← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MƯƠI LĂM DOANH CHÍNH THÂN CHINH, ĐẠI THẮNG NƯỚC TRIỆU-HỌC GIẢ HÀN PHI, ĐI SỨ ĐẠI TẦN-

Loạn Lao Ái đã dẹp xong. Hậu họa Lã thừa tướng đã loại trừ. “Lệnh trục xuất người nước ngoài” tuy có gây ra việc nhân tài bỏ chạy, xã hội rối loạn, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Các hiền sĩ, học giả bị đuổi, nay lại nhanh chóng quay lại, phục hồi nguyên chức. Người có công can gián như Lý Tư còn được thăng cấp lên làm “đình úy”. Chủ trương này làm cho các nhân sĩ nước ngoài yên tâm, tích cực làm việc, làm cho đất nước thực hiện được chính sách thông suốt, nhân dân thuận hòa, đời sống khá giả, văn hóa phồn vinh, vũ lực hùng cường. Nước Tần luôn luôn giữ được truyền thống kết hợp nông binh, kết hợp bình chiến (hòa bình và chiến tranh). Tất cả trai tráng từ mười lăm đến sáu mươi tuổi, thời bình thì lấy mùa vụ nghề nông làm gốc, thời chiến thì đi lính tác chiến. Gia đình nào có người tòng quân ra trận, được ưu đãi về nộp thuế ruộng đất. Các binh sĩ có thành tích chém giết địch trong chiến trận, được thăng cấp và được thưởng. Người bị hy sinh hay bị thương, được trợ cấp lớn. Vì vậy, quân đội Tần có nguồn nhân lực dồi dào, sĩ khí rất cao. Đó chính là cơ sở vật chất và nền tảng tư tưởng cho xu hướng luôn luôn hiếu chiến của các đời vua nhà Tần.

Vua Tần Doanh Chính từ nhỏ đã tỏ ra rất hăng hái năng nổ, lại gặp lúc đất nước đang thịnh, khí thế đang lên; cho nên dã tâm của ngài muốn bành trướng lãnh thổ càng mãnh liệt. Năm thứ mười một niên hiệu Doanh Chính, Vương Tiễn, Hoàn Kỳ đưa quân đánh nước Triệu và Nghiệp Thành của nước Ngụy, chiếm được thành trì và một số địa phương khác. Năm thứ mười hai, Doanh Chính lại chiêu tập rất nhiều binh mã của bơn quận phía Đông, để giúp nước Ngụy đánh nước Sở, thu được thắng lợi rất lớn, cổ vũ mạnh mẽ dã tâm cuồng chiến của vị quân chủ trẻ tuổi. Vì vậy, năm thứ mười ba niên hiệu Doanh Chính, ông ta lại tấn công nước Triệu với quy mô lớn. Ông triệu tập đình úy Lý Tư, đại tướng Hoàn Kỳ và Vương Tiễn vào nội đình bàn bạc kế hoạch đánh Triệu. Ngài nói rất hăng hái:

- Hai mối tai họa Lao Ái và Lã Bất Vi đã loại trừ, lệnh đuổi khách khanh đã đình chỉ, văn hóa phồn vinh, người người thuận hòa, chiến công vang dội. Nay ta muốn đưa quân Đông tiến, đánh chiếm nước Triệu, các khanh có ý kiến gì không?

Vương Tiễn chắp tay hành lễ rồi nói, cũng rất hăng hái:

- Nhiều năm nay quân ta liên tục đánh thành chiếm đất, giết giặc rất nhiều, thanh thế và uy lực quân ta đang ở thế thượng phong. Quyết sách anh minh của bệ hạ, rất hợp với lòng tướng sĩ, nhất định sẽ mở cờ chiến thắng.

- Tuổi trọn đôi mươi là thời kỳ tràn đầy nhựa sống, hăng hái vươn lên. Huống chi vị quân chủ như Đại vương ta, nhiệt huyết tràn đầy, mắt nhìn thiên hạ. Hạ thần tuy là quan văn hèn mọn, nhưng cũng biết vũ lực là cơ nghiệp của Ngũ Bá thời Xuân Thu, là nền tảng của Thất Hùng thời Chiến Quốc. Nay bệ hạ có hoài bão lớn lao, ý chí kiên cường, thì đại Tần ta ắt sẽ chinh phục được thiên hạ, làm chủ trời đất, chờ ngày chiến thắng - Lý Tư cũng hết sức tán thành.

Nhà vua vui mừng nói:

- Hai khanh nói rất đúng. Tình hình hiện nay rất có lợi cho nước Tần, nhân đà chiến thắng to lớn của tướng Vương Tiễn và Hoàn Kỳ trong trận đánh Triệu Nguy, nay phải đánh một trận đại thắng như ở Trường Bình năm xưa. Đó là ý đồ của Trẫm.

- Hạ thần phụng sự bệ hạ đã lâu, tuy đã trải qua mấy chục năm chiến trận, cũng có đánh thắng lập công, nhưng vẫn cảm thấy hổ thẹn vì không bằng các vị tướng tiền bối. Nay đánh Triệu lần nữa, hạ thần xin thề chỉ tiến không lùi, noi gương Vũ An Quân Bạch Khởi - Hoàn Kỳ phát biểu, lộ rõ tâm trạng háo hức muốn làm thử.

- Thật là hiếm khi các văn võ chư khanh đều đồng tâm phò tá Trẫm, Trẫm cảm thấy rất được khích lệ; cho nên, trẫm sẽ ngư giá thân chinh, cùng ra trận với các tướng Hoàn Kỳ và Vương Tiễn. Các khanh thấy thế nào? - Nhà vua nói.

- Đại vương là vua một nước, tốt nhất là trấn giữ triều đường [i], xử lý trăm ngàn công việc, hà tất phải thân chinh hành quân tác chiến, lao vào nơi rừng giáo mưa tên, mua cái mệt nhọc trên lưng ngựa - Lý Tư trịnh trọng khuyên can.

- Người làm vua phải có chí khí lớn hơn thiên hạ, sao lại chỉ sai khiến kẻ bề dưới, còn mình lại ngồi hưởng an nhàn? Cần phải tự mình tham gia trận mạc, chịu mọi gian khó, vào sinh ra tử, mới được tướng sĩ ủng hộ, làm cho quân địch khiếp sợ. Vả lại, Trẫm từ nhỏ đã luyện võ công, nay lớn lên càng rất thành thạo, rất muốn ra ngoài chiến trường để thể hiện bản lĩnh của mình - Nhà vua bày tỏ quyết tâm rất lớn.

- Đại vương tuy võ nghệ cao cường, nhưng chiến trường biến hóa khôn lường, sai một ly đi một dặm; lúc ấy lão thần không thể kham nổi tội trạng của mình - Hoàn Kỳ cũng hơi lo nên phụ họa ý kiến của Lý Tư.

- Thế mà ngươi là một viên thượng tướng? Sao lại non gan như vậy? Chẳng lẽ biến Trẫm thành một kẻ hèn nhát ăn không. ngồi rồi ư? - Nhà vua nói như đinh đóng cột - Trẫm đã quyết tâm rồi, các khanh không cần nói thêm gì nữa.

Các đại thần không dám trái ý nhà vua nữa, chỉ nêu lên vài ý kiến nhằm nhắc nhở ngài: luyện võ thời bình thì lúc nào đạt yêu cầu là nghỉ, học từng động tác một. Còn trong trận mạc thì một là sống hai là chết, không hề có một chút mảy may nào ngừng lại, xin đại vương tuyệt đối không thể coi thường. Nhà vua gật đầu liên tục, cảm ơn sự quan tâm của mọi người. Tiếp đó bàn về kế hoạch cụ thể các biện pháp tác chiến diệt Triệu.

Giữa mùa xuân năm thứ mười ba niên hiệu Doanh Chính, nhà vua cử đại tướng quân Hoàn Kỳ đi tiên phong, đưa mười lăm vạn quân tấn công nước Triệu. Bản thân ngài và các phụ tá Xương Bình Quân, Xương Văn Quân, Mông Quát, Mông Nghi đưa hai mươi vạn quân đi sau, tiến như vũ bão về hướng Thái Hành Sơn, khí thế sát khí đằng đằng.

