← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MƯƠI SÁU ĐỐ KỴ GHEN ĂN, BẠN THÀNH THÙ-HÀN PHI PHẪN CHÍ, CHẾT RẤT OAN--

Sau khi đến Hàm Dương vừa trình thư ủy nhiệm để xin yết kiến vua Tần, Hàn Phi đến gặp bạn học Lý Tư. Lúc gặp Lý Tư, lại còn có mặt cả thượng khanh Diêu Giá nữa. Ba người nói chuyện rôm rả. Lý Tư lấy tư cách chủ nhà bày tỏ thái độ vui mừng được đón tiếp khách quý. Ông ta nói:

- Trước đây tiểu đệ vâng lệnh vua Tần sang sứ quý quốc, cốt để mời bậc huynh trưởng đồng môn [i] đến nước Tần, nhưng vua Hàn Vương An không tiếp sứ thần, nên không thực hiện được ý nguyện. Thật lấy làm đáng tiếc!

- Huynh cũng quá câu nệ, trong khi chờ đợi bên đó sao cứ rụt rè mà không đến thẳng chỗ đệ nói nhỏ vài tiếng, làm rõ tình hình đôi bên thì có làm sao đâu. - Hàn Phi nói rất thẳng thắn lại còn thân mật nữa.

- Huynh trưởng đồng môn nói thật là thịnh tình, nhưng tiểu đệ sang đó là theo lệnh vua, mọi việc đều phải cẩn trọng. Trước khi chưa được vua Hàn tiếp kiến, thật không dám tự do thăm hỏi ai, sợ nhà vua nghi ngờ, sẽ trở ngại đến sứ mạng. - Lý Tư vội giải thích cho đối phương và tự trách mình - Mà khi đã khoác cái áo nhà quan vào thì bị ràng buộc đủ thứ, thật không bằng những bậc đại học giả lấy trước tác làm gốc, không bị trói buộc bởi chức vụ, hơn tiểu đệ nhiều lắm lắm.

- Huynh và đệ đều học ở một thầy mà ra, ai cũng có hoài bão. Nhưng huynh đã sớm biết xem xét thời thế, chọn được minh quân để phụng sự, rồi như đại bàng vỗ cánh, bay vút lên cao. Còn đệ thì cứ lang thang nhởn nhơ trong mấy hàng chữ nghĩa, tuy cũng có bàn về chuyện cai quản thiên hạ, giúp ích cho đời, nhưng không có đất dụng võ, chỉ uổng công nói suông chẳng có hiệu quả gì, thật hổ thẹn vô cùng! - Hàn Phi nói rất chân thành và sâu xa, vừa tỏ ra khâm phục Lý Tư, vừa bộc lộ nỗi buồn của mình không gặp thời.

Diêu Giá vội tiếp lời và cũng để thăm dò Hàn Phi, ông nói:

- Văn chương của tiên sinh rất sâu sắc cao siêu, lưu truyền rộng lớn. Vua Tần vừa đọc đã say mê, không tiếc thực thi các biện pháp rắn mềm để tìm cho được tiên sinh. Nay có tiên sinh đến, chắc là mừng lắm. Như vậy, ước nguyện từ lâu nay của tiên sinh sẽ được thực hiện. Chim ưng cất cánh tung hoành chắc là chỉ ngày một ngày hai nữa thôi.

Hàn Phi và Diêu Giá trước đây cũng đã có gặp nhau. Ông biết Diêu Giá chỉ là một con người tầm thường hám lợi lộc, rất giỏi đưa đẩy những lời nói sáo rỗng để lấy lòng người nghe, cho nên cảm thấy chẳng muốn nhập cuộc với hạng người này. Nay nghe những lời tâng bốc quá đáng ấy, cảm thấy rất không tự nhiên, bèn vội vàng bày tỏ lòng thành của mình. Ông nói:

- Lần này, đệ đến đây là vâng lệnh vua đến tạ tội với vua Tần để xin giảng hòa. Còn về cá nhân, nếu như lọt được vào mắt xanh vua Tần, và những quan niệm nông cạn của đệ về văn, lý, tri, hành [ii] được trình bày sơ lược trong các trước tác của đệ có thể giúp ích gì cho nhà vua, là mãn nguyện lắm rồi!

- Đệ và huynh cùng học với nhau mười năm trời, xưa nay đệ vẫn ngưỡng mộ phẩm hạnh cao quý của huynh là chỉ kết bạn vì văn chương, chỉ mong nhũng ai tri kỷ đồng tâm (tri kỷ: biết mình), đâu có phải vì bổng lộc vinh hoa. Nay huynh phụng mệnh đến Tấn, được vua Tần quý trọng. Hai nước Tần Hàn có thể đình chiến giảng hòa, biến gươm đao thành cuốc cày. May thay cho nước Tần! May thay cho Hàn quốc!

Lý Tư nói khá dài, cốt là để cho Hàn Phi hiểu rằng, lần này ông ta đến Hàm Dương là nhằm mục đích đình chiến giảng hòa, chỉ đạt được mục đích đó là được rồi. Vì vậy, Lý Tư nói tiếp, rất trịnh trọng:

- Vua tôi của nước Hàn đang ngóng trông huynh thắng lợi trở về, đủ thấy trọng trách mà huynh đang gánh vác, thật to lớn biết bao!

Hàn Phi từ lâu đã nghe tin vua Doanh Chính nhà Tần có tài năng vào loại hàng đầu thiên hạ, lại còn rất quý trọng hiền tài; và từng đọc tác phẩm của Hàn Phi, muốn kết bạn với mình, nhưng hiện nay, bản thân lại là mang danh sứ giả đến đây; cho nên, việc quan trọng nhất là hoàn thành sứ mệnh đình chiến giảng hòa. Còn việc của cá nhân thì chưa nên vội vàng tính toán, cho nên ông rất đồng ý với những lời vừa rồi của Lý Tư; và cho rằng những lời đó là sự quan tâm và gợi ý cho mình (Hàn Phi); điều đó cho thấy tình hữu nghị của bạn học là hết sức rất đặc biệt. Nghĩ vậy, Hàn Phi nói lời cảm ơn Lý Tư:

- Tiểu đệ lần đầu tiên nhận trọng trách, tự biết nước Hàn nhỏ bé của đệ đặt biết bao hy vọng. Nay nhờ bậc đàn anh trong các bạn học chỉ giáo, lại càng cảm thấy rất cẩn trọng trong lời nói và việc làm, nhằm giành được sự khoan dung của vua Tần, giải vây ngừng chiến, thực hành giao hữu. Được vậy mới không làm ô nhục sứ mệnh mà nhà vua nước Hàn giao cho.

Khi tan cuộc trò chuyện, Hàn Phi một lần nữa nhờ Lý Tư và Diêu Giá chú ý theo dõi tâm tư và thời gian tiếp sứ giả của vua Tần, để bản thân có sự chuẩn bị trước về tư tưởng. Lý Tư nói rất nhiệt tình rằng nhất định sẽ hết sức chú ý tới việc đó, bảo đảm cho Hàn Phi được tiếp kiến nhà vua vào lúc thích hợp nhất. Diêu Giá cũng nói rằng sẽ nói với trung xa phủ lệnh Triệu Cao chuẩn bị sẵn sàng, để cuộc hội kiến được diễn ra trong không khí tốt lành. Hàn Phi liên tục cảm ơn hai vị chủ nhà, và trở về dịch quán với tâm trạng rất vui vẻ thoải mái.

Sau khi Hàn Phi đi rồi, Lý Tư và Diêu Giá còn ngồi lại bàn bạc riêng với nhau khá lâu; chủ yếu là muốn giới hạn cuộc tiếp kiến của nhà vua với Hàn Phi chỉ diễn ra trong khuôn khổ “Việc công thường lệ” của hoạt động ngoại giao mà thôi; nhất thiết không để cho Hàn Phi thể hiện và phát huy những chủ trương chính trị độc đáo và siêu phàm của ông ta. Như vậy, cảm tưởng của Doanh Chính đối với Hàn Phi, quá lắm cũng chỉ là một học giả, một nhà lý luận mà thôi. Nếu Hàn Phi được Doanh Chính coi trọng, kiến nghị của ông ta được áp dụng, lý luận của ông ta được thực hiện, thì chắc chắn là bộ mặt chính trị của vương triều nhà Tần, cũng như trật tự kinh tế xã hội sẽ thay đổi to lớn. Như vậy, Lý Tư và Diêu Giá trên chính trường Tần quốc mà lâu nay vẫn tự khoe khoang là học rộng tài cao sẽ bị lu mờ, vì bây giờ đã có “hạnh thắm nên mai nhạt” [iii]. Vì vậy, hai người đề nghị với Doanh Chính: vì Hàn Phi là một học giả, mục đích chuyến thăm này lại rất đơn thuần, có thể tiếp kiến ở nội cung, chứ không tiếp kiến ở triều đường. Đồng thời, đưa lý do Hàn Phi nói lắp để yêu cầu được tham dự cuộc tiếp kiến, để lúc cần thiết, có thể nói rõ ý kiến của khách. Thật ra thì họ muốn được trực tiếp nghe và thấy thực tế và nội dung của cuộc nói chuyện giữa nhà vua và Hàn Phi, để có cách đối phó về sau.

Sở dĩ Doanh Chính cảm thấy thích thú Hàn Phi, chủ yếu là vì ngài thấy ông ta có những lập luận mới, phân tích sắc bén, thấu triệt bao quát mọi mặt, hết sức thiết thực. Vì vậy, ngài muốn gặp ông ta để trực tiếp bàn luận, trao đổi. Còn việc tiếp nhận thư ủy nhiệm và bày tỏ thái độ với nước Hàn là phụ thuộc vào thái độ của ta đây, vị quân chủ nước đại Tần hùng mạnh này, chứ đâu có phải là sứ giả đến hay không đến, và sứ giả đó là ai. Lần này, sách lược (tiên lễ hậu binh) trong việc tìm kiếm Hàn Phi chỉ tập trung vào việc tìm hiểu Hàn Phi và các tác phẩm của ông ta. Do vậy, kiến nghị của Lý Tư và Diêu Giá là phù hợp với suy nghĩ của ngài.

Còn Hàn Phi thì sao? Hàn Phi là công tử của hoàng gia nước Hàn, cho nên đã rất quen thuộc với khung cảnh nhà vua tiếp kiến sứ thần: dù là long trọng hay đơn giản, công khai hay riêng rẽ cũng thế thôi, chẳng cần quan tâm. Điều mà ông lo lắng là tật nói lắp của mình; chỉ sợ ăn nói không lưu loát thì người nghe không hiểu, và như vậy sẽ có hậu quả không tốt. Nay nghe nói nhà vua tiếp kiến ở phòng riêng, nên cảm thấy yên tâm. Vì như vậy, số người có mặt ít hơn, khách và chủ ngồi gần nhau hơn, nói nghe rõ hơn và hiệu quả sẽ tốt hơn. Như vậy, buổi tiếp kiến Hàn Phi của nhà vua Doanh Chính diễn ra trong sự thỏa thuận và vừa lòng của cả ba bề bốn bên.

Nhà vua Doanh Chính ngồi trên chiếc ngai rồng ở phòng xép trong cung điện. Trung xa phủ lệnh Triệu Cao đứng hầu bên cạnh. Diêu Giá không lộ mặt, chỉ ngồi ở phía sau tấm bình phong để nhìn và nghe trộm. Vì theo Lý Tư, số người có mặt càng ít thì càng không gây nghi ngờ cho khách. Bản thân Lý Tư được tham dự cuộc hội kiến với lý do ông từng là đặc sứ đã sang Hàn và là bạn học cũ của Hàn Phi, nên rất danh chính ngôn thuận. Hàn Phi và Lý Tư cùng bước vào phòng trong tiếng hô “sứ thần Hàn quốc bái kiến Đại vương”. Lý Tư làm động tác của người dẫn đường, chắp tay cúi mình, xong rồi lui sang một bên. Hàn Phi mũ áo chỉnh tề, quỳ xuống và đưa quốc thư bằng hai tay. Nhà vua đưa mắt liếc qua rồi ra hiệu cho Hàn Phi đứng dậy nói chuyện. Ngài hỏi:

- Trước đây, trẫm sai Lý Tư sang mời tiên sinh đến Tần, vậy mà trở về không vì không được tiếp kiến. Nay phải đưa đại quân áp sát biên giới, mới được vua Vương An cử tiên sinh làm sứ thần sang đây, tiên sinh nhận thấy như thế nào về tầm quan trọng của quý quốc?

Câu nói của nhà vua có thể hiểu thành hai ý, vừa tỏ thái độ miệt thị nước Hàn vừa tỏ ra chú trọng Hàn Phi. Hàn Phi nghe xong bèn trả lời cung kính:

- Nhà vua của tệ quốc tự cao, tự đại, phụ tấm thịnh tình của Đại vương, đến nỗi để cho quý quốc phải huy động quân đội. thật là đắc tội. Hàn Phi là sứ giả của tiểu quốc, phụng mệnh quân chủ Hàn quốc đến tạ tội Đại vương!

Doanh Chính cười vui vẻ, ngài rất vừa lòng. Ngài nói:

- Đã đến là tốt, chỉ cần biết nhận tội và sửa chữa trẫm cũng không đòi hỏi gì nữa.

Nghe Đại vương nói vậy thật là đôn hậu khoan dung.

- Nếu như được miễn mọi truy xét tội lỗi đã qua, giải vây rút quân, ban cho tệ quốc [iv] được hòa bình, thì vua tôi và con dân nước Hàn ghi lòng tạc dạ đại ân đại đức của bệ hạ - Hàn Phi cầu khẩn vua Tần mang lại bình yên cho nước mình, theo đúng sứ mệnh mà nhà vua giao cho.

Lý Tư cố nhiên rất muốn nhà vua bày tỏ thái độ về việc này để chấm dứt sứ mệnh “bé xé ra to” của Hàn Phi. Nghĩ vậy, ông ta nêu kiến nghị với nhà vua:

- Nghe bậc đàn anh đồng môn của hạ thần nói, vua Hàn Vương An đã biết rằng thuận với Tần hay nghịch với Tần là phúc họa an nguy của nước Hàn, nên cử Hàn Phi đến tạ tội, xem ra đã hối cải. Dám xin thánh thượng khai ân, rút quân giảng hòa như lời thỉnh cầu, để sứ thần có thể sớm trở về để phúc đáp với quân chủ nước mình.

Nhà vua nghĩ rằng lần này mình mất biết bao công phu, sau cùng phải dùng đến vũ lực mới đưa được Hàn Phi đến đây, chẳng lẽ chỉ để ký một thỏa ước là xong chuyện ư? Ý đồ của ta là ở chỗ khác cơ. Điều này thì chưa đạt được. Ta muốn bàn bạc với tác giả về ý nghĩa, giá trị và khả năng thực hành của các tác phẩm của ông ấy; nhưng những đề tài này đều chưa đề cập đến; vậy sao có thể vội vàng kết thúc cuộc gặp như công việc thường lệ hàng ngày vậy? Nếu làm như vậy, thì không phải chỉ vua tôi nước Hàn, mà ngay cả Hàn Phi cũng đều cảm thấy việc rút quân giảng hòa sao mà dễ dàng thế, mới nói một lời là xong; hóa ra cái uy danh của nước đại Tần vô địch đương đại là ở đâu; hành động của đại Tần chẳng bị coi là trò đùa đó sao? Vả lại, ta lại chưa hiểu được tài năng của Hàn Phi; bản thân ông ta cũng chưa nói gì về chí hướng và thái độ của mình, sao lại nêu lên vấn đề để cho ông ta về nước phúc đáp nhà vua? Nghĩ đến đây, ngài bèn nói trịnh trọng:

- Hai nước giao thiệp với nhau, dù là bằng ngoại giao hay chiến tranh, đều phải hết sức thận trọng. Huống chi, “quốc thư” của nước Hàn có nói rằng nước ấy sẵn sàng cắt đất treo “ấn” cho nước Tần và xin làm chư hầu. Điều này không thể chỉ đơn giản giao nhận vài cái văn bản bằng tre trúc là xong; càng không thể nôn nóng vội vàng.

Lý Tư nghe giọng nói và ý tứ của nhà vua, biết rằng mình đã lỡ lời, bèn vội nói để lấp liếm:

- Đại vương nói rất phải. Vi thần thấy tôn huynh Hàn Phi lần đầu sang sứ, lạ đất lạ người, thời gian chờ đợi để được tiếp kiến cũng dã lâu ngày, chắc là sốt ruột muốn về, cầu xin Đại vương sớm cho thánh ý, để ông ấy yên tâm. Nay thì ở lại mấy hôm cũng chẳng hề gì.

Nhà vua cười vui vẻ:

- Ra là vậy! Sứ thần phụng mệnh đến đây, tất nhiên muốn làm xong việc để sớm quay về. Nhưng Hàn tiên sinh đến Tần không phải là chuyện dễ dàng gì, nay đã đến rồi thì cứ yên tâm. Vả lại Trẫm muốn gặp tiên sinh, thực ra là vì đọc mấy tác phẩm lớn Cô Phẫn, Ngũ Hồ, Nội Ngoại Trữ cảm thấy rất sâu rộng, thấu triệt, nói rõ điểm chính, có nhiều điều răn, rất đáng khâm phục. Trẫm vừa kế tục cơ nghiệp huy hoàng của đại Tần, vừa ôm ấp chí lớn trị quốc bình thiên hạ, đã hơn mười năm nay, tuy cũng có thành công, nhưng phần lớn là gặp đâu làm đấy, rất tùy tiện. Nay đọc các tác phẩm lớn của tiên sinh, có nhiều phương sách về cai trị đất nước, giúp ích cho xã tắc, ổn định lòng người. Nếu được đại Tần ta vận dụng nhất định sẽ có hiệu quả. Vì vậy, muốn mời tiên sinh tranh thủ thì giờ sau khi làm xong công việc quốc gia đại sự, chỉ giáo cho Trẫm, giúp Trẫm nắm vững và đem ra thực hành. Như vậy ắt sẽ rất bổ ích cho quốc kế dân sinh, và sự nghiệp to lớn của Trẫm sẽ sớm được thành công!

Hàn Phi nghe nhà vua nói rất chân thành, cảm thấy hết sức xúc động. Nó chứng thực những lời đồn đại trước đây nói rằng nhà vua Tần Doanh Chính là vị quân chủ duy nhất có thể chèo lái thời cuộc và làm chủ thiên hạ. Chí hướng cao đẹp của ngài, khí phách kiên cường của ngài, ý chí kiên định của ngài, cũng như tinh thần cầu tiến và không ngừng tìm tòi học hỏi của ngài, tạo cho mọi người có ấn tượng rất tốt đẹp, có sức truyền cảm và hấp dẫn mạnh mẽ. Nếu như bản thân được ngài hiểu biết và sử dụng, thì chuyến đi này thật đáng công đáng của! Nhưng cái tâm nguyện muốn dốc bầu tâm sự đó trong buổi gặp gỡ này, chưa tiện bày tỏ được. Bởi vì nhà vua vừa mới tiếp kiến, lại có bạn học Lý Tư ngồi đó, nếu cứ thẳng đuột nói ra, chắc gì nhà vua và Lý Tư không cho rằng mình quá đường đột và nông cạn lắm sao. Vì vậy, ông ta vẫn trả lời nhà vua rất cung kính:

- Ngày nay các chư hầu tranh giành lấy nhau, thiên hạ nhiễu nhương, ai cũng lên tiếng, mỗi người một phách, chẳng ai nghe ai. Hạ thần chẳng qua là xem xét thời cuộc các đờ i trước, khảo sát sự biến đổi đời nay, tìm ra cái lý trong “thành bại được mất” của thế sự, viết thành bài thành sách, may mà được thánh thượng để mắt tới, thật là vinh hạnh vô cùng. E rằng đó chỉ là trò tập viết chữ nghĩa [v], không dám phô trương, chưa thể ra mắt mọi người được; nay được Đại vương vui mắt, giải trí, thế là may lắm rồi, sao dám nói đến chuyện chỉ giáo?

Nhà vua rất có cảm tình với cách ăn nói lễ độ khiêm nhường của Hàn Phi, vả lại, bản thân ngài cũng thấy rằng trong chốc lát không thể giải đáp hết được những vấn đề mà ngài đang rất cần bàn luận; vì vậy, ngài cũng không tiếp tục trao đổi nữa. Ngài nhổm dậy tỏ ý muốn kết thúc cuộc gặp; nhưng ngài rất vui khi giao hẹn với Hàn Phi rằng trong một ngày gần nhất, ông sẽ cùng vào cung trao đổi về các tác phẩm của ông ta. Hàn Phi rất cảm động, ông liên tục nói rằng rất sẵn sàng và cáo từ đi về dịch quán.

Lý Tư, Triệu Cao và Diêu Giá, mỗi người dựa theo những gì mà họ nghe được nhìn thấy, đều rút ra một nhận xét thống nhất: thái độ của nhà vua đối với Hàn Phi, từ chỗ yêu thích tác phẩm, đến chỗ tích cực chủ động mời tác giả đến và mong mỏi tác giả chỉ giáo. Đó là điều mà ba người này rất ghét, rất đố kỵ cay cú, nhưng lại chẳng biết làm thế nào. Vì vậy, họ lại bàn riêng với nhau. Họ đều cho rằng Hàn Phi nhờ có tác phẩm nên nổi tiếng thiên hạ, nhưng ở trong nước lại bị khinh rẻ lâu lắm rồi, cho nên ông ta rất buồn. Bây giờ được vua Tần biết đến rất có thể là ông ta sẽ bỏ nước Hàn để về với nước Tần. Một khi được Doanh Chính sử dụng, thì ba cỗ xe ngựa này làm sao có thể sánh bằng con ngựa ngàn dặm (thiên lý mã) ấy. Do vậy cần tìm chỗ sơ hở để hạ thủ, nhanh chóng loại bỏ vật chướng ngại trên con đường công danh của mình!

Nhà vua Doanh Chính, con người đang khao khát cầu hiền, và Hàn Phi, một nhân vật tình tình cởi mở, thẳng thắn chân thành, không có mưu mô, hoàn toàn chẳng hề biết âm mưu quỷ kế của hai người kia. Vì vậy, trong buổi gặp tối hôm sau của hai người, Doanh Chính và Hàn Phi nói chuyện với nhau rất tâm đắc thoải mái, không có chút gì là e dè câu nệ. Khi bàn đến những hình tượng sinh động và ngụ ý sâu sắc của những câu chuyện ngụ ngôn mà Hàn Phi viết trong “Thủ châu đãi thỏ” (ôm gốc cây chờ thỏ), “Mãi độc hoàn châu” [vi], “Tự mình mâu thuẫn”, nhà vua nghĩ rằng “nói dông nói dài, trở về bài chính”; ngài xin Hàn Phi chỉ giáo:

- Trẫm nghe nói môn pháp luật của khanh là tổng hợp của bách gia chư tử, vậy xin nói rõ cho Trẫm biết!

Hàn Phi trước hết thanh minh với nhà vua rằng ông có tật nói lắp, sợ nói không rành mạch, xin nhà vua lượng thứ. Tiếp đó, ông bắt đầu nói rõ ngay những ý chính:

- Những điều mà hạ thần nói về luật pháp (pháp học) là tổng hợp (pháp) (phép, luật, quản lý) của Thương Ưởng, “thuật” của Thân Bất Hại [vii], “thế” của Thận Đảo [viii], giống như cái đỉnh có ba chân, thiếu một là không được [ix].

- Như vậy rất tốt. Điều khanh vừa nói rất vắn tắt nhưng ý chính rất rõ, giúp Trẫm nắm được những điểm then chốt của nó. Nay khanh giải thích rõ cái lý của nó! - Nhà vua yêu cầu Hàn Phi đi sâu phân tích và luận chứng.

Các nhà học giả, văn nhân thường có một cái tật giống nhau đó là có thể về một mặt nào đó, họ yếu kém, thậm chí không biết gì, nhưng đi vào lĩnh vực của họ, thì họ rất thành thạo, có thể nói năng trôi chảy, thao thao bất tuyệt. Hàn Phi cũng vậy, khi nhà vua nói đến điều này, ông ta cảm thấy rất thoải mái, nói liền một hồi dài về các luận điểm của mình. Ông nói: “pháp” là quy củ, là chuẩn tắc, là chuẩn mực mà sự vật phải tuân theo chặt chẽ. Mạnh Tử nói: “Cái khéo của thầy Công Thâu [x], nếu không dựa theo quy tắc, thì không thể thành hình tròn (chu vi) được”, chính là nói về cái đạo lý ấy. Thương Ưởng đặt ra “luật của nhà Tần”, đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng tại sao vẫn còn xảy ra những vụ vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng về chính trị quân sự như vụ Lao Ái, Lã Bất Vi? Đó là vì thiếu lực lượng giám sát và trừng trị việc chấp hành “luật” (pháp). Điều đó cho thấy tầm quan trọng của “thuật”.

Đến đây, nhà vua có điều chưa rõ, bèn hỏi rằng, “luật nhà Tần” rất nghiêm chỉnh, sao lại bảo là chấp hành không tốt? Hàn Phi chú ý làm rõ điều này. Ông nói:

- Dù pháp luật rất chi tiết, chặt chẽ, nhưng không có người theo dõi, giám sát việc thực hiện, thì vẫn còn sơ hở nhiều lắm. Cho nên, cái gọi là “thuật” mà hạ thần nói, chính là những quy định và biện pháp cụ thể để giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật - Nói đến đây, Hàn Phi nhấn mạnh - Muốn phát huy chức năng giám sát của “thuật” thì phải lấy nguyên tắc bình đẳng làm tiền đề. Cũng có nghĩa “con vua phạm pháp cũng phải trị tội như thứ dân”. Chính ngài đã dùng cái “thuật” đó để đàn áp bọn nổi loạn Lao Ái và Lã Bất Vi. Thử hỏi: nếu cứ theo cái “lễ” của các nhà “nho” nói rằng “bậc đại phu không bị hình phạt” (hình bất thượng đại phu), thì hai vị được ban tước “hầu” ấy có trừng trị hay không? Cho nên đã gọi là “thuật” là phải thật nghiêm và mạnh tay; và không thể cho phép ai có đặc quyền và ngoại lệ. Nếu không, dù có “thuật” mạnh hơn nữa, cũng khó mà quán triệt chấp hành được.

Nhà vua luôn luôn gật đầu, rất tâm đắc. Ngài nói:

- Vậy là ta đã sử đụng chức năng của “thuật” để dẹp được loạn, ổn định xã tắc; hiệu quả thật to lớn! Nhưng tại sao chỉ mình ta mới làm được như thế, còn người khác thì không có sức mạnh quyết định như thế!

Hàn Phi đập tay vào bàn mấy cái để làm cho đối phương chú ý, rồi ra hiệu bằng tay và nói rất rõ ràng rằng:

- Đó là “thế” đấy. “Thế” cũng hết sức quan trọng. Cái gọi là “thế”, có nghĩa là ở một vị trí khống chế trên cao; ở vị trí đó, có thể làm chủ hết thảy bằng cái thế áp đảo của mình; cái thế đó là sức mạnh có uy quyền nhất. Nếu ngài không ở vị trí tối cao, không có cái thế là có uy quyền lớn nhất, thì làm sao có thể bao quát toàn cục; quyết định mọi việc; khi đã ban lệnh, mọi người phải theo; khi đã cấm chỉ, mọi người phải thôi! Vì vậy, muốn có “thế”, phải xây dựng bộ máy trung ương tập quyền, thống nhất, tập trung, kết hợp ba mặt “pháp”, “thuật”, “thế” lại với nhau thì có thể hình thành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh; một bộ máy giám sát theo nguyên tắc bình đẳng (trước pháp luật) và các biện pháp thực thi, (pháp luật) cụ thể, đồng thời, cũng có một chính phủ trung ương, tập trung, thống nhất, có uy quyền. Như vậy, sự nghiệp vĩ đại về trị quốc bình thiên hạ có thể được thực hiện thuận lợi và thành công....

Nói đến đây, Hàn Phi xúc động rơi nước mắt, vì ông chưa bao giờ lại có thể nói năng thoải mái những gì mà mình muốn nói, trước một vị quân chủ thông minh văn võ như thế. Doanh Chính cũng rất vui, đến nỗi ngài vỗ tay khen ngợi và tự tay nâng cốc rượu hoàng cung để tỏ lòng cảm ơn Hàn Phi.

Cuộc đàm thoại này kéo dài tới giờ Dần (từ ba đến năm giờ sáng) mới thôi. Nhà vua tiễn chân Hàn Phi tới bên ngoài phòng ngủ [xi] và bảo tiểu hoàng môn [xii] tự tay đưa xe để chở Hàn Phi về dịch quán. Cả hai người đều rất vừa lòng vì đã có sự hiểu nhau khá sâu về mặt tư tưởng.

Mấy hôm sau, nhà vua lại gặp Hàn Phi nhiều lần nữa, mỗi lần đều nói chuyện rất lâu. Hàn Phi nói với nhà vua về nội dung chính của các tác phẩm khác của ông. Như “Ngũ Hồ” là sách nói về năm khuyết tật lớn thường thấy trong việc sử dụng quyền lực nhà nước. Đó là năm loại sâu mọt đục ruỗng và làm nguy hại cơ thể quốc gia. Năm loại sâu mọt ấy: Thứ nhất, những hạng người huyênh hoang khoác lác về cái gọi là học thuyết của các tiên vương, học theo thời cổ, nhưng không tiêu hóa, thông thái rởm, bệ những ngôn từ trong sách vở và lễ nghi cổ xưa để chống lại luật pháp hiện hành. Thứ hai, những kẻ chiếm đoạt tiền của của người khác bằng cách làm ăn gian dối, hoặc câu kết với nước ngoài để bán rẻ lợi ích đất nước, mê hoặc quân vương, tổn hại lợi ích công cộng. Thứ ba, tụ tập băng đảng, tay cầm gươm giáo, hiệp sĩ giang hồ, lòe bịp thiên hạ, giả mạo họ tên, vi phạm luật hình. Thứ tư, những bọn ươn hèn nhút nhát, khiếp sợ chiến tranh, dựa dẫm quyền lực, trốn lính bỏ quân. Thứ năm, những kẻ thương nhân và thợ thuyền buôn gian bán lậu, sản xuất hàng giả, hàng kém phẩm chất, để kiếm nhiều lời, vơ vét của cải, ăn tiêu hoang phí.

Năm loại tệ nạn trên đây rất nguy hại. Nếu để chúng đục khoét, thì chính quyền sẽ mục nát, kỷ cương sẽ băng hoại, chính thể sẽ tan rã.

Sách “Nội trữ” là nói về quyền thuật (quyền lực và pháp thuật) của người thống trị. Người quân chủ (vua) vận dụng quyền thuật để khống chế bề tôi, làm cho bề tôi quy phục và tuân theo bản thân mình. Cho nên gọi là “nội trữ” (trữ lượng bên trong).

Sách “Ngoại trữ” là nói về vấn đề: xem xét thành tích của bề tôi để xác định công tội và thưởng phạt đúng đắn. Vì người được thưởng và chịu phạt, là những người không thuộc bản thân quân chủ (vua), cho nên gọi là “ngoại trữ”. Nội trữ hay ngoại trữ, đều là nhằm nâng cao năng lực của quân chủ trong việc phân biệt và phân tích phải trái. Những quan điểm đó đều rất phù hợp và đáp ứng nhu cầu của việc xây dựng một nhà nước pháp trị (cai trị bằng pháp luật). Do vậy, các sách ấy được nhà vua Doanh Chính hoan nghênh. Mỗi lần gặp gỡ của họ đều kết thúc rất vui vẻ.

Học giả Hàn Phi trở về công quán (dịch quán) ông cảm thấy rất phấn khởi, vì các chủ trương và lý luận, được vua Tần hiểu biết và tán thưởng. Nhưng với tư cách là thành viên của hoàng gia nước Hàn, ông thấy mình cần phải cố gắng làm một việc gì đó để đất nước mình thoát ra khỏi tai họa xâm lược và sự kiềm chế của nước Tần hùng mạnh. Nghĩ vậy, ông bèn viết cho vua Tần một bức thư rất trân trọng. Thư viết đại ý như sau:

“Nước Hàn thần phục đại Tần hơn ba mươi năm. Về mặt đối ngoại, Hàn giữ vai trò bình phong cho Tần; đối nội, ngài chi phối nước Hàn tùy theo ý muốn. Khi nước Tần đưa quân đi cướp đoạt đất đai nước khác, nước Hàn phải về hùa theo ngài, kết quả là các nước chư hầu trong thiên hạ đều oán hận nước Hàn, còn công lao thì lại được coi là của Tần. Nước Hàn lệ thuộc vào nước Tần, đã hạ thấp nước Hàn xuống địa vị một quận huyện. Nay lại nghe nói nước Tần đang nghe lời nước khác, định đem quân tấn công nước Hàn. Trong khi đó, nước Triệu đang tập trung lực lượng quân sự, nuôi dưỡng cả những thế lực theo đuôi họ, nhằm tập hợp toàn bộ binh lực trong thiên hạ ; để nói cho thiên hạ biết rằng: Nếu không làm suy yếu sức mạnh của nước Tần thì các chư hầu sẽ bị tiêu diệt, tôn miếu sẽ bị san phẳng. Chí hướng của họ muốn đưa quân tấn công phía Tây (nước Tần) không phải chỉ mới hình thành ngày một ngày hai. Vậy mà ngài lại loại bỏ mối lo ngại đối với Triệu, để thù dịch nước Hàn là nước “phiên thuộc” bên trong của nước Tần, trong khi cả thiên hạ đều biết ý đồ nói trên của nước Triệu.

Hàn là một nước nhỏ. Để đối phó với những cuộc đánh phá từ bốn phía, từ lâu nay, nhà vua Hàn chịu nhục chịu khổ để làm thân phận một nước phiên thuộc chư hầu; cả nước ai ai cũng đau buồn, cảnh giác với kẻ địch hùng mạnh, gia cố thành trì, để bảo vệ đất nước một cách vững chắc. Cho nên hiện nay muốn tấn công nước Hàn không phải là chuyện dễ dàng, không thể đạt được trong một năm hay dăm tháng. Nếu chỉ đánh một thành trì của chúng tôi rồi rút lui, thì chứng tỏ lực lượng của ngài không bằng các chư hầu; và như vậy, các nước chư hầu sẽ đến tiêu diệt binh lực của nước Hàn. Nếu nước Hàn phản bội nước Tần nước Ngụy nhất định sẽ hưởng ứng. Nước Triệu sẽ dựa vào hậu thuẫn là nước Tề. Như vậy, nước Hàn và Ngụy đều ủng hộ nước Triệu và đều dựa vào thế lực nước Tề, để củng cố lực lượng và cục diện (hợp tung). Do đó, cuộc đấu tranh rõ ràng là có lợi có nước Triệu; còn đối với nước Tần, thì lại là một nguy cơ.

Sau khi đi sâu phân tích và vạch rõ rằng, nếu nước Tần tấn công nước Hàn là tự làm suy yếu bản thân, còn nếu liên minh với nước Hàn để tấn công nước Triệu, đánh nước Ngụy, đó mới là thượng sách, Hàn Phi “nhấn mạnh”:

“Vũ lực là công cụ hung bạo và nguy hiểm. Việc sử dụng vũ lực phải hết sức thận trọng. Nước Tần và nước Triệu kình địch lẫn nhau. Nước Tề tham gia vào đó nhưng nghiêng về nước Triệu. Nay nước Tần phản lại liên minh với nước Hàn, trong khi không có chủ trương bình định nước Sở và nước Ngụy. Nếu như chiến dịch này không thắng được nước Triệu, thì sẽ rất nguy hiểm. Vận dụng sách lược vốn là để quyết định toàn cục; vì vậy, phải xem xét tổng thể. Năm nay là thời điểm có thể quyết định nước Tần hay nước 'Triệu, nước nào mạnh, nước nào yếu: Việc câu kết âm mưu của Triệu với các nước chư hầu là đã có từ lâu rồi. Nếu sử dụng vũ lực và bị các nước chư hầu đánh bại, sẽ rất nguy hiểm. Nhà vua muốn áp dụng sách lược đó, sẽ làm cho các nước chư hầu đến trừng phạt ngài, như vậy thật sự quá nguy hiểm. Hạ thần mong bệ hạ suy nghĩ kỹ càng. Nếu đưa quân tấn công sẽ làm cho những nước lệ thuộc ngài quay ra chống lại ngài, vậy thì hối hận cũng không kịp nữa”.

Bức thư trên của Hàn Phi thể hiện ý chí và sức mạnh của Hàn, tuy là một nước nhỏ, nhưng nhất quyết không dễ dàng khuất phục, không thể bị đánh bại một cách dễ dàng. Hàn Phi cũng nhấn mạnh mối quan hệ lợi hại; nếu Hàn lệ thuộc nước Tần, thì Tần mạnh; nếu Hàn phản bội Tần, Tần sẽ suy yếu. Ông còn nêu lên rằng: “Nếu Triệu liên minh với Ngụy, Tề, Sở, thì Tần sẽ bị cô lập, và rơi vào tình hình nguy cấp”. Mục đích của ông ở đây là nhằm làm thay đổi ánh mắt tham lam của Tần đối với Hàn, xúi giục Tần tấn công Triệu, từ đó giải tỏa mối uy hiếp của Tần đối với Hàn. Ông đọc đi đọc lại bức thư và cho rằng bức thư vừa tôn trọng địa vị nước lớn của Tần, vừa thể hiện thái độ của Hàn là vẫn giữ quan hệ lệ thuộc vào Tần, không phản bội Tần. Điều quan trọng hơn là ông tưởng rằng vua Tần Doanh Chính sẽ xuất phát từ lập trường và góc độ của nhà vua, để chấp nhận các kiến nghị trong thư của ông, giống như ngài đã từng hiểu các tác phẩm của ông; bởi vì, qua mấy lần nói chuyện vừa qua, ông thấy nhà vua tỏ ra khâm phục và tán thưởng ông rất rõ ràng. Khi ông đệ trình bức thư lên nhà vua Doanh Chính và chào từ biệt nhà vua, lòng tự hào và tự tôn trong người ông rất cao và cho rằng bức thư này có tác dụng hơn cả việc trình quốc thư cho vua Tần và việc nộp ấn tín, cắt đất cho Tần. Vì đó là sự đầu hàng của kẻ thất bại, là sự đánh mất quốc cách, còn bức thư là để cao quốc cách nước Hàn, bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền đất nước mình. Vì vậy, khi ông ngồi trên cỗ xe rất hào hoa dành riêng cho sứ thần để trở về cố đô Dương Địch của đất nước mình, ông cảm thấy vô cùng vui vẻ và cao ngạo, chẳng khác gì một vị tướng đại thắng đang cất cao bài ca “đắc thắng” trở về.

Khi về đến Dương Địch, ông bẩm báo với vua Hàn Vương rất đầy đủ mọi chuyện của ông ở Tần; đã hoàn thành nhiệm vụ tạ tội và xin giảng hòa với nước Tần; vua Tần Doanh Chính nhiều lần nói chuyện rất lâu với mình, quan hệ hai người rất hòa hợp. Vua Vương An vốn bụng dạ hẹp hòi, không xuất phát từ đại cục để tự nhìn nhận kết quả tích cực mà Hàn Phi đã thu được khi đi sứ nước Tần. Ngược lại, Vương An lại cho rằng Hàn Phi đề cao vua Tần Doanh Chính là cố ý hạ thấp ông ta, để trút bỏ tâm trạng bất mãn do ông ta không trọng dụng. Vì vậy, ông ta chỉ nói mấy câu cho xong chuyện rồi bảo Hàn Phi về nghỉ ngơi, khi nào có việc sẽ tính sau. Nhưng Hàn Phi là một người rất coi trọng công việc của mình, ông nghĩ rằng vua Doanh Chính nhà Tần còn có thể tiếp thu các lý luận và chủ trương của mình, vậy tại sao Vương An lại không tiếp thu? Ông cho rằng có thể là do trước đây mình chưa chủ động và cố gắng nhiều nữa, mà đến gặp Vương An nói rằng tôi đã dùng mưu kế để làm suy yếu nước Tần, nhưng chưa dùng mưu kế để cho nước Hàn mạnh lên. Tôi thấy nước Tần có nhà vua coi nhân tài quý hơn châu báu. Sở dĩ nước Tần mạnh là vì đã vận dụng sự kết hợp “pháp”, “thuật”, “thế” để cai trị đất nước. Ngoài ra, họ còn có rất nhiều học giả hiền sĩ. Nước Tần chiêu mộ nhân tài, không phân biệt quốc tịch, bất kể xuất thân cao quý hay thấp hèn, chỉ cần có một sở trường nào đó là sử dụng. Đó là nguyên nhân căn bản làm cho nước Tần trị nước có phương lược, thực hiện được nước giàu dân mạnh!

Hàn Phi muốn nhắc nhở vua Vương An cũng nên trọng dụng nhân tài, và cũng qua đó, bày tỏ tâm nguyện của mình muốn phục vụ đất nước. Nhưng kết quả ngược lại. Vương An vốn nghĩ rằng Hàn Phi tôn trọng vua Tần và khinh thường mình, nay lại khuyên mình nên học tập nước Tần trọng dụng nhân tài, đó chẳng phải là để cho mình tỏ ra hèn kém đó sao? Vì vậy, ông ta cũng chỉ nói mấy câu lạnh nhạt rồi bỏ mặc Hàn Phi ở đó.

Không lâu sau có tin cấp báo về quân sự cho biết quân Tần do Vương Tiễn, Hoàn Kỳ và Dương Đoàn Hòa chỉ huy đã đến Hàm Cốc Quan, chắc là muốn tấn công nước Hàn. Vua Vương An và thừa tướng Hàn Thìn vội bàn cách đối phó. Hai người cho rằng vừa rồi Hàn Phi đi sứ sang Tần đã đạt được mục đích đình chiến giảng hòa; hơn nữa, vua Tần lại có ấn tượng rất tốt với ông ta, chi bằng nay lại cử ông ta sang du thuyết vua Tần để Tần rút quân. Hàn Phi tuy rất thất vọng với Vương An, nhưng lại rất nhiệt tâm với công việc của đất nước, sẵn sàng giúp nước thoát khỏi tai nạn, huống hồ nay sang nước Tần sẽ có cơ hội để thuyết phục vua Tần tấn công nước Triệu; từ đó có thể căn bản giải tỏa mối đe dọa của Tần đối với Hàn. Nghĩ vậy, ông lập tức nhận lệnh và vội vàng lên đường đi nhanh sang Hàm Dương. Dọc đường, ông tận mắt nhìn thấy quân Tần đội ngũ nghiêm chỉnh, đang cấp tốc hành quân, bèn càng cảm thấy rất sốt ruột. Vì xe của ông là loại dành cho sứ thần, nên không tiện ghé lại hỏi tình hình, chỉ cắm cổ ra roi cho xe chạy nhanh để có thể đến Hàm Dương trong thời gian ngắn nhất.

Khi đến Hàm Dương, ông lại đến nhà công quán “dịch quán” trước đây để tạm trú. Đến đây, ông mới biết quân Tần lần này đi đánh nước Triệu, nhưng giả vờ phao tin đánh Hàn là để làm lạc hướng nước Triệu. Do vậy, Hàn Phi cứ tưởng là vua Doanh Chính đã tiếp thu kiến nghị của ông ta nên rất sung sướng đến nỗi suốt đêm không ngủ được. Sáng sớm hôm sau ông vội đưa danh thiếp cho quan hoạn xin yết kiến vua Doanh Chính. Sau đó ngồi chờ. Khá lâu sau, quan hoạn đi ra, trả danh thiếp cho ông và nói đại vương quá bận việc nước, hôm nay rất bận, để hôm sau mới gặp được. Hàn Phi nghĩ rằng mình cũng quá nôn nóng, vua Tần bận trăm công nghìn việc, nay chưa hẹn trước, làm sao có thể tiếp kiến mình trong hôm nay được. Nghĩ vậy, ông đành quay về dịch quán để chờ.

Hôm sau cũng chẳng có chuyện gì mới. Đến tối hôm thứ ba ông mới được vào yết kiến. Hàn Phi vui mừng hớn hở đi vào nội cung để gặp nhà vua Doanh Chính. Nhà vua vẫn vui vẻ tiếp và nói chuyện với Hàn Phi. Hàn Phi phấn khởi nói rằng khi nghe tin Đại vương đưa quân đánh Triệu, là biết Đại vương rất coi trọng ý kiến của hạ thần; