhau lại, tích oán thành thù, lúc ấy sợ rằng đại vương sẽ trở thành mục tiêu tấn công của họ, và sẽ khó chống cự nổi họ.

Doanh Chính nói nhẹ nhàng:

- Trẫm biết có những hai mươi chú bác, và hàng trăm anh em cùng lứa. Nếu cứ lấy danh nghĩa là hoàng thân quốc thích để ngồi hưởng ơn trạch của tiên vương, thì đại Tần dù có giàu có hơn nữa, ta cũng không chia đất cho họ. Thừa tướng quá câu nệ vào chế độ cổ xưa, không chịu thay đổi. Đó thật là tự mình bày đặt ra để bó chân bó tay mình lại, tự chuốc lấy thất bại.

- Bệ hạ đã tự cho mình là thông minh sáng suốt, sao còn phải hỏi ý kiến nông cạn của người khác? Đáng tiếc cho lão thần từng trải mấy chục năm, nhưng lại không bằng thánh thượng chưa đầy hai mươi, thật xấu hổ lắm thay - Lã Bất Vi bất chợt nói mấy câu châm biếm Doanh Chính, làm bộ ta đây “lớp kẻ cả”.

Nhà vua rất khó chịu, hầu như sắp mắng cho một trận. May mà thái hậu hết sức hòa giải. Bà nhấn mạnh với con rằng nên tuân theo lời dạy của tiên vương, tôn trọng ý kiến Trọng phụ. Vì vậy sự bất đồng giữa hai người mới dịu đi. Vua Doanh Chính kiên quyết thi hành chính sách ban bổng lộc cho tôn thất hoàng gia, nhất thiết không phong đất cho họ. Điều này khiến khá nhiều người trong tầng lớp cha chú và cùng trang lứa bất bình. Lã Bất Vi đã không giải thích chính sách đó, lại còn kiểu dội nước lạnh như “họ Lã tôi nhận trọng trách của tiên vương giao cho, giữ chức thừa tướng, nhưng không bằng ý kiến của nhà vua mới, thật xấu hổ với tôn thất đại Tần”. Nói như vậy, có ảnh hưởng rất tiêu cực. Doanh Chính cho rằng Lã Bất Vi đã gây trở ngại cho việc thực hiện các biện pháp cải cách, là đối lập với mình. Vì vậy, ác cảm và sự đề phòng của ngài đối với Lã Bất Vi ngày càng tăng lên.

Về mặt kinh tế, Doanh Chính và Lã Bất Vi cũng có nhiều bất đồng lớn. Hai người từng đấu tranh với nhau, không ai nhường ai. Sở dĩ Lã Bất Vi không tiếc gia sản của mình, đem hết của cải tiền bạc ra, thậm chí liều cả tính mạng, để đầu tư vào Tử Sở, dựa vào đó để đến nước Tần, một mảnh đất tám trăm dặm tươi tốt phì nhiêu và nước giàu dân mạnh. Đó là mục tiêu kinh tế của Lã Bất Vi. Ông mạnh dạn phá bỏ ràng buộc của phương thức sản xuất nô lệ lạc hậu, nghèo nàn, tiến hành cải cách về nhiều mặt. Bản thân ông đã khuyến khích các thương nhân khác mua ruộng đất, cho nông dân cày thuê. Do đó, đã giải phóng được sức sản xuất, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Ông ra sức đẩy mạnh ngành khai khoáng, luyện gang, làm muối; làm cho các nguồn tài nguyên được tận dụng. Ông khuyến khích thương nghiệp, mở rộng giao lưu vật tư, phồn vinh thị trường, thu thuế quan... Những chủ trương này đã phát triển sức sản xuất kinh tế, làm cho nước Tần thêm hùng mạnh, nhân dân an cư lạc nghiệp, đất nước ngày càng đổi mới, phồn vinh.

Những thành công rất lớn đó của Lã Bất Vi được toàn thiên hạ công nhận, ai ai cũng ca ngợi. Nhà vua Doanh Chính đã có những bước tiến mới hơn, ngài chủ trương đưa ngành kinh tế then chốt vào trong tay Nhà nước, như quốc hữu hóa các ngành khai khoáng, ngành muối, sắt gang; hạn chế số lượng ruộng đất và khoáng sản của tư nhân mua. Tá điền cày thuê ruộng đất, sản xuất phát triển sau một số năm sẽ được quyền sở hữu số ruộng đất cày thuê đó, trở thành nông dân “tự canh”. Trừng trị buôn gian bán lậu và hối lộ, thực hiện chế độ thuế chặt chẽ... Những biện pháp đó có tác dụng hạn chế các địa chủ và chủ mỏ mới, để tầng lớp này không lũng đoạn quá mức và xâm phạm lợi ích quốc gia. Nhưng các chủ trương này gây nên sự bất mãn của địa chủ mới, chủ mỏ và thương nhân, thậm chí họ đã có những hành động chống đối triều đình. Những người này coi Lã Bất Vi là chỗ dựa và là người phát ngôn cho họ. Họ nêu ra khắp nơi những luận điệu bất mãn với triều đình. Từ đó hình thành một lực lượng chính trị phản đối Doanh Chính. Đó cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho Doanh Chính và Lã Bất Vi không thể thỏa hiệp với nhau, cuối cùng đi đến chia rẽ, đối kháng, đấu tranh ngày càng kịch liệt, một mất một còn.

Hai người ngày càng xa lánh và mâu thuẫn nhau, cho nên Doanh Chính cũng ngày càng cảnh giác và nhạy cảm với mọi lời nói, cử chỉ và công việc có liên quan đến Lã Bất Vi. Một hôm không lâu sau khi dẹp yên bọn nổi loạn Lao Ái, Doanh Chính đang ngồi duyệt tấu chương trong phòng ngủ, bỗng thấy đại hoàng môn Triệu Cao đưa Tả thừa tướng Xương Bình Quân vội vàng đi vào, chưa kịp quỳ xuống đã hấp tấp bẩm báo:

- Hạ thần có việc khẩn cần tấu trình thánh thượng.

Nhà vua đưa tay gạt đống tấu chương sang một bên, rồi hỏi:

- Khanh có việc gì khẩn mà trông bộ dạng kinh hoàng như vậy?

Xương Bình Quân vừa thở vừa nói:

- Khi hạ thần phụng chỉ phá hủy phủ đệ của Lao Ái, thấy có hai hầm lớn như thế này, chứa đầy tiền vàng và vũ khí.

Nhà vua nghiêm sắc mặt nói:

- Rõ ràng là bọn phản tặc đã mưu tính từ lâu.

- Hạ thần đang chuẩn bị giao vàng và tiền cho đình úy Lý Tư đếm lại và nhập kho; đồng thời làm sổ sách để lưu giữ. Nhưng việc xử lý số vũ khí đó như thế nào, hạ thần không dám tự tiện, nay đến đây…

- Vụ này giao Lý Tư chủ trì lập hồ sơ và xử lý. Số vũ khí cũng giao cho ông ta kiểm tra và nghiệm thu là được; hà tất phải hỏi trẫm - Nhà vua cho rằng Xương Bình Quân việc bé xé ra to.

- Nhưng số vũ khí này rất đặc biệt, rất quan trọng, đình úy Lý Tư nhờ hạ thần mang lại đây mấy cái để trình lên bệ hạ xem - Xương Bình Quân nói xong, liền chạy gấp ra ngoài cửa bảo mấy người lính mang mấy mũi giáo, đầu kích, đưa cho Triệu Cao đặt lên bàn nhà vua.

Doanh Chính cầm lấy xem, thấy dòng chữ: “Giáo của Lã Bất Vi, kích của Lã Bất Vi...”. Ngài bất giác giật nảy mình, vội hỏi:

- Số vũ khí này, có bao nhiêu?

- Đã đếm tại hiện trường, có tất cả một vạn chiếc. - Xương Bình Quân trả lời.

- Trẫm đã nói rồi, Lã Bất Vi phải là đồng đảng với Lao Ái. Nay xem ra là đúng như thế - Doanh Chính nói xong, bèn bảo đại hoàng môn Triệu Cao gọi đình úy Lý Tư đến. Lý Tư vừa đến, ngài hỏi ngay:

- Trong hầm có hàng nghìn mũi giáo, đầu kích, Lã Bất Vi và Lao Ái cùng âm mưu làm phản. Có thể định tội được rồi đấy!

Lý Tư trả lời rất trịnh trọng:

- Xin tha tội chết cho hạ thần được nói, số mũi giáo và đầu kích này tuy khắc chữ Lãà Bất Vi sản xuất, có nghĩa là đều được làm ra từ thời họ Lã giữ chức thừa tướng. Quân đội ta cũng đã sử dụng. Hơn nữa, những ai làm thừa tướng, khi đang nhậm chức và đôn đốc việc sản xuất vũ khí để cung cấp cho quân đội, đều có khắc tên mình trên mũi giáo và đầu kích; từ Thương Ưởng cho đến Trương Nghi, Phạm Thư, Ngụy Nhiễm đều làm thế. Tên của họ Lã cũng vậy. Theo suy nghĩ của hạ thần, nếu chỉ dựa vào những hiện vật này thì chưa thể định tội cho họ Lã là phản tặc.

- Ôi! Nhà ngươi vốn là môn khách của họ Lã định bao che cho y, để y được miễn tội phải không? - Nhà vua đập bàn tức giận.

- Hạ thần không dám. Nhưng dựa theo tất cả các lời khai của bọn phản tặc, thì Lao Ái và đồng bọn đã nói hết tất cả, không dám giấu giếm điều gì, cốt để được tha tội chết. Nếu họ Lã là đồng mưu, thì chúng đã khai ra rồi. Nhưng Lao Ái và những tên đầu sỏ của chúng, không đứa nào nói đến họ Lã, cho thấy họ Lã chưa tham gia vào nhóm của bọn chúng. Đó là tình và lý mà hạ thần kính mong thánh thượng minh xét.

Rất may là Lý Tư phân tích có tình có lý, nên Lã Bất. Vi chưa bị coi là phản trắc và được tha tội chết. Nhưng thái độ hết sức tức giận của nhà vua khi ngài xem xét việc cất giấu vũ khí nói trên, thậm chí ngài đã vội đưa Lã Bất Vi đến chỗ chết, chỉ có vậy ngài mới yên tâm; tình hình đó cho thấy, trong con mắt của vua Doanh Chính, Lã Bất Vi bị coi là một nhân vật nguy hiểm từ lâu đã có dã tâm và chuẩn bị lực lượng, chờ có thời cơ là khởi sự.

Xem xét các quan hệ khác, Lã Bất Vi đã tư thông nhiều năm với thái hậu, và suýt nữa thì bị bắt quả tang. Tệ hại hơn là hối lộ thầy y thuật để giả hoạn và đưa “hoạn quan giả” vào cung, hiến Lao Ái cho thái hậu, gây dâm loạn ở nơi đông cung; rồi Lao Ái lại quấy rối ở Hàm Dương, mưu đoạt chính quyền. Chỉ chừng ấy chuyện thôi, cũng đủ tội chết rồi. Nay được bảo toàn tính mạng, cả nhà về đất phong Lạc Dương, an dưỡng nơi điền viên sông suối, ngồi hưởng phúc lộc phú quý của mười vạn hộ. Đó là may mắn lắm và nên yên phận được rồi.

Mấy tháng đầu sau khi về Lạc Dương, Lã Bất Vi cũng tập trung vào việc kinh doanh và phát triển kinh tế, lĩnh vực chủ yếu của mình; tiếp tục thực hiện chủ trương của một đại địa chủ có ruộng đất phát canh thu tô, phát triển nông nghiệp. Ông còn là một chủ mỏ muối và sắt, phát triển nghề rèn đúc. Về mặt buôn bán, ông là đại thương nhân, làm chúa tể trên thị trường, thúc đẩy việc giao lưu sản phẩm, nâng cao và làm phong phú đời sống nhân dân. Do vậy, nhân tài các nơi lại bị thu hút về Hà Nam (Lạc Dương). Nhất là các nước chư hầu đều đua nhau cử sứ thần đến yết kiến ông, vẫn gọi ông là “thừa tướng”, là Văn tín hầu, còn chúc Tết và chúc thọ ông.

Lạc Dương là nơi “địa lợi”, vì đây là con đường quan trọng mà các nước muốn đến nước Tần đều phải đi qua. Đến nỗi, sứ giả các nước, cũng như con tin, người đi du học, đi xin việc (xin chức), đi buôn, đều muốn đi qua và tạm trú tại Hàm Dương, để thông qua Lã Bất Vi tìm hiểu tình hình nước Tần và các chính sách hữu quan. Khi trở về, họ lại ghé qua Lạc Dương và kể cho Lã Bất Vi biết tình hình mới nhất ở Hàm Dương và hỏi ý kiến ông. Đặc biệt, các nước Triệu, Tề, Hàn đều nói rõ rằng họ sẵn sàng đón ông về nước họ làm thừa tướng, chủ trì các việc đại sự của nhà nước quân sự.

Do vậy, Lạc Dương trở thành một trung tâm mới về chính trị, kinh tế, văn hóa. Và Lã Bất Vi không thể yên phận với tư cách một đại thương gia, một điền chủ lớn nữa. Trong con người ông lại nhen nhúm dã tâm chính trị mới, lại tham vọng đứng đầu chính trường, khuynh đảo triều đình, lấy lại chức thừa tướng. Ông lợi dụng những người thân do ông giúp đỡ và cất nhắc vào các chức quan của triều đình, cũng như các sứ thần và học giả các nước có quan hệ giao hữu với ông, để gửi các bản tấu chương hoặc thư từ cho nhà vua Doanh Chính. Thậm chí, có lúc đích thân ông đưa tấu chương và thư cho đại hoàng môn Triệu Cao và những thị vệ chịu trách nhiệm truyền đạt lệnh vua. Để làm công việc này, ông đã không tiếc của, mua cho được các “vé vào cửa”. Đến mức, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có đến hơn bảy trăm thư và bản tấu ca ngợi công đức của Lã Bất Vi và kêu gọi để ông trở lại làm việc.

Làn sóng dư luận lớn mạnh đó không những không thuyết phục được nhà vua Doanh Chính; ngược lại, nó làm cho ngài cảnh giác và canh chừng nhiều hơn. Ngài thấy rằng Lã Bất Vi đã bị bãi chức, bị đuổi khỏi Hàm Dương, nhưng ảnh hưởng của ông ta còn rất lớn. Ông ta vẫn là “con rắn hai đầu”, “đánh chết, cái nết chẳng chừa”. Con rắn ấy đang trỗi dậy ở miếng đất màu mỡ Lạc Dương, đang lăm le quay lại Hàm Dương, quay lại phản công điện Kim Loan của ngài. Để chứng thực nhận xét trên của mình, Doanh Chính sai tướng Mông Vũ và Vương Tiễn cho mật thám luồn sâu vào Lạc Dương, xem xét động tĩnh. Những người này nhanh chóng hồi âm như sau: “Lã Bất Vi ở Lạc Dương có quan hệ rất chặt chẽ với các sứ thần và học sĩ các nước chư hầu, cũng như với các khách khanh, thương gia của nước Tần. Khi gặp nhau, lạm bàn triều chính, nói bừa rằng họ Lã sẽ trở lại triều đình chủ trì triều chính”. Doanh Chính giận dữ nói một mình:

- Trước đây ta thấy y có công lớn nên miễn tội chết. Không ngờ lại thả hổ về rừng, để lại hậu hoạ. - Nghĩ vậy, ngài bèn gọi Xương Bình Quân, Mông Vũ, Lý Tư, Diêu Giá đến bàn gấp kế sách đối phó với Lã Bất Vi. Xương Bình Quân nhắc lại nội dung cuộc tiếp xúc gián tiếp bí mật giữa Lao Ái và Lã Bất Vi, do Lao Ái khai.

Doanh Chính cho cận vệ giải Tư Không Mã, người giúp việc văn thư của Lã Bất Vi đến và ngài tự minh hỏi Tư Không Mã:

- Nói ngay đầu đuôi việc Lã Bất Vi sai nhà ngươi tiếp xúc bí mật với Lao Ái?

- Lã thừa tướng tự biết mình có quyền lớn, tất sẽ bị bệ hạ nghi ngờ. Lại biết Lao Ái phản trắc tư thông với thái hậu và có con, đoán biết người này sớm muộn cũng làm phản, nên sai hạ thần gặp kín Lao Ái, thăm dò thực hư thế nào - Tư Không Mã trả lời.

Nhà vua hỏi gấp:

- Nhà ngươi thăm dò thấy thực hư thế nào?

Tư Không Mã suy nghĩ giây lát rồi nói:

- Hạ thần trả lời Là thừa tướng: “Lao Ái có ý làm phản”, nhưng không biết thừa tướng giúp ai, nên cứ chần chừ.

- Lã Bất Vi nói với nhà ngươi như thế nào? - Nhà vua nghe vậy hỏi tiếp.

- Lã thừa tướng ghé vào tai hạ thần nói ba chữ: Buộc nó phản. Thế là hạ thần gặp Lao Ái, nói rằng thừa tướng có quá trình và công lao hơn ngài, lại bị vua đề phòng từ lâu, nên không dám làm bừa. Nay đại vương lo nhất là Trường tín hầu [i]. Lao Ái nghe nói vậy, bèn vội gây sự. - Tư Không Mã khai ra “sự thật ba chữ” mà Lã Bất Vi đã nói với ông ta.

- Buộc nó phản! Buộc nó phản là như thế đấy - Nhà vua đập bàn đứng dậy, nói rất giận dữ: - Dùng ba chữ để bí mật xúi giục Lao Ái làm phản, ngồi xem thành bại, để ngư ông đắc lợi. Bụng dạ họ Lã thật khó lường. Sự việc đã rõ như ban ngày.

Nói xong, ngài quay sang hỏi Xương Bình Quân và Lý Tư:

- Lời nói và việc làm của họ Lã như vậy, sao không kịp thời bẩm báo cho trẫm, để mãi đến hôm nay?

Lý Tư vội biện bạch:

- Lã thừa tướng tuy có nói vậy, rõ ràng là sợ Đại vương nên mới dung túng Lao Ái, nhưng không tham gia vào nổi loạn, sao có thể định tội chết. Huống chi, nay bệ hạ đang lên cơn thịnh nộ, biết được chuyện này, chắc sẽ chém họ Lã; như vậy sẽ liên quan rất nhiều gia tộc và môn khách của họ Lã rất đông, sẽ làm chấn động trong triều và ngoài thiên hạ, sẽ không có lợi cho triều đình.

Xương Bình Quân cũng nói thêm:

- Những suy nghĩ của chúng thần đều là nhằm củng cố quyền lực của đại vương, an ninh của xã tắc, một lòng vì nước, tuyệt đối không ăn ở hai lòng, xin đại vương minh xét.

- Nói như các khanh, là có ý tốt - Nhà vua không trách họ nữa, nhưng lại càng phẫn nộ đối với hành động của Lã Bất Vi. Ngài nói với các đại thần: - Năm trước ta thấy y có công lớn, và lại thể tình nhiều mặt, nên đã miễn tội chết cho y, để thể hiện sự khoan dung. Ai ngờ dã tâm phản tặc của y không giảm, mà vẫn muốn trỗi dậy, hòng sống lại trên đống tro tàn. Y không chịu sửa chữa lỗi lầm, sao có thể tha thứ được - Nói xong ngài bèn tự tay viết một bức thư giao cho Mông Vũ, rồi nói: - Đi nhanh đến Lạc Dương, đưa thư này cho y, sẽ biết rõ.

Đồng thời, ngài còn viết một bản chiếu lệnh, trong đó nói rõ cách giải quyết số người và tài sản có liên quan đến Lã Bất Vi và giao cho Mông Vũ chiếu theo luật để chấp hành.

Trong một buổi chiều tà mùa xuân, trời se lạnh, Lã Bất Vi ngồi trong phòng sách đang đọc các thư từ trong nước và nước ngoài gửi đến. Trong đó, có thư hỏi thăm và chúc sức khỏe. Có thư gửi lời chào và mong muốn ông ta ra hoạt động lại. Cũng có thư mời ông ta đến nước họ làm thừa tướng để “cùng thực hiện quyết chí diệt Tần”... Những thư từ như vậy cứ làm cho ông ta trông trước ngó sau, đứng núi này trông núi nọ, chẳng biết làm thế nào cho phải. Ông bèn đẩy đống thư từ sang một bên, đưa mắt nhìn ra phía ngoài cửa sổ. Ông chỉ nhìn thấy những bóng liễu dưới thềm đã phủ màu xanh, hoa đào hoa hạnh đã bắt đầu nở khá nhiều, cho thấy mùa xuân đã về. Nhưng chỉ cảm thấy bản thân mình giống y như thân cây lê già kia, nó đã khô héo trơ trụi vì gió mưa, phong ba bão táp mấy hôm nay đã tới tấp quật hết hoa lá của nó rơi đầy mặt đất, cống rãnh và bùn lầy. Những cành khô của nó đang phấp phới nghiêng ngả kiệt sức trước gió. Nhưng ông nghĩ tại. sao lại tự ví mình như là “ngóng trông hoàng hôn, mưa dập hoa lê? lại...?” Tại sao không mở toang cửa, xông ra bên ngoài, giống như hoa đào, dám trải gió mưa, tranh nhau nở rộ?... Đang suy nghĩ miên man thì bỗng thấy lão quản gia Lã Yên đến báo tin:

- Tướng Mông Vũ đến.

Ông vội đến tiền sảnh để đón khách. Hai bên chào nhau rồi ngồi xuống. Ông hỏi khách:

- Tướng quân bận nhiều công việc. Hôm nay đi qua đây hay là...?

Mông Vũ trả lời:

- Hôm nay phụng chỉ tới đây.

Lã Bất Vi vội đứng dậy nói:

- Sao tướng quân không nói sớm hơn, để ta bày hương án tiếp chỉ.

- Không cần, không cần! - Mông Vũ vội ngăn lại, và nói - Bệ hạ không ban chỉ, mà đích thân viết thư này, Lã hầu xem thì biết.

Lã Bất Vi cung kính nhận bức thư theo đúng nghi lễ vua tôi và nói:

- Tạ ơn bệ hạ ban thư - Sau đó, ông đọc những dòng chữ của nhà vua mà ông thấy rất quen thuộc: “Ngươi có công gì với Tần? Tần phong ngươi đất Hà Nam ăn mười vạn hộ. Ngươi bà con gì với Tần, mà gọi là Trọng phụ. Bản thân và gia quyến đày đến đất Thục”.

Sau khi xem xong thư, Lã Bất Vi nói với Mông Vũ:

- Xin cho ta suy nghĩ giây lát.

Nói xong bèn quay về phòng sách, ngồi im lặng, xem đi xem lại bức thư, suy đi tính lại. Ông nghĩ rằng, chính Doanh Chính thừa nhận Lã Bất Vi này có công, thừa nhận quan hệ cha con giữa hai người, nhưng lại tuyệt đối không dám công khai công nhận điều đó, vì như vậy sẽ hủy hoại bản thân Doanh Chính, hủy hoại cái ngôi quân chủ đại Tần đang rất muốn chinh phục sáu nước thống nhất thiên hạ, rồi lại căm giận ta tồn tại trên đời này, nên mới vặn hỏi ta “có công gì... và có bà con gì...” để dồn ta vào bước đường cùng. Nay thì ta không còn cơ hội và năng lực để phản kháng nữa, nếu đi đày ở đất Thục, để cả nhà bị liên luỵ chịu nhục; bản thân đã bất lực, không thể xoay chuyển gì được thời thế nữa; vậy thì còn phải khổ sở lưu luyến gì cuộc sống bi thảm này nữa? Điều đáng tiếc duy nhất là chưa, cũng không dám, “ba mặt một lời” nói cho nhà ngươi “Doanh Chính” biết rằng ta và Triệu Cơ là cha mẹ đẻ của ngươi. Nghĩ đến đây, ông bất giác rơi nước mắt. Ông bình tĩnh lấy một chai rượu có chất độc ở sâu trong tủ sách rót đầy một chén, cầm lấy chén rượu và bước từ từ đến bên cửa sổ, ngước nhìn hoa lê và những hạt mưa xuân đang rơi liên tục ngoài trời. Ông đưa chén rượu lên môi, rướn cổ rớm lệ, uống một hơi hết sạch.

Hôm ấy là vào tháng hai năm thứ 12 niên hiệu Tần Doanh Chính (năm 235 trước Công nguyên), hai mươi lăm năm sau khi Lã Bất Vi phát hiện ra món “hàng lạ” ở Hàm Đan, kinh đô nước Triệu. Với quá trình trải nghiệm đầy huyền thoại của mình, với tài năng xuất chúng về kinh tế và chính trị, Lã Bất Vi đã viết nên những chương mới quan trọng trong lịch sử tiên Tần cuối thời kỳ Chiến Quốc. Điều đặc biệt hấp dẫn và làm cho mọi người phải suy nghĩ sâu sắc là cái kết cục đáng buồn của ông và việc ông đã sinh ra, nuôi dưỡng và đào tạo.nhân vật lịch sử vĩ đại (khoáng cổ tuyệt kim) [ii] được toàn thiên hạ ca tụng, ngưỡng mộ, nhưng ai cũng kính sợ và nguyền rủa. Đó là Tần Thủy Hoàng [iii].

Sau khi Lã Bất Vi chết, toàn bộ gia tộc của ông bị liệt vào hạng “hộ tôi tớ”, sung công toàn bộ tài sản. Hơn ba nghìn người có liên quan với nhà họ Lã gồm môn khách, gia nô, thê thiếp, ca kỹ, thì được phân biệt mức độ thân sơ, chủ yếu hay thứ yếu để hoặc là đưa đi lao động nặng nhọc có quản chế, ở Phòng Lăng miền Hán Trung. Hoặc là đưa về các quận huyện làm tôi tớ.

Trong đó có hơn một nghìn người gồm gia quyến, đầy tớ gái, phụ nữ làm thuê, ca kỹ, bị đưa đến Hàm Dương, cho vào các cung làm nô tỳ. Một gia đình khanh tướng hiển hách vinh quang, đã bị hủy hoại sạch sành sanh như vậy đó!

Đối với Tần Doanh Chính, cái chết của Lã Bất Vi cố nhiên là loại trừ được một tai họa tiềm ẩn. Nhưng cũng do đó mà có phản ứng dây chuyền, những vấn đề được nẩy sinh từ đó khiến Doanh Chính lại đứng trước những khó khăn mới.

Điều này trước hết là mười hai năm trước, khi Doanh Chính mới lên ngôi, một người tên là Trịnh Quốc đến nước Tần đào kênh xây đập làm thủy lợi. Sự việc này như sau: Nước Hàn ở cạnh nước Tần, nhưng kinh tế lạc hậu, lãnh thổ nhỏ hẹp, lực lượng yếu kém, luôn luôn bị nước Tần ức hiếp. Khi nước Tần đi đánh ở xa đều đi qua nước Hàn; đi đi lại lại vừa gây phiền nhiễu, lại còn chiếm cả đất đai của Hàn nữa. Hàn cảm thấy thật sự nhục nhã, đau khổ. Về sau, vua Hàn nghe “mưu kế suy yếu Tần” của một vị đại thần, cử Trịnh Quốc, là người tinh thông công trình thủy lợi, sang Tần du thuyết, khuyên Tần đào một con kênh dài hơn ba trăm dặm, bắt đầu từ Vân Dương đất Ung đến Hồ Khẩu ở Trung Sơn. Toàn bộ con kênh đều xuyên qua đá và tựa vào vách núi, dùng để tưới nước cho mấy triệu mẫu (một mẫu Trung Quốc bằng 1/16 hecta), ruộng đất ở dọc hai bên. Lúc ấy Doanh Chính còn nhỏ, phải hỏi ý kiến “trọng phụ” vì cho rằng như vậy có thể làm cho đất đai của Tần tươi tốt, nhà vua bèn chấp nhận kiến nghị của Trịnh Quốc. Để làm việc này, nhà Tần phải bỏ ra rất nhiều nhân lực, vật lực, tài lực, đến nỗi “quốc khố” (kho tàng nhà nước) cạn kiệt; vét sạch nhân lực không còn người đăng lính, kế hoạch chinh phục các nước phía đông không thể thực hiện được. Sau này nghĩ lại, mới biết được mưu kế của Trịnh Quốc sở dĩ được thực thi thành công là vì Trịnh Quốc với Lã Bất Vi là đồng hương. Hơn nữa, việc đào con kênh này, người được lợi lớn nhất, nhiều nhất là tập đoàn đại địa chủ, đại thương nhân do Lã Bất Vi đứng đầu. Bởi vì phần lớn ruộng đất được tưới nước đều là của tập đoàn này. Điều làm cho Doanh Chính phải giật mình kinh ngạc là trong số ba nghìn môn khách của Lã Bất Vi, và trong các cơ quan của triều đình, có rất nhiều người thuộc quốc tịch nước khác, có người còn đang làm việc tại những bộ phận cơ mật. Trước đây, khi Lã Bất Vi còn làm việc bình thường, quan hệ đôi bên vẫn bình yên vô sự, thì những người ấy chẳng có gì đáng quản ngại. Nay tình hình đã khác hẳn, lúc bình thường, khi các hoàng thân quốc thích và các lão thần, do không được thỏa mãn lợi ích của mình nên sinh ra bất mãn với nhà vua, nhưng chỉ tức giận chứ không dám lên tiếng. Nhà vua cho rằng hiện tượng bất bình đó, là kết quả của mưu đồ “coi khách là chủ” của Lã Bất Vi, một chính khách có quốc tịch nước ngoài. Vì vậy, lòng căm giận của họ đối với Lã Bất Vi rất sâu sắc, nặng nề. Nay Lã Bất Vi đã chết, những hoàng thân quốc thích và lão thần bất mãn sẽ cảm thấy vui sướng, và họ sẽ có những hành động bài ngoại quyết liệt.

Khi nhà vua đang ngập đầu vào những công việc xử lý hậu quả việc trừng trị Lã Bất Vi, thì ông chú Tử Khang đưa mấy thành viên hoàng gia và lão thần đến bẩm báo:

- Con kênh do Trịnh Quốc phụ trách, đất đai được tưới nước đều của các địa chủ và tập đoàn thương nhân tài phiệt của Lã Bất Vi, chúng đã làm hao tổn nhân tài vật lực nước ta, làm cho kế hoạch chinh phục miền Đông của chúng ta không thực hiện được. Trong khi đó họ Lã và các tập đoàn của chúng hưởng lợi kếch xù, làm cho nước Tần suy yếu, nước khác mạnh lên! Lã Bất Vi vốn là người nước Hàn, trương lá cờ buôn bán làm ăn, nhưng mục tiêu chính là tiếm đoạt chính quyền, cũng đều là gian tặc cùng một giuộc với Trịnh Quốc, đều là nguy hại cho nước đại Tần ta, thật đáng chết ngàn lần chứ không thể tha.

Nhà vua chau mày hỏi:

- Lúc đầu chỉ mong việc xây dựng thủy lợi để mang lại lợi ích cho các nông gia, chứ không nghĩ tới kẻ thực lợi là ai.

Tử Khang nói:

- Xem trên bản đồ, thì hệ thống kênh đó đang tưới cho ruộng đồng nước ta. Nhưng không biết rằng hàng triệu mẫu đất tốt tưới ấy đã được các tập đoàn của Lã Bất Vi mua rồi, tiếng là đất của Tần, thực là tài sản của họ Lã nước Hàn.

Nhà vua rất đau lòng, nói:

- Lã thị ăn đầu ăn đuôi, vừa ăn cướp vừa la làng, không ngờ y lại gian giảo đến thế.

- Có người nhắc nhở rằng, người khuyên nên đào kênh, lại không phải là của các nước lớn như Triệu, Ngụy, mà là người của Hàn, một nước sức yếu dân nghèo. Vả lại, họ Trịnh và họ Lã lại là người Hàn, nên “trong đánh ra ngoài đánh vào”, hai người phối hợp với nhau, huyền hoặc bệ hạ vừa có nước tưới cho đất tốt, được mùa thu lợi; vừa gây hao người tốn của cho nước ta, làm cạn kiệt nguồn nhân lực quân đội đại Tần. Bọn này chỉ là “miệng nam mô, bụng bồ dao găm”, một mũi tên nhằm hai đích. Không ai ghê gớm như chúng - Một lão thần tóc bạc phơ vạch trần mối quan hệ bất bình thường giữa Lã Bất Vi và Trịnh Quốc.

- Lã Bất Vi bán hết gia sản, cố gắng vươn lên trong mấy chục năm, leo lên ngôi báu thừa tướng, cũng không dễ dàng. Vậy tại sao không hề quý trọng những ân huệ của nhà Tần, mà lại dấn thân vào làm lợi cho nước Hàn bé tý tẹo kia? - Nhà vua vẫn chưa hoàn toàn tin vào những lời giải thích ở trên.

- Bọn gian tặc không đứa nào không tìm mọi cách để giấu kín mưu mô của chúng, khẩu Phật tâm xà, cốt để đạt được mục tiêu đen tối của mình. Cho nên, đừng nói chi bỏ ra hàng nghìn hàng triệu tiền của, lăn lộn cả chục năm, mà ngay cả tính mạng, chúng cũng dám không tiếc - Những lời của Tử Khang rất có tác đụng xúi giục..

- Vậy thì việc của nhà họ Lã không thể coi thường. - Nhà vua nghe Tử Khang nói vậy, cảm thấy tình hình thật sự nghiêm trọng. Ngài hơi lo.

Một ông chú khác thấy nhà vua lo nghĩ bèn đổ thêm dầu vào lửa:

- Nếu chỉ có một mình Lã Bất Vi thì còn dễ. Đằng này, các nhân vật quốc tịch nước khác có mặt nhan nhản trong số các công khanh ở triều đình, quan văn thì làm trong các nha phủ, quan võ thì ở trong quân đội, đâu đâu cũng có; hễ có ai cần đến là được dùng làm phò tá. Một khi có biến động, thế lực ấy rất đáng sợ. Hạ thần mỗi khi nghĩ đến tình hình này, đều cảm thấy như có nguy cơ đang tiềm ẩn khắp nơi. Thế lực này rất có thể “hễ phát là động” và nhanh chóng lật đổ triều đình.

- Sao trẫm lại sơ hở đến thế cơ chứ? Ý kiến của vương thúc và các khanh đã thức tỉnh trẫm, gỡ cái rối và bế tắc cho trẫm. Trẫm phải có biện pháp quyết đoán để loại trừ bọn này!

Nhà vua tiếp thu ý kiến của Tử Khang và các lão thần; ngài viết một bản chiếu thư trục xuất các khách khanh [iv] và các nhân viên quốc tịch khác. Đại ý chiếu thư nói rằng, lập tức đình chỉ việc đào kênh của Trịnh Quốc, xét xử tội trạng của Trịnh Quốc. Chuyển nhân tài vật lực sang quân sự, tăng cường lực lượng vũ trang. Tất cả các “khách khanh” nước ngoài đều phải trục xuất ra khỏi nước Tần, tịch thu và sung công toàn bộ tài sản của đại địa chủ và đại thương nhân thuộc quốc tịch nước ngoài, hạn định thời gian buộc nước người này phải đi khỏi nước Tần.

Điều quan trọng trong sự kiện này là “khách khanh”, Lý Tư cũng phải bị trục xuất, toàn bộ nghiệp vụ tình báo và tư pháp do ông nắm giữ phải giao ngay cho “xa phủ lệnh” Triệu Cao, để hạn trong vòng ba ngày phải đi khỏi nước Tần.

Từ xưa đến nay, việc chấp hành chính sách của nước Tần là hết sức chóng vánh và triệt để; huống chi lần này, việc trục xuất khách khanh rất đáp ứng tư tưởng bài ngoại của những người trong tôn thất hoàng gia và các lão thần, làm cho họ rất mãn nguyện, thở phào nhẹ nhõm. Vì vậy, họ hăng hái xung phong tham gia vào cuộc vận động trục xuất người nước ngoài, trái hẳn với thái độ xa lánh triều đình và tiêu cực dây dưa trước đây của họ. Nhờ vậy, chỉ trong vài ngày, tất cả những người nước ngoài trong chính quyền, quân đội và thương mại, đều bị đuổi khỏi Hàm Dương. Những người này ra đi trong tâm trạng hoang mang cực độ vì sự việc quá đột ngột, phải vội vàng lên đường, lại còn phải đưa cả gia đình đi theo, hết sức lôi thôi lếch thếch, nhếch nhác vô cùng.

Lý Tư vốn là môn khách của Lã Bất Vi lại nắm việc tư pháp và tình báo, cho nên tỏ ra rất thận trọng trong việc thẩm vấn và xử lý vụ án Lao Ái và Lã Bất Vi, nhất là việc xử lý những vụ việc phát sinh sau khi trừng phạt Lã Bất Vi. Khi các sự việc kia tạm thời kết thúc, Lý Tư mới thở phào nhẹ nhõm. chuẩn bị nghỉ ngơi chốc lát. Ai ngờ bây giờ cơ quan nhân sự và hộ tịch lại đến truyền đạt cho ông lệnh của nhà vua phải trục xuất quan khách nước ngoài. Đọc xong lệnh này ông cảm thấy hoảng hốt kinh hoàng đến nỗi lặng người trong một lúc, mãi sau này mới tỉnh táo lại. Ông rất lấy làm lạ là tại sao một vấn đề hệ trọng như vậy mà cứ ra quy định bừa bãi tùy tiện, không thèm hỏi ý kiến của những người tham mưu như ông. Ông bèn đọc đi đọc lại toàn văn bản mệnh lệnh của nhà vua. Ông nhìn kỹ từng câu từng chữ, bỗng cảm thấy trong đó hiện lên bộ mặt dữ tợn, ghê tởm của Tử Khang và các lão thần và thái độ hý hửng đắc chí xấu xa của họ. Ông cảm thấy thế lực bảo thủ này quả là rất lớn mạnh và ngoan cố. Chính vì bọn họ mà một cận thần đã vào làm việc trong cơ quan cơ mật của triều đình như ông cũng bị trục xuất thẳng tay! Ông thấy rất oan ức khi nghĩ lại chặng đường vừa qua quãng thời gian mà ông đã phấn đấu rất gian khổ kể từ khi ông vào nước Tần. Ông là người đất Thượng Sái nước Sở, lúc còn trẻ đã từng làm một quan chức nho nhỏ ở địa phương. Có một lần ông nhìn thấy con chuột kiếm ăn trong nhà xí của nhà phủ, khi chuột thấy người và chó, chúng liền bỏ chạy. Một lần khác, ông lại nhìn thấy chuột đàng hoàng ăn thóc trong kho, không có người và chó đến quấy rầy nó. Từ đó, ông phát hiện ra một đạo lý: con người có tài năng nhưng chưa làm nên việc gì lớn, đó hoàn toàn là do hoàn cảnh cũng giống như con chuột nói trên mà thôi. Ông bèn rời quê hương, đến gặp Tuân Tử, nhà học giả lớn lúc bấy giờ, để xin học các kiến thức trị quốc bình thiên hạ. Học xong, ông đến kinh đô nước Sở xin việc để thi thố tài năng, nhưng không được trọng dụng. Vì lúc ấy, Sở là một trong sáu nước suy yếu, không có đất dụng võ. Để tìm một nơi thích hợp với khả năng của mình, ông nói với thầy Tuân Tử: “Điều sỉ nhục nhất của đời con người là thấp hèn, đáng buồn nhất là nghèo khổ. Nếu cứ thấp hèn và nghèo khổ lâu dài, mà lại không làm gì cả, thì không phải là một người có chí”. Nói xong, ông đến nước Tần. Khi mới đến Tần, ông gõ cửa Lã Bất Vi xin làm môn khách. Sau được giao giữ chức “lang”. Chức vụ này tạo cơ hội cho ông được nêu ý kiến với vua Tần. Ông nói với nhà vua về nguyên nhân tại sao trước đây vua Tần Mục Công không thể xưng bá, đó là vì lúc ấy nhà Chu còn rất thịnh, các chư hầu cùng mạnh, nên Mục Công không làm gì được. Nhưng kể từ Tần Hiếu Công trở lại đây nước Tần đã mạnh hơn nhiều, nhà Chu cũng đã suy yếu, các chư hầu cũng đã thần phục nước Tần. Đến nay, thời kỳ của đại vương, nước Tần đã có đủ sức mạnh để thôn tính sáu nước, thống nhất thiên hạ; hạ thần rất vui lòng được phụ tá đại vương. Nhà vua chấp nhận biện pháp sau đây của Lý Tư: dùng vật chất để dụ dỗ hoặc gây chia rẽ vua tôi các nước chư hầu, làm cho nhân tài của họ từ bỏ nước mình để đến nước Tần theo kế sách của Lý Tư. Nhờ vậy, nước Tần mạnh lên nhanh chóng. Nhà vua Doanh Chính thấy Lý Tư có công lớn. bèn phong làm “khách khanh”.

Nhưng hiện nay bản thân ông và tất cả những người quốc tịch nước ngoài đều bị trục xuất, thật là oan ức. Đặc biệt, việc này sẽ làm cho nước Tần mất hết nhân tài và sức mạnh sẽ suy yếu Tổn thất này sẽ gây ra hậu quả khó lường. Vì vậy, ông nghĩ rằng mình phải nêu ý kiến để nhanh chóng ngăn chặn việc thi hành lệnh trục xuất, cho dù bị trị tội cũng cam lòng. Sau khi suy nghĩ kỹ với tâm trạng rất kích động, ông cầm lấy bút, viết một bức thư can gián nổi tiếng và được lưu truyền thiên cổ, gọi là “Gián trục khách thư” (thư can gián việc trục xuất người nước ngoài).

Thư viết:

“Hạ thần nghe nói một số quan lại kiến nghị trục xuất các nhân sĩ nước ngoài, thần cho rằng việc đó là sai lầm. Trước đây, vua Tần Mục Công ra sức chiều mộ các nhân sĩ hiền đức. Người đã tìm được Do Dư của tộc người Nhung ở miền Tây; nước Sở ở phía Đông thì có Bách Lý Hề, nước Tống có Kiển Thúc; còn Phi Beo và Công Tôn Chi thì từ nước Tấn tới. Năm người này không phải là người nước Tần, nhưng nhà vua Mục Công đã dùng họ, nhờ vậy đã thôn tính được hai mươi nước nhỏ, một lúc trở thành bá chủ ở phía Tây. Vua Hiếu Công đã trọng dụng người nước Vệ là Thương Ưởng và tiến hành cải cách, loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, làm cho đời sống nhân dân được sung túc, đất nước hùng mạnh, dân chúng hết sức phục dịch đất nước; nhờ đó đã chinh phục được chư hầu; bắt được quân của nước Sở, Ngụy; mở rộng được hàng nghìn dặm biên cương, làm cho lực lượng hùng mạnh của đất nước được duy trì đến ngày nay. Vua Huệ Vương áp dụng kế sách của Trương Nghi, lấy được quận Tam Xuyên; chiếm được miền Ba Thục ở phía Tây; giành được vùng Thượng Đông ở phía Bắc; chiếm được Hán Trung ở phía Nam. Huệ Vương còn chiếm được cùng dân tộc Di của nước Sở, chinh phục được đất Yên, đất Dĩnh. Chiếm giữ được khu vực hiểm yếu Thành Cao, khoanh về nước Tần một vùng đất đai phì nhiêu rộng lớn. Như vậy, cái thế hợp tung của sáu nước đã bị suy yếu trông thấy, đành phải thần phục nước Tần mà thôi. Còn cơ nghiệp nước Tần vẫn còn kéo dài đến ngày nay. Thời vua Tần Chiêu Vương, nhờ có Phạm Thư, đã bãi chức của Nhượng Hầu, trục xuất Hoa Dương Quân, tăng cường được quyền đoạt lợi. Nhà vua thực hiện chính sách thôn tính (lấn chiêm dần như tằm ăn rỗi) các nước chư hầu, đưa nước Tần lên ngôi bá chủ.

Bốn nhà vua nói trên, đều hết sức coi trọng công lao thành tích của các khách khanh. Do đó, có thể thấy các khách khanh có gì không đúng với vua Tần! Nếu bốn nhà vua nói trên không dùng khách khanh, xa rời các học sĩ, thì nước Tần sẽ không được giàu mạnh, thanh thế và uy tín cũng không thể to như hiện nay.

Hiện nay Đại vương đã có viên ngọc Côn Sơn trong tay, có ngọc trai Tùy Hầu, ngọc bích Hòa Thị, ngọc trai phát sáng trong đêm tối; lại đeo kiếm Thái A, có ngựa Tiên Ly để cưỡi; treo cờ Thúy Phong, có trống bằng da cá sấu Trư Bá Long. Những báu vật ấy không có cái nào là của nước Tần làm ra cả; nhưng tại sao bệ hạ vẫn rất thích? Nếu như chỉ sử dụng những cái do nước Tần làm ra, thì ngọc bích tỏa sáng trong đêm tối sẽ không được đem trang sức ở triều đình; Đại vương sẽ không có các dụng cụ bằng sừng tê giác để thưởng ngoạn. Gái đẹp của nước Trịnh và Vệ sẽ không có mặt ở hậu cung. Ngựa tốt và chó đẹp sẽ không được nuôi dưỡng ở trong các chuồng trại. Đại vương cũng không có các đồ dùng được làm bằng vàng và thiếc vùng Giang Nam. Chất màu Tây Thục cũng không vẽ nên các bức họa cho ngài. Nếu như tất cả những thứ lặt vặt dùng để trang trí hậu cung và để tấu nhạc cho êm tai vui mắt, đều phải là do nước Tần sản xuất ra, thì làm gì có trâm Uyển Châu, hoa tai ngọc trai, khăn lụa Đông A và quần áo đủ màu sắc sặc sỡ luôn múa lượn trước mặt ngài; làm gì có các cô gái nước Triệu xinh đẹp tuyệt trần duyên dáng dịu dàng luôn luôn hầu hạ bên ngài - còn âm nhạc của nước Tần, chẳng qua chỉ là gõ vào vại, đánh vào chậu, và đàn tranh mà thôi; ca hát cũng chỉ là điệu hát muôn thủa, cứ u a u a. Còn nhạc Trịnh Phong, Vệ Phong, những bài ca trong bãi dâu trên bên nước, các ca khúc Chiêu Lư, Vũ Tượng, đều là của nước ngoài hết. Ngày nay nước Tần không đánh đàn tranh, mà tấu nhạc Chiêu Lư là tại sao vậy? Là bởi vì nhạc ấy êm tai dễ nghe, rất có mỹ cảm.

Vậy mà giờ đây, ai là khách khanh đều nhất loạt bị đuổi khỏi Tần, bất kể người đó đúng hay sai, thế thì ngài chỉ quý trọng mỹ nữ, âm nhạc và châu ngọc, còn nhân tài thì ngài khinh rẻ. Đó thật không phải là biện pháp có thể cầm cương nẩy mực xã hội và chinh phục chư hầu!

Hạ thần nghe nói ruộng đất nhiều có thể sản xuất nhiều lương thực, lãnh thổ rộng lớn có thể có nhiều nhân khẩu, vũ lực hùng hậu thì binh sĩ dũng cảm thiện chiến. Vì vậy núi Thái Sơn không chê đất đai nhỏ hẹp, mới hùng vĩ phi thường. Sông sâu biển rộng không ngại sóng lăn tăn, mới mênh mông và sâu như thế. Người quân chủ không ghét bỏ dân chúng, mới tỏ ra sáng suốt và nhân đức. Cho nên, chỉ khi nào nhà vua chấp nhận những người có tài năng của nước ngoài, mới có được đất đai rộng lớn của bốn phương Đông Tây Nam Bắc; mới làm cho đất nước lúc nào cũng tràn đầy khí thế và sức sống mãnh liệt, đến nỗi ngay cả quỷ thần cũng ban phước lành cho nhà vua. Đó là đạo lý của các nhà vua thời “Tam Hoàng Ngũ Đế” đã vô địch thiên hạ. Nhưng giờ đây, ngài lại vứt bỏ con dân của mình, để cho họ đi giúp các nước thù địch. Ngài đuổi người quốc tịch khác, để họ lập công ở các nước chư hầu, làm cho người có học trong thiên hạ không ai dám trông ngóng về nước Tần nữa, không dám đến với ngài nữa. Biện pháp đó thật khác nào đưa thịt vào miệng hùm, trao vũ khí cho giặc, đưa lương thực cho bọn bất lương!

Nhiều của cải không do nước Tần sản xuất, nhưng nước Tần vẫn có nhiều những thứ đó. Nhiều nhân tài học sĩ không phải là người Tần, nhưng rất muốn phục vụ trung thành cho nước Tần. Nhưng nay nhà vua lại từ bỏ những người nước ngoài đó để họ đi giúp kẻ thù của ngài; ngài đuổi dân chúng của ngài, khiến họ phải đi giúp bọn trộm cướp. Những cách ấy làm cho nước Tần suy giảm thực lực, trong khi đó, các nhân sĩ của các chư hầu căm giận nước Tần. Như vậy mà nghĩ rằng Tần chẳng có nguy hiểm gì, thì quá đơn giản!”.

Sau khi viết xong bức thư nói trên, Lý Tư đọc đi đọc lại mấy lần, ông cảm thấy luận chứng rất chân thực, chuẩn xác, ý nghĩa sâu xa, thái độ tích cực, không chỗ nào là không thoả đáng. Thật vậy, ông bèn quyết định nhờ người chuyển lên nhà vua Doanh Chính, không nghĩ tới hậu quả sẽ như thế nào nữa.

Nhà vua đọc xong bức thư hừng hực khí thế, lập luận rõ ràng, phê phán sâu sắc, ý đồ thành khẩn, ngài cảm thấy rất cảm kích, tự thấy hổ thẹn và bất an. Ngài lập tức cho gọi Lý Tư đến và xin lỗi ông, phong ông làm “đình úy”. Ngài còn ra chiếu dụ huỷ bỏ lệnh đuổi khách khanh và người nước ngoài; gọi trở lại những nhân sĩ quốc tịch nước khác đã ra đi. Từ đó, nhà vua lấy lại được lòng người, ổn định được triều đình và trật tự xã hội, đặt nền móng cho sự việc thực hiện kế hoạch làm cho nước giàu quân mạnh, chinh phục chư hầu.

Chú thích:

[i] Cố ý kích động Lao Ái làm phản.

[ii] Khoáng cổ tuyệt kim: từ xưa chưa hề có; sau này cũng tuyệt đối không có - ND.

[iii] Tần Thủy Hoàng: nhà vua hoàng đế đầu tiên của nhà Tần. Muốn nói rằng đây là vị hoàng đế đầu tiên mở đầu cho thời đại nhà Tần sẽ tồn tại hàng vạn vạn năm. Trước đó là thời kỳ tiên Tần. Trong bản dịch này, có khi viết là Tần Doanh Chính, Tần Vương Chính, đều cùng một tên họ là Doanh Chính - ND.

[iv] Khách khanh: quan đại thần người nước ngoài.