Trong số các thành trì nằm ở phía Tây của Triệu, thành Bình Dương (nay thuộc địa phận gần thành phố Lâm Phần tỉnh Sơn Tây) là đô thành đầu tiên đứng mũi chịu sào đại tấn công của quân Tần. Khi tướng Triệu bảo vệ Bình Dương thấy khói lửa làm hiệu ở “đài Phong hỏa” bốc lên, báo tin chẳng lành, bèn tập hợp ngay ba vạn binh mã bảo vệ thành, ra sức gia cố tường thành, tăng cường tuần tra canh gác, đồng thời, sai kỵ binh hỏa tốc cấp báo về Hàm Đan. Lúc ấy, vua Triệu Tương Vương của Triệu đã mất từ lâu, người con lên thay là Vương Thiên. So với cha, Vương Thiên còn nhu nhược hơn nhiều, lại say đắm trong vui thú nữ sắc và trò chơi chó ngựa. Khi nhận được thư cấp báo, Vương Thiên lúng ta lúng túng, vội gọi thừa tướng Quách Khai đến bàn đối sách. Quách Khai nói, trước đây quốc cữu (cậu vua) Hỗ Triếp đã từng cùng với cựu thừa tướng Bàng Viên chống quân Tần, từng giết chết đại tướng Mông Ngao của Tần. Bây giờ cử ông ấy đưa quân chống Tần chắc chắn sẽ chiến thắng quân Tần. Vương Thiên nghe theo ý kiến Quách Khai, ra lệnh cho Hỗ Triếp đưa mười lăm vạn quân tăng viện cho Bình Dương. Lúc này, Hoàn kỳ đã bao vây Bình Dương mấy ngày rồi, xem ra chỉ vài ngày nữa là có thể đánh chiếm được; bỗng nhận được mật lệnh hỏa tốc của Tần Doanh Chính từ phía sau. Xem xong, Hoàn Kỳ hiểu rõ ý đồ của nhà vua, bèn cho quân tấn công một đợt nữa như thường lệ, xong lập tức rút lui toàn bộ về phía Tây. Tướng Triệu trong thành thấy quân Tần rút chạy, mừng rỡ vô cùng, bèn chạy ra ngoài thành xem quân Tần chạy về hướng nào; mặt khác ra lệnh cho quân trong thành chuẩn bị đón quân tăng viện đến.

Hỗ Triếp trước đây tuy có đi theo đại tướng quân Bàng Viên, đánh mấy trận nhưng lúc đó là do lão tướng của Tần là Mông Ngao tức giận vì không có quân tăng viện, nên đã đơn thương độc mã tác chiến và chuốc lấy cái chết ở Khánh Đô. Hỗ Triếp tự đắc coi mình là một tướng tài. Lần này Hỗ Triếp đưa quân tăng viện cho Bình Dương, quân tăng viện chưa tới, mà quân Tần đã rút lui, ông cảm thấy rất đắc chí, có phần nào lâng lâng nhẹ nhõm. Trong bữa tiệc mừng chiến thắng, ông ta bất chấp lời khuyên của viên tướng giữ thành khuyên hãy chờ cho đến khi quân thám báo của Triệu đi trinh sát về nói rõ tình hình quân Tần thực hư thế nào rồi hãy quyết định, Hỗ Triếp nhân lúc cao hứng vì hơi men, khua tay nói rằng:

- Trước đây quân Tần đã bị bản soái ta đây đánh bại, nay thấy ta đưa quân tới, tất yếu khiếp sợ bỏ chạy. Bây giờ không đuổi theo, còn chờ lúc nào? - Tiếp đó, ông ta thúc giục tướng sĩ: người không cởi áo giáp, ngựa không cất yên, ăn xong tiệc mừng là lập tức xuất phát truy đuổi quân Tần.

Quân Triệu cấp tốc hành quân để cố đuổi kịp quân Tần. Dọc đường quân Tần vứt lại rất nhiều vũ khí và chiến xa, khiến quân Triệu gặp không ít trở ngại. Đặc biệt, có rất nhiều phụ nữ Triệu bị quân Tần bắt, nay vứt lại hai bên đường, họ kêu la rất thảm thương vì đói rét, Hỗ Triếp đành phải thu nhận họ vào trong đơn vị quân đội, cho họ ăn mặc, lựa chọn những người đẹp làm bồi bàn. Trong lúc vui đùa, Hỗ Triếp hỏi họ sau khi bị quân Tần bắt, đã bị khổ sở như thế nào. Các cô gái ấy trả lời rằng quân Tần kỷ luật rất nghiêm, nói rằng bắt họ là để đưa về Hàm Dương vào cung làm nữ nô tỳ. Nhưng mấy hôm trước nghe quân Tần nói nhỏ với nhau rằng vua Doanh Chính bị đâm chết ở trong phòng ngủ. Có cô lại nói rằng không phải bị đâm chết mà là bị thương rất nặng. Một cô khác bảo rằng, không phải bị đâm mà là bị bệnh rất nặng. Như vậy, Hỗ Triếp rất mừng, nghĩ rằng: Té ra là quân Tần chạy gấp về chịu tang, như vậy sĩ khí sẽ rất thấp, ngày mai phải tăng tốc; lần này thì Hoàn Kỳ sẽ đi theo vết chân của lão già Mông Ngao, sẽ chết mất mạng ở chân núi Thái Hành Sơn cho mà xem! Yến tiệc xong, ông ta và mấy viên tướng đưa mấy cô gái mỹ miều về lán riêng của mình để tận hưởng hoan lạc.

Nhà vua Doanh Chính dẫn hai mươi vạn quân đi sau nhưng không theo sát quân của Hoàn Kỳ mà đến đóng quân tại một thành nhỏ gọi là Vũ Uy. Tại đây quân của nhà vua vừa chấn chỉnh lại, vừa bố trí mai phục ở gần đó. Bộ binh phân tán mai phục tại khu rừng cây cỏ rậm rạp; ngựa và xe thì ẩn nấp hai bên đường, đặc biệt tại các cửa khẩu ra vào của đường cái lớn, xe ngựa được bố trí thành hình dạng của cái miệng túi, để tiện cho việc khép kín miệng túi, tất cả mọi người đều ăn lương khô, làm tốt việc ngụy trang, không lộ mục tiêu. Ai trái lệnh thì chém! Sau đó ngài đưa một số binh mã trở về thành Vũ Uy, cắm cờ để dụ địch.

Trong khi đó, quân Tần do Hoàn Kỳ chỉ huy, theo kế hoạch đã định, khi rút đến chỗ nhìn từ xa có thể thấy được bóng dáng thành Vũ Uy, thì tăng tốc, rút nhanh trên đường núi chạy về Vũ Uy. Quân Triệu đuổi theo sát phía sau nhưng quân Tần không quay lại chặn đánh, mà cứ rút chạy; khi chạy đến gần Vũ Uy thì tản ra ở chung quanh gần đó. Quân Tần ở trong thành Vũ Uy ra chống cự quân Triệu một lúc rồi cũng chạy về phía Tây. Quân Triệu đuổi theo vào tận trong thành Vũ Uy, rồi dừng lại, mở tiệc mừng công lớn. Em của Hỗ Triếp là Hỗ Khuy và tướng bảo vệ thành Bình Dương hết sức vui mừng, cầm từng bát rượu lớn để chúc Hỗ Triếp. Hồ Triếp hớn hở cười nói rằng:

- Thiên hạ nói quân thua chạy như núi sập, quả không sai. không chỉ Hoàn Kỳ, mà ngay cả quân Tần chốt giữ Vũ Uy này cũng chạy bò ra như cỏ rạp mình dưới ngọn gió. Nước Triệu muốn trả mối thù bốn mươi vạn quân bị Tần diệt ở trận Trường Bình năm xưa thì hãy trông vào trận này của Hỗ Triếp ta đây! - Nói rồi, ông ta nâng cốc rượu lên miệng, nhưng chưa kịp uống, bỗng thấy ánh sáng lóe lên từ phía trước mặt, ông vội ngẩng đầu lên nhìn thì thấy từng đám lửa bốc lên rất nhanh từ khắp bốn phía. Tiếp đó là tiếng trống nổi lên ầm ầm, rồi tiếng thét “Giết, giết!” rợn người vang lên. Quân của Hoàn Kỳ nhanh như cắt quay lại tập kích vào thành Vũ Uy. Quân Triệu trở tay không kịp, vội vàng lúng túng khoác vội áo giáp và nhảy lên ngựa ứng chiến. Thấy bốn cửa thành bỏ không, quân Triệu chẳng còn cách nào khác, cứ cửa thành mà tháo chạy, họ chạy lên núi. Hỗ Triếp nhờ có mấy lính cận vệ bảo vệ, đã liều mạng phá vòng vây chạy thoát ra, chạy lẫn vào trong đám quân của hai bên đang hỗn chiến. Vua Doanh Chính mũ sắt áo giáp sáng loáng, phi ngựa nước đại, xông thẳng vào trận địa. Lúc này quân hai bên đang quần nhau giáp lá cà, xen kẽ vào nhau, rất khó phân biệt đâu là ta đâu là địch. Nước Tần vốn quen dùng màu đen, nên ban đêm rất khó nhìn rõ; còn quân Triệu ăn mặc áo đủ thứ màu sắc, hiện lên rất rõ dưới ánh lửa. Do vậy quân Tần bị chết ít hơn rất nhiều so với quân Triệu. Thêm vào đó, tinh thần sĩ khí quân Tần rất cao vì có nhà vua thân chinh tham chiến. Quân Triệu thì bị động lúng túng, lại chẳng thấy chủ soái ở đâu, cho nên hỗn loạn như rắn mất đầu. Tướng giữ thành Bình Dương của Triệu phá vây chạy vội lên núi, vừa chạy vừa ngước mắt nhìn, thì thấy trước là nhà vua Doanh Chính đang vung ngọn giáo lao chạy tới để chém mình, y vội tránh sang một bên rồi thúc ngựa chạy trốn. Nhưng Doanh Chính cũng nhanh như cắt, kéo mạnh dây cương, bắt ngựa quay đầu lại để đuổi sát theo tướng Triệu. Viên tướng này nghe thấy tiếng vó ngựa đuổi theo mình quá gần, vội cúi rạp xuống lưng ngựa để nhìn ra phía sau, thì thấy vị tướng đang đuổi theo là một thanh niên còn rất trẻ, có đôi mắt to tròn xoe như mắt chim ưng, sáng long lanh như hai tia chớp, trông phát khiếp. Vị tướng Triệu này nghĩ bụng: “Viên tướng nhỏ tuổi này chắc là mới ra trận lần đầu nên rất hám lập công; do đó, không hiểu rằng đuổi địch cùng đường rồi thì nên dừng lại, vì cùng quá hóa liều”. Trước mặt viên tướng Triệu lại đang có một tốp quân Tần cầm đại đao đang ập tới! Ông ta nghĩ rằng chẳng thà liều chết với viên tiểu tướng này còn hơn là để cho lũ lính kia tóm cổ. Đang suy nghĩ vậy thì Doanh Chính thét lên:

- Bại tướng kia hãy nộp mạng!

Thét xong, liền giơ ngọn giáo lao tới. Viên tướng Triệu nhờ có chuẩn bị trước, khi thấy viên “tiểu tướng” kia giơ giáo định đâm, thì ông ta tránh sang một bên, rồi đưa tay kia cầm ngay lấy phía trên cán giáo của Doanh Chính giật mạnh về phía trước. Doanh Chính bị bất ngờ, ngựa đang chạy rất nhanh, lại hết sức chém mạnh lưỡi giáo, không ngờ đối phương túm được phía trên cán giáo, nên lập tức bị mất thăng bằng, toàn thân bị kéo lên, nhổm khỏi yên ngựa, chồm người lên phía trước. Nhưng lúc nguy cấp sắp bị ngã ngựa, ngài đã bình tĩnh kẹp chặt hai chân vào mình ngựa, nên không bị ngã, mà còn lấy lại đà, vụt nhanh lên phía trước lao vào đối thủ. Nhưng phía trên cán giáo lại bị đối thủ nắm chặt lôi đi rất mạnh, cho nên ngài cũng phải nắm chặt lấy phía dưới cán giáo, và thuận chiều đưa mũi giáo đâm mạnh vào lưng đối phương, vì hai người cùng cầm cán giáo nên cú đâm này làm cho cả hai cùng ngã lăn xuống đất. Viên tướng Triệu ngã xuống nhưng tay vẫn cầm chặt phía trên cán giáo, bèn thuận chiều đưa cả tay kia cầm chặt cán giáo. Ông ta vụt đứng dậy, chĩa thẳng mũi giáo vào Doanh Chính. Lúc ấy Doanh Chính cũng ngã nằm đè lên lưng viên tướng Triệu, hơi sợ một chút, nhưng không bị thương, và cũng vụt đứng ngay dậy. tay ngài tuột khỏi cán giáo, tay không vật lộn với đối thủ. Bỗng nghe thấy tiếng “lẻng xẻng”, bèn biết ngay rằng đó là chiếc kiếm mà ngài vẫn đeo bên hông, nay rơi xuống đất khi ngài từ lưng ngựa ngã nhào xuống đất. Ngài nghĩ bụng, ông trời đến cứu ta! Lúc ấy viên tướng Triệu hai tay cầm chặt cây giáo đâm thẳng tới Doanh Chính nhìn thẳng vào mũi giáo rồi tránh nhanh sang một bên; mặt khác, lập tức đưa chân hất thanh kiếm lên. Thanh kiếm bị hất bay lên cao tới ba thước, Doanh Chính đưa tay cầm lấy kiếm. Có vũ khí trong tay, càng mạnh bạo hơn. Ngài đưa kiếm gạt mũi giáo sang một bên rồi áp sát đối phương. ông ta chém hụt một nhát giáo, trong nháy mắt, ở vào thế bất lợi nhất (vị trí số không). Nhân lúc đối thủ chưa kịp bỏ giáo để rút kiếm ra, Doanh Chính đã kịp đâm kiếm vào vị trí số không của đối phương, mũi kiếm xuyên thẳng từ ngực sang lưng. Tướng Triệu kêu thét một tiếng rất thảm rồi ngã sập mặt xuống đất, toàn thân run lẩy bẩy, lưỡi kiếm vẫn còn ngập trong ngực, giống y như đang tiếp tục đâm sâu vào nữa. Doanh Chính đắc thắng bước tới xác viên tướng Triệu, cầm lấy đốc kiếm và rút mạnh ra, quẹt lưỡi kiếm mấy cái trên người tử nạn, đang định cho kiếm vào bao, thì bỗng thấy hai tướng kỵ binh đang chạy nhanh lại phía mình, ngài vội cầm chặt đốc kiếm, chờ đợi. Lúc hai viên tướng phi ngựa sắp tới chỗ ngài, thì ngài lại nghe thấy tiếng ngựa hý rất lớn từ phía sau và phút chốc con ngựa đã chạy đến trước mặt. Đó là con Tiêm Ly của ngài, khi ngài ngã xuống đất, nó cứ theo đà phi nhanh về phía trước, đến khi nó đi chậm lại thì đã cách xa chủ đến mấy trăm bước, và lúc này nó mới phát hiện không có chủ trên lưng; cho nên mới quay đầu lại, chạy nhanh tìm chủ. Khi thấy Doanh Chính nó hí rất to và dài để báo tin cho chủ biết. Lúc này hai viên tướng Tần cũng vừa đến nơi, thấy nhà vua đang cầm kiếm sẵn sàng xông trận, họ vội nhảy xuống ngựa, vừa thở hổn hển vừa nói:

- Té ra bệ hạ ở đây, thế mà mạt tướng lo sợ sốt vó đã đi tìm khắp nơi.

Nhà vua lập tức cảm thấy nhẹ nhõm, ngài cười nói:

- Trẫm vừa từ trên dốc núi chạy xuống đây thì gặp tên xấu số này. Hai bên đều đang hăng máu, nên cùng lao vào quyết đấu với nhau. Không ngờ hắn cũng là tay không vừa, hắn cướp giáo chém từ trên lưng ngựa cho đến khi ngã xuống đất. Trẫm phải dùng “đoản kiếm” (kiếm ngắn) để chống đỡ với giáo dài, nên phải khó khăn lắm mới kết liễu được hắn - Nói xong, ngài bèn hỏi hai viên tướng mới đến - Sao? Hai người không giết địch trong trận chiến lại đến tìm ta có việc gì?

- Lúc tuyên thệ khi xuất quân, tả hữu thừa tướng và đình úy Lý Tư căn dặn mạt tướng phải luôn luôn bám sát chân ngựa của bệ hạ để bảo vệ - Tướng Mông Nghị trịnh trọng nhắc nhở khéo Doanh Chính.

- Ha! Ha! Ha! Toàn là hủ nho, nhát gan như thỏ, còn coi bản vương ta đây là đứa trẻ miệng còn hơi sữa, nên cứ lòng dạ không yên! - Doanh Chính mỉm cười, nói tỏ vẻ khinh thường.

- Đại vương anh dũng vô địch, mạt tướng rất kính phục. Nhưng ở chốn sa trường, quân sĩ hai bên liều chết tử chiến, gươm giáo như rừng, thật không thể coi thường; huống hồ Đại vương lần đầu ra trận, sao chúng thần có thể không lo lắng gì được - Tướng Hổ Bôn Quân từ tốn nói với vua Doanh Chính - May mà Đại vương vô sự, nên mạt tướng mới có thể ăn nói được với nguyên soái Hoàn Kỳ.

Doanh Chính nghe vậy thấy rất vui, bèn hỏi:

- Tướng Hoàn Kỳ ở bên ấy thế nào?

Mông Nghị vội đáp:

- Mạt tướng và mấy vị khác vừa từ trên núi chạy xuống, gặp bọn địch liền lăn xả vào chém giết, bỗng không nhìn thấy đại vương ở đâu, bèn lao vào “tả xung hữu đột”, cốt tìm Đại vương, đánh cho quân địch tán loạn bỏ chạy. Lại nghe tiếng reo hò của quân ta ở bên phía trận địa của tướng Hoàn Kỳ, tiếng vó ngựa dồn dập, biết rằng đó là tướng Hoàn Kỳ đang đưa binh mã chặn đứng các ngả đường, dụ địch vào trong ổ mai phục và đang ra tay chém giết. Cuộc giao chiến đang vô cùng ác liệt, chắc là quân ta đang hạ sát rất nhiều thủ cấp quân Triệu.

- Chỗ này ở ngoại vi quân Triệu, từ đây có thể dồn chúng vào sâu trong vùng lõm chân núi, nếu không bị lửa thiêu thì cũng bị ngựa xéo, chết như ngả rạ, chẳng đứa nào kịp ngáp. - Nói xong vừa tra kiếm vào vỏ, nhà vua vội nhặt cây giáo của mình còn nằm trên mặt đất, rồi nhảy lên ngứa, bảo hai viên tướng - Mau đi theo ta.

Mông Nghị và Hổ Bôn Quân phi người lên ngựa theo gót Doanh Chính, cho ngựa chạy nước đại về phía lõm núi, nơi đang bùng bùng khói lửa, tiếng thét giết giặc đang ồn ào ghê rợn.

Đại tướng Hoàn Kỳ dẫn đầu một toán binh mã, chiến xa và bộ binh chốt giữ cửa khẩu ra vào của con đường qua núi. Ông đứng trên cao nhìn xuống, chỉ thấy quân hai bên đang hỗn chiến. ngọn lửa rừng đang cháy bốc cao, soi tỏ chiến trường. Ông muốn nhìn xem lá cờ có thêu chữ “Tần” viết theo kiểu chữ “triện” màu vàng cán đen đang ở đâu, để có thể từ đó quan sát nhà vua lần đầu xông trận đang thể hiện tư thế oai hùng dũng mãnh, xung phong giết giặc như thế nào. Ông không ngờ nhà vua lần đầu ra trận lại hành động quả cảm và nhanh chóng đến thế, đến nỗi ngay cả chính tên lính cầm cờ cũng không theo kịp ngài, trở lại một mình ở phía sau và bị quân Triệu vây lấy. Người lính cầm cờ này chợt nghĩ ra một cách đối phó. Anh ta lấy cán cờ làm vũ khí, múa liên tục cán cờ như múa gậy, cuối cùng mở ra được một lối thoát, bèn thúc ngựa tranh đường tháo chạy. Tướng Hoàn Kỳ đứng trên cao nhìn xuống thấy hết, bèn vội vẫy tay chỉ huy đội binh mã và chiến xa lúc ấy đang ở bên cạnh, xông ra chặn đường của Hỗ Triếp. Hỗ Triếp thấy vậy bèn cho ngựa quay đầu lại, định chạy về phía sau, nhưng lại gặp ngay “tay cầm cờ”vừa rồi. Anh này vội đưa cán cờ gạt ngang lưng ngựa của Hỗ Triếp; Hỗ Triếp bị cán cờ gạt xuống đất, ngã bò lê bò càng đang lổm ngồm định đứng dậy thì bị hai người lính Tần chạy đến. Mỗi người túm lấy một bên vai ông ta kéo lên. Hỗ Triếp bạt vía kinh hồn, người run lẩy bẩy, miệng nói như van xin:

- Mạt tướng xin hang!

Nhưng quân Tần thường là giết sạch để khỏi mang gánh nặng về sau. Một người lính nói to lên:

- Khỏi lắm lời lôi thôi! - Nói xong giơ đại đao chém ngang cổ, đầu Hỗ Triếp văng sang một bên, thân người sụp xuống tại chỗ. Bỗng có tiếng leng keng từ áo quần tử thi. Người lính vội lấy mũi đại đao tách mảnh giáp ở áo giáp tử thi, thì thấy có cái “ấn” bằng vàng của nguyên soái đang nằm trong áo giáp. Anh ta vội cầm lấy chuôi “ấn” kéo mạnh ra và cầm lấy con dấu bằng vàng! Anh ta mừng hí ha hí hửng, vội nói với người bạn vừa chém Hỗ Triếp:

- Cậu chém được đầu, tớ lấy được “dấu”. Nay cả hai cùng nộp đầu và con dấu, được thưởng chia đôi. Được không hả?

Người bạn kia trả lời:

- Được! Được!

Tay cầm cờ thấy vậy liền chạy đến, giơ cao lá quân kỳ có chữ TẦN và hô lớn:

- Chủ soái Hỗ Triếp của quân Triệu đã bị quân ta chém chết, đầu còn ở đây. Hoan hô!

Quân Tần nghe tin vội đồng thanh hoan hô vang trời dậy đất. Nhà vua, tướng Mông Nghị và Hổ Bôn Quân cũng chạy rất nhanh đến chỗ quản kỳ. Tướng Hoàn Kỳ cũng từ bên này phi ngựa đến. Cũng vì đang trong giao chiến, nên các đại lễ giữa vua tôi được miễn, chỉ chắp tay chào nhà vua, rồi lập tức xua quân cùng bao vây tàn quân Triệu. Em Hỗ Triếp là Hỗ Khuyết, đang xả thân chém giết trong hỗn loạn, bỗng nghe tin anh cả bị giết, vừa buồn vừa căm phẫn, bèn sôi máu xông ngựa về phía đại tướng Hoàn Kỳ, chĩa mũi giáo đâm thẳng vào người Hoàn Kỳ. Nhưng Hoàn Kỳ là một lão tướng đã quá quen với việc đâm chém bằng giáo. Vì vậy hai bên đối địch nhau, ngựa bên này xông lên thì ngựa bên này xông lại, kéo giằng co lẫn nhau, chân đá vung lên, mồm hý từng hồi. Hai viên tướng đối địch ngồi trên lưng ngựa, bên này đâm ngọn giáo, bốn mắt trợn trừng, dữ dằn như lửa, như giao long quần nhau trên cạn, như hổ beo cắn nhau tranh mồi. Quân sĩ hai bên hò reo trợ chiến, đánh trống liên hồi. Cứ thế giằng co hàng trăm hiệp vẫn bất phân thắng bại. Bỗng Hoàn Kỳ bật ra một mẹo. Ông ta vụt nằm rạp xuống lưng ngựa, để cho lưỡi giáo đối phương vụt qua bên trên; tiếp ngay đó xoay người đưa cán giáo gạt mạnh đối phương. Hỗ Khuyết bị bất ngờ nên không kịp đối phó, bị gạt mạnh và rơi ngã xuống đất. Ông ta đang định nhổm dậy thì Hoàn Kỳ đã kịp quay lại đâm giáo vào ngực, xuyên suốt ra sau lưng.

Đến đây, các chư tướng của quân Triệu đều đã bị giết hết. Số quân còn lại chẳng phải là đối thủ của quân Tần nữa. Nhà vua cùng với Hoàn Kỳ, Mông Nghị, Mông Quát, Hổ Bôn Quân đưa toàn bộ bộ binh, xe ngựa bao vây, chặn đánh, truy quét dồn tất cả tàn quân Triệu vào một hẻm núi rất sâu, rộng khoảng hai mươi dặm vuông ở chân Thái Hành Sơn. Nơi này cỏ cây rậm rạp lởm chởm gồ ghề, rất khó đi lại. Quân Tần vây chặt quân Triệu ở trong vùng lõm đó mấy ngày, sau châm lửa đốt rừng. Ngọn lửa có gió thổi mạnh, cháy rực cả trời. Cả người và ngựa của quân Triệu bị dồn vào một chỗ, dẫm đạp lên nhau; chiến xa ngốn ngang, bị thiêu cháy hầu hết. Một số ít may mắn chạy thoát ra ngoài, thì cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng về Hàm Đan, chẳng dám ngoái cổ nhìn lại. Chúng về báo tang! Xác người và xác ngựa chồng chất lên nhau như núi; máu chảy lênh láng khắp nơi, nhuốm đỏ cả một vùng. Một đám rừng cây rộng lớn của Thái Hành Sơn [ii] cũng bị thiêu trụi, khói và hơi nóng bốc lên cao, tụ lại thành mây, lơ lửng mãi mới tan.

Cuộc chiến đẫm máu kết thúc, Doanh Chính thúc ngựa chậm rãi đi về thành Vũ Uy, theo sau ngài là một đám tướng lĩnh khá đông. Tối hôm đó toàn quân mở đại tiệc ăn mừng. Từ trên hàng ghế chủ soái, nhà vua nâng chén rượu lên cao, và chờ cho các văn quan võ tướng gồm: Xương Bình Quân, Xương Văn Quân, Hoàn Kỳ, Mộng Nghị, Mông Quát chúc mừng xong, bèn nói với họ theo kiểu gian hùng đắc chí:

- Chiến thắng lần này là do trẫm thân chinh tham chiến, các tướng sĩ đều đồng tâm hiệp lực, quyết chí diệt thù. Nhưng một phần còn là do con gái nước Triệu nhẹ dạ cả tin, nghe quân mình phao tin đồn nhảm, thế là cứ kháo nhau về chuyện Trẫm bị tai họa, làm cho tướng Triệu trúng kế, khinh địch hám công, liều mạng tiến bừa, cuối cùng bước theo bánh xe đổ của trận đại bại Trường Bình năm nào. Từ đó có thể thấy, nếu biết sử dụng những kẻ lắm mồm trong hàng ngũ quân địch, lại nhẹ dạ cả tin, hay đưa đẩy chuyện này chuyện nọ, làm người thông tin cho mình, thì hiệu quả hơn là đưa người của mình đi vào lòng địch để dò la trinh thám!

Mọi người đều cười sảng khoái, đồng thanh ca ngợi nhà vua võ nghệ cao cường, dày dạn thiện chiến, lại túc trí đa mưu; ngay cả Bạch Khởi, Mông Ngao ngày xưa và Hoàn Kỳ, Vương Tiễn hiện nay đều thua kém rất xa. Nhà vua đương nhiên rất vui, nở mày nở mặt. Ngài bèn bảo các tướng sĩ nhanh chóng kiểm đếm lại chiến lợi phẩm để trình báo cho ngài, sau đó sẽ bình công khen thưởng, ưu đãi những người thương vong. Toàn quân trên dưới đồng thanh cảm tạ ân đức cao dày của nhà vua.

Sau khi kiểm tra, thấy chiến dịch Bình Dương, Vũ Uy này, quân Tần bị thương vong từ sáu đến bảy vạn người, quân Triệu bị thiệt mạng một phần ba (khoảng mười hai vạn) thật sự là một trận đại thắng.

Nhà vua Vương Thiên của Triệu, kể từ khi tế cờ trao ấn, ra lệnh cho quân anh em quốc cữu Hỗ Triếp và Hỗ Khuyết đưa hai mươi vạn quân tăng viện cho thành Bình Dương, ngài luôn luôn nhận được tin báo thắng trận. Nào là quân Tần nghe tin Hỗ Triếp đưa quân sắp đến Bình Dương, bèn hốt hoảng tháo vây bỏ chạy về phía Tây. Nào là quân Tần rút nhanh về Hàm Dương để chịu tang nhà vua Doanh Chính, theo lời của các cô gái nước Triệu bị quân Tần bỏ lại, nói rằng Doanh Chính không bị thương thì bị bệnh, rất nặng, đã chết. Nào là tướng quân Hỗ Triếp đã chỉ huy quân Triệu vào thành Vũ Uy, chẳng bao lâu nữa sẽ đuổi theo quân Tần ở phía Tây, tiêu diệt toàn bộ quân Tần và mang đại thắng trở về. Đại vương cứ yên tâm đợi chờ. Nhà vua nhận biết được những tin thắng trận như vậy, đương nhiên là rất hý hửng vui mừng. Ngài bèn hối hả sai người quét dọn lau chùi thật sạch sẽ các cung điện, triều đường, cả thái miếu trang hoàng lại hoàn toàn mới, chờ đón đại quân chiến thắng trở về là tổ chức lễ mừng công rầm rộ tưng bừng nhất. Nhà vua còn đến thái miếu để cầu khấn, bói quẻ để kính báo với liệt tổ hệt tông; trận đại thắng Bình Dương - Vũ Uy này là để rửa cái hận Trường Bình và mở ra một kỷ nguyên mới cho nền triều chính do ngài đứng đầu.

Đến ngày thứ năm trông ngóng đợi chờ, nhóm tàn quân bại tướng đầu tiên về đến Hàm Đan. Thừa tướng Quách Khai lập tức vào cung bẩm báo. Nhà vua Vương Thiên hồn bay phách lạc, bạt vía kinh hồn, bỗng lăn ra khóc lóc thảm thương như một đứa trẻ - Quách Khai nói, khóc cũng vô tích sự, việc khẩn cấp trước mắt là bàn thảo kế sách chống quân Tần tấn công Hàm Đan. Hôm sau, Vương Thiên cho họp triều thần để bàn về việc khẩn cấp nói trên. Các đại thần nhất trí đề nghị gọi đại tướng Lý Mục hiện ở quận Đại người tộc Nhung ở miền biên giới phía Bắc, về bảo vệ kinh đô nước Triệu. Do vậy viên đại tướng đã chốt giữ quận Đại suốt mười năm, làm khiếp sợ bọn rợ Hung Nô, phải phụng chiếu trở về Hàm Đan, chuẩn bị quân lực để chống trả quân Tần.

Trong chiến dịch Vũ Uy - Bình Dương vừa qua, quân Tần chỉ bị thương vong sáu, bảy vạn mà thôi, nhưng cũng rất mệt mỏi vì phải đi đi lại lại để bôn tập và kịch chiến, vì vậy chỉ ở lại đất Triệu một thời gian để nghỉ ngơi và chấn chỉnh; sau đó từ từ hành quân về nước. Sau khi đánh thắng một trận lớn, nhà vua Doanh Chính chẳng những đã chứng thực được rằng bản thân mình hoàn toàn có thể dùng vũ lực để tiêu diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ; mà ngài còn tận mắt nhìn thấy các tướng lĩnh dưới quyền ngài đều anh dũng thiện chiến, hết mực trung thành với ngài; do vậy, từ nay, giao việc chinh chiến ở nước ngoài cho Hoàn Kỳ, Mông Nghị là có thể yên tâm được rồi. Sau khi về đến Hàm Dương, ngài yên tâm đọc sách, chuyên tâm học tập, nhằm bổ sung và nâng cao năng lực phân tích tư duy và quyết đoán của mình về học vấn, chính trị và về phương châm chính sách trị quốc bình thiên hạ làm cho nước mạnh dân giàu. Ngài thấy các sách của Hàn Phi như Cô Phẫn, Ngũ Đố, Nội Ngoại Trữ lập luận rất chặt chẽ, khí thế sâu sắc, phương pháp thực tế, rất có giá trị về lý luận và thực tiễn. Nghĩ vậy, ngài rất muốn gặp tác giả các cuốn sách đó, đế trực tiếp nghe những lời giáo huấn. Khi đọc những tác phẩm ấy, ngài được gợi mở và hiểu rõ nhiều vấn đề, đến mức, ngài bất giác thốt lên rằng:

- Chà! Nếu quả nhân được gặp và trò chuyện với con người này, thì chết cũng cam lòng!

Một hôm, ngài đang đọc Cô Phẫn, bỗng Lý Tư đến bẩm báo một việc quan trọng, ngài đập tay vào sách viết trên các thẻ tre, rồi hỏi Lý Tư:

- Khanh đã đọc sách này chưa? Thật là chưa từng có trên đời này!

Lý Tư cúi đầu đưa mắt nhìn qua vừa cười vừa đáp:

- À, sách Cô Phẫn! Hạ thần không chỉ đọc mà còn rất quen người này.

- Khanh vừa biết sách, vừa biết người! Thật đáng mặt nhân tài, kiến thức uyên thâm. - Nhà vua khen Lý Tư.

Được lời như cởi tấm lòng, Lý Tư càng phấn khởi và càng nói hăng:

- Hạ thần và Hàn Phi đều theo học nhà học giả lớn nước Sở là Tuân Khanh (Tuân Tử), cùng ngồi trên ghế học trò với nhau mấy năm trời, nên rất biết đức độ và tác phẩm của ông ta.

Điều này càng làm cho nhà vua thêm mừng, bèn hỏi tiếp:

- Khanh phụng sự nước Tần đã bấy nhiêu năm, sao không thấy nói đến lý lịch người này và tác phẩm của ông ta.

Lý Tư vẫn nghĩ rằng nhân dịp này thì nói qua về quan hệ đồng môn của mình với nhà đại học giả Hàn Phi nhằm khoe khả năng siêu phàm xuất chúng của mình, nào ngờ nhà vua lại muốn đi sâu tìm hiểu ngọn nguồn lạch sông của con người này, chắc là đang nóng lòng muốn làm quen với ông ta, chứ không phải tiện đây hỏi chơi. Nghĩ vậy, ông ta liền đáp:

- Hạ thần và Hàn Phi tuy học cùng một thầy, nhưng chí hướng khác nhau. Hạ thần ham mê sự nghiệp, muốn phò tá minh chủ, tham gia chính sự, nhằm giúp quân chủ tác thành đại nghiệp. Lập được chút công lao nhỏ mọn ấy là mừng. Còn Hàn Phi thì chuyên tâm vào việc sáng tác, phát huy khả năng biện luận, lấy đó hiến kế góp mưu cho các bậc quân vương, khích lệ người đời. Hạ thần không thấy ông ấy có ý muốn tham gia vào công việc chính sự, nên không tiện giới thiệu với bệ hạ để tiếp kiến.

Nhà vua không cho thế là đúng. Ngài nói:

- Phàm là học giả trước hết đều coi trọng ngôn luận, lấy sáng tác để trình bày. Hàn Phi ở đất nước ông ta, không được “nhà vua sáng” phát hiện, nên không có đất dụng võ. Do vậy đi đến chỗ bàn luận chung chung quá rộng. Nếu đến nước Tần, để ông ấy tiếp xúc với thực tế, có thể thấy hiệu quả hơn nhiều.

Lý Tư hiểu sâu sắc về tính cách và tác phong của nhà vua. Do đó, điều gì đã muốn là nhất thiết phải đạt cho được. Nay ngài đã rất thích Hàn Phi, nếu có cản trở cũng chẳng ăn thua gì. Vả lại, mình đã nói quan hệ bạn học với Hàn Phi, cho nên, chi bằng tiện thể giúp người khác một việc mà chẳng mất công gì, tức là cứ để cho vua gặp Hàn Phi, còn hơn là làm trái ý ngài để chuốc lấy sự nghi kỵ không hay ho gì. Nghĩ vậy, ông liền tỏ ra thản nhiên và nói với nhà vua:

- Đại vương khát khao cầu hiền, hạ thần hết sức bái phục. Hạ thần sẽ đi tìm Hàn Phi. Nhưng vua Vương An của nước Hàn tuy coi thường Hàn Phi, nay biết Đại vương muốn có người này, thì e rằng An Vương sẽ không cho vì sợ mất Hàn Phi. Điều này cũng chưa thể biết trước được.

Nhà vua suy nghĩ giây lát rồi nói nghiêm túc:

- Cứ làm theo cách: tiên lễ hậu binh [iii]. Khanh cứ đi sang đó một chuyến thử xem. Nếu không kết quả, sẽ đem quân tấn công để tìm bắt, phải tìm cho được người ấy mới đạt mong muốn của Trẫm.

Lý Tư thấy nhà vua rất quyết tâm, bèn vờ tỏ ra rất khảng khái và nhiệt tình ủng hộ:

- Đại vương đã quyết như vậy, hạ thần sẽ hết sức thuyết phục Hàn Phi để ông ấy đến nước Tần.

- Khanh đến nước Hàn, trước hết khiển trách việc Trịnh Quốc nước này đào kênh và việc nước Hàn phản bội nước Tần để bắt tay với nước Sở, làm cho Hàn phải sợ rồi phải nộp đất trao ấn và làm phiên thuộc (chư hầu). Đó là thượng sách. Nếu nhà vua Hàn không nghe, ta sẽ đem quân đội đi tìm kẻ học giả ấy, buộc Hàn phải cho Hàn Phi đến gặp ta - Nhà vua nói rõ choLý Tư về sách lược và biện pháp vừa cứng rắn vừa mềm dẻo khi sang nước Hàn. Lý Tư rất bái phục.

Năm thứ mười bốn niên hiệu Tần Doanh Chính (năm 233 trước Công nguyên) Lý Tư vâng lệnh nhà vua sang sứ nước Hàn. Khi đến kinh đô Dương Địch của Hàn, Lý Tư vào tạm trú tại dịch quán và trình thư ủy nhiệm lên nhà vua Vương An để xin yết kiến theo đúng thủ tục ngoại giao.

Vua Vương An vội gọi thừa tướng của mình là Hàn Thìn đến bàn đối sách.

Hàn Thìn suy nghĩ hồi lâu rồi trả lời với vẻ lo lắng:

- Việc Trịnh Quốc đào kênh, nhà Tần đã đình lại rồi. Từ đó đến nay, tập trung binh lực chống Triệu. Với nước ta không có gây cản gì, chẳng hiểu Lý Tư đến có việc gì.

- Mỗi khi nước Tần đến nước ta, không mượn đường thì cũng cướp đất. Lần này đến chắc chắn là chẳng có điều gì tốt lành cả đâu. Tốt nhất là không gặp, để họ chẳng làm được gì - Vua Hàn tuy là một quốc vương, nhưng bụng dạ hẹp hòi, tầm mắt thiển cận, chỉ muốn cầu an, không có chí khí. Trước cái thế hùng hổ của sứ thần nhà Tần, ông ta không đám xuất đầu lộ diện, chỉ muốn tránh mặt cho qua chuyện.

- Nước Tần đã sai sứ đến, ắt có mưu đồ gì đây. Nếu không gặp họ, vừa thất lễ đối ngoại, vừa không biết đây là sự việc gì. Nếu Lý Tư đến, là việc có lợi cho nước ta, thì cớ sao để mất cơ hội tốt này để tiếp xúc với ông ta. Theo ý hạ thần thì cứ tiếp kiến trước đã, nghe ông ta nói rõ ý định sau hãy quyết định cũng không muộn - Hàn Thìn rất biết nước Tần lất hùng mạnh, không thể coi thường để chuốc lấy tai họa, nên khuyên nhà vua tiếp kiến là hơn.

Nhưng vua Vương An lại còn một nỗi lo khác. Ngài giận dữ nói với Hàn Thìn:

- Lý Tư là đình úy của nhà Tần, chuyên trách việc pháp luật và điệp báo, nay tuy là làm sứ thần, e rằng lấy danh nghĩa quốc sự để lấy cớ thăm dò những điều cơ mật của nước ta. Cho nên, không tiếp là hay nhất, không thể tạo cơ hội cho ông ta lợi dụng.

- Nếu không tiếp sứ thần và đắc tội với vua Tần, thì hậu quả khó lường - Hàn Thìn đành phải thận trọng nói ra điều suy nghĩ chân thật của mình.

- Ta là vua một nước. Một lời là quyết định an nguy phúc họa của xã tắc. Nếu sứ giả đến là có thiện chí, và ta tiếp thu kiến nghị của họ là có ích cho nước ta. Nếu họ đến với ý đồ xấu ta tiếp thu họ sẽ có hại cho đất nước, không tiếp thu ý đồ của họ mới đắc tội với nước họ. Nay ta không tiếp kiến, sứ giả sẽ về không, như vậy ta tỏ thái độ coi thường Lý Tư mà thôi, không đến nỗi mắc tội với vua Tần - Nhà vua Vương An vừa khinh bỉ xuất thân nghèo hèn của Lý Tư, vừa cảnh giác với công việc của Lý Tư, nên vẫn kiên quyết không tiếp thế kiến.

Thừa tướng Hàn Thìn cố nhiên biết rõ rằng cách làm này của nhà vua là rất đường đột và kém sáng suốt, bèn sai một người thân cận của mình đến gặp Lý Tư, lựa lời nói khéo rằng nhà vua Vương An bị bệnh không thể tiếp khách, xin Lý Tư nói rõ ý định đến Hàn để trình lên nhà vua. Lý Tư biết rõ mười mươi là nói dối, nhưng không tiện giằng co, bèn nói rõ ý định để thông qua Hàn Thìn chuyển lên Vương An. Lý Tư nói:

- Tiếng tăm của Hàn Phi rất rộng, tác phẩm của ông ta được nhiều người hâm mộ, vua Tần muốn Hàn Phi đến Tần, thúc đẩy tình giao hảo giữa hai nước.

Hàn Thìn nghe xong, thấy rõ ý định của sứ thần nước Tần. Ông ta cảm thấy Hàn Phi ở nước Hàn chẳng được trọng dụng, bất quá cho ông ta đến nước Tần. Nếu ở đó ông ta có đóng góp cho việc bang giao hai nước, thì cũng coi như có cống hiến cho đất nước của mình. Nghĩ vậy, Hàn Thìn bèn trình tấu ý đồ của Lý Tư cho vua Vương An. Nào ngờ khi nghe Hàn Thìn nói xong, Vương An cho rằng Lý Tư đến không có chút đe dọa gì cả nên cảm thấy rất đắc chí ngạo mạn. Ông vốn bụng dạ hẹp hòi nên đoán già đoán non rằng Hàn Phi là bạn học với Lý Tư, ở đây Hàn Phi rất bất đắc chí (không thỏa chí). Nay Lý Tư lấy danh nghĩa sứ thần để mời Hàn Phi về Tần. Nếu Hàn Phi căm giận nước Hàn ra sức giúp Tần, sẽ nguy hại lớn cho Hàn. Đó là đại mưu đại kế của tên cầm đầu gián điệp này. Vì vậy, thà cứ để cho Hàn Phi chịu oan ức ở nước Hàn, còn hơn là thả cho ông ta đến nước Tần. Một nhà vua không biết trọng dụng nhân tài và bất lực như Vương An, cái sách lược lấy đề phòng làm chính sách ấy cũng không phải là không có đạo lý. Cho nên, rốt cuộc ông ta không tiếp kiến Lý Tư, cốt để nói rằng: “Thế đấy! Ta không cho Hàn Phi đến Tần, xem anh làm gì ta nào? Thậm chí còn phao tin rằng, nếu Lý Tư không về nước Tần thì sẽ giết quách ông ta cho xong!”

Một người đứng đầu ngành tư pháp và điệp báo như Lý Tư, sao lại có thể sợ sệt lời đe dọa của Vương An. Với tâm trạng rất bất bình, ông ta viết cho nhà vua Vương An một lá thư với lời lẽ rất nghiêm khắc, phân tích rất sắc bén. Đại ý thư như sau:

“Hai nước Tần và Hàn đã giao hữu với nhau, không xâm phạm lẫn nhau, các nước khác cũng không dám đến xâm phạm chúng ta. Điều này đã kéo dài mấy đời rồi. Có một thời gian, có mấy nước chư hầu phối hợp đánh nước Hàn. Nước Hàn ở vùng trung gian, lãnh thổ không đầy nghìn dặm, thế mà vẫn có thể ngồi ngang hàng với nước lớn, vua tôi vẫn bình yên vô sự. Đó là từ trước đến nay, đã đời đời kiếp kiếp tôn trọng nước Tần mà được như vậy. Nhưng sau đó năm nước chư hầu liên minh với nhau tấn công nước Tần, nước Hàn nhà ngươi lại đứng ra cầm đầu năm nước chống Tần. Về sau, thừa tướng của Tần là Đỗ Thương đã trả thù đem quân đánh chiếm đất Kinh Châu của nước Sở. Tướng Sở bảo vệ Kinh Châu cho rằng tai họa này là do nước Hàn: nước Hàn nhận thấy nước Tần bất nghĩa, vậy mà có một thời gian nước Hàn đã kết nghĩa đồng minh anh em với Tần, gây ra biết bao tai họa cho các nước chư hầu. Về sau nước Hàn lại phản bội nước Tần, đứng ra cầm đầu các nước chư hầu để tấn công Hàm Cốc Quan của Tần. Nhưng nước Hàn nằm ở khu trục trung gian giữa các nước, bị nhiều nước đánh từ nhiều phía, xoay chuyển theo hướng nào cũng không thể được. Vì vậy, các nước chư hầu đã cắt của Hàn mười thành trì để tạ tội với Tần, giải thể lực lượng vũ trang của Hàn. Như vậy, hễ nước Hàn phản bội nước Tần, là bị người khác đến xâm phạm, phải cắt lãnh thổ, binh lực đến nay vẫn còn rất yếu kém. Sở dĩ như vậy là vì không biết cân nhắc lợi hại, chỉ nghe lời ba hoa khoác lác của gian thần. Cho dù nay đã giết gian thần, cũng không tài nào làm cho nước Hàn cường thịnh lên được nữa”.

Sau khi điểm lại mối quan hệ gắn bó khăng khít như môi với răng giữa Tần và Hàn, chẳng hạn như việc Tần từng ngăn chặn nước Ngụy xâm lược nước Hàn, tỏ ra chính sách rất hữu nghị với Hàn, Lý Tư nhấn mạnh:

“Lần này vua Tần cử tôi đến Hàn, nhưng ngài không tiếp, lại lặp lại mưu kế của gian thần như trước và như vậy nước Hàn lại đứng trước nguy cơ mất nước”. Cuối cùng, Lý Tư cảnh cáo Vương An: “Vua Tần cử tôi sang sứ nước Hàn với ý đồ tốt, sao lại có thể nghĩ rằng tôi xuất thân hèn kém để không tiếp? Dù ông có giết Lý Tư này cũng không hề chứng tỏ nước Hàn mạnh. Nếu nước Tần chúng tôi đưa quân sang thì chẳng còn thương tiếc gì đâu, nước Hàn lúc ấy sẽ rất nguy hiểm! Vua Tần vốn dĩ chủ yếu đánh nước Triệu. Tôi sang sứ lần này là cốt để nghe xem ý kiến và kế mưu của ông như thế nào. Nay ông không tiếp kiến sứ thần, hai bên không thể trao đổi ý kiến để hiểu nhau, như vậy, nước Hàn chẳng có gì đáng tin cậy cả. Do đó, nước Tần có thể loại bỏ mối lo lắng đối với nước Triệu để chuyển sang tấn công nước Hàn. Xin ông suy nghĩ cho kỹ, để tôi về bẩm báo với vua Tần”.

Vua Vương An xem xong thư, cảm thấy quả đúng là nước Hàn suy yếu, không thể chống lại bất cứ nước nào đến xâm phạm, đối với mối đe dọa của nước Tần, cố nhiên là rất đáng sợ, nhưng vẫn nhận định một cách may rủi rằng: “Đó chẳng qua chỉ mới là răn đe mà thôi”, nên rốt cuộc vẫn không tiếp Lý Tư.

Lý Tư thất vọng trở về Hàm Dương. Ông trình báo với nhà vua Doanh Chính đầu đuôi mọi chuyện ở nước Hàn: vua Vương An của nước Hàn nhiều lần không tiếp kiến sứ thần, viết thư cho ông ta, cũng không được trả lời. Doanh Chính hết sức thất vọng, không kìm nổi tức giận, ngài lập tức sai các tướng Sử Đằng, Mông Quát, Mông Nghị đưa mười vạn quân đánh Hàn. Tin cấp báo có mười vạn quân Tần tấn công, thừa tướng Hàn Thìn của nước Hàn vội bẩm báo với vua Vương An. Vương An thực ra là một người nhu nhược, mồm thì nói đầu đội trời đạp đất nhưng trong lòng thì nhát như cáy, nghe Hàn Thìn cấp báo, bèn hồn bay phách lạc, không còn biết làm gì nữa, chỉ còn trông chờ vào kế sách của thừa tướng. Lúc ấy Hàn Thìn cũng lo buồn mặt như đưa ma, ông ta nhắc lại rằng dạo trước sứ thần của Tần đến, ngài tỏ ra hùng hùng hổ hổ, không thèm tiếp kiến. Nay quân Tần đến, ngài lại nhát gan như thỏ phải cầu cứu đến hạ thần. Nay chỉ có cách là mời công tử Hàn Phi sang sứ nước Tần, mới mong vua Tần bớt giận, rút quân. Vì vậy, Vương An tự mình đến thăm Hàn Phi khẩn cầu ông này rằng:

- Huynh đã học ở nơi rất danh tiếng, văn chương của huynh hạng nhất trên đời, tiếc rằng quả nhân có mắt như mù, không thấy núi Thái Sơn [iv], để cho tài năng của huynh bị mai một, thật là oan uổng. Trước đây ít lâu, Lý Tư đến nói rằng vua Tần hâm mộ học vấn của huynh, muốn đưa huynh về Tần. Lúc ấy ta không đồng ý vì rất căm giận nước Tần. Nay đại quân Tần kéo đến xâm phạm, đất nước lâm nguy, chỉ còn cách là nhờ huynh sang sứ nước Tần, tạ tội vua Tần để giải thoát nguy nan cho nước nhà.

Hàn Phi trả lời từ tốn:

- Từ lâu đại vương coi hạ thần như cỏ rác, nhưng vì nể tình họ hàng tôn thất nên lâu nay chịu đựng nhường nhịn. Vừa qua nhà Tần sai sứ sang tìm kiếm là họ thấy được tài nang của hạ thần, họ kính trọng danh tiếng của hạ thần nhưng đại vương lại không chấp nhận. Nay đại vương muốn cử hạ thần sang sứ nước Tần là đã chịu cái tài của hạ thần và chỉ mượn cái danh của hạ thần, sao lại lừa dối hạ thần đến thế cơ chứ.

Hàn Thìn thấy Hàn Phi không chịu, bèn vội lên tiếng khuyên can. Ông nói:

- Sở dĩ Đại vương chưa trọng dụng công tử, đó là vì nước ta nghèo, lực ta yếu, nội chính ngoại giao đều ứng phó theo cách con nhà nghèo. Tài năng siêu việt của công tử không thể một lúc phát huy có hiệu quả được, cho nên, chưa được chấp nhận, làm cho công tử quá bị thiệt thòi. Nay quân Tần hùng mạnh áp sát biên giới, số phận đất nước đang tính từng ngày. Vua Tần chỉ muốn có được công tử cho nên công tử sang sứ nước Tần, Tần sẽ rút quân giải vây, xã tắc thái miếu nước Hàn ta sẽ được bảo toàn. Nếu công tử không đi thì thành trì bị tàn phá trong chốc lát, vua tôi chẳng biết sống chết ra sao, công tử cũng mất đi chỗ dựa! Đáng buồn lắm thay! Rất mong công tử lấy triều đình và xã tắc làm trọng, gạt bỏ sự hiềm khích giữa anh em, kế thừa ân đức của tổ tiên.

Hàn Phi là một học giả rất yêu nước và trọng đạo nghĩa, cho nên, tuy bị đối xử không công bằng trong một thời gian dài, và rất oán giận nhà vua, nhưng trong giờ phút đất nước lâm nguy, ông cũng vứt bỏ thành kiến cá nhân, chấp nhận lời mời của Vương An, sang sứ nước Tần.

Mấy hôm sau, Hàn Phi ngồi xe bốn ngựa kéo có bánh rất cao, đi sang Hàm Dương với danh nghĩa sứ thần nước Hàn. Mặc dù ông thấy mình là một học giả lớn, một nhà tư tưởng lớn, nhưng lại bị sử dụng như một cái chiêu bài để ngăn cản đòn tấn công của quân Tần, thì thật là quá thiệt thòi. Nhưng lại nghĩ, trước đây, ông đã từng nêu lên rất nhiều phê bình và kiến nghị nhằm chỉ trích những thói hư tật xấu, thức tỉnh lòng người, cốt để xoay chuyển tình thế, làm cho nước Hàn Tổ quốc của ông, chuyển từ yếu sang mạnh, hơn thế nữa ông đã nhiều lần trực tiếp gặp nhà vua phân tích lợi hại, lại còn viết thành văn bản nghiêm chỉnh, đệ trình nhà vua, nhưng đều bị xếp xó, chẳng ai thèm ngó ngàng đến. Thử hỏi trên đời có còn đau khổ nào hơn thế nữa? Kể từ khi vua Tần cử bạn học Lý Tư sang đây đến nay, rồi sau đó đưa cả quân lính sang đòi cho được ta (Hàn Phi), sự thật đó cho thấy vua Tần đích thực hiểu được ta, và có ý trọng dụng ta. Vậy thì, nước Tần là nơi mà học vấn của ta, lý tưởng và hoài bão của ta, rất có thể được thừa nhận, được sử dụng và thi thố. Lúc ấy, “kẻ sĩ sẽ được người hiểu mình sử dụng” (sĩ vi tri kỷ giả dụng”); ta sẽ trình diễn một vở kịch lịch sử hùng vĩ huy hoàng trên sân khấu chính trị của đất nước hùng mạnh nhất hiện nay.

Chú thích:

[i] Triều đường là cung đình, cung điện: nơi triều đình làm việc, hội họp, thiết triều - ND.

[ii] Thái Hành Sơn: Núi Thái Hành dài 400km, độ cao trung bình cách mặt biển trên 1.000m, đỉnh cao nhất 1.882m. Nằm giữa cao nguyên tỉnh Sơn Tây và bình nguyên tỉnh Hà Bắc - ND.

[iii] Tiên lễ hậu binh: lễ nghi trước, tức là hoạt động ngoại giao trước, nếu không kết quả mới sử dụng vũ lực - ND.

[iv] Nguyên văn: Không thấy viên ngọc sáng láng - ND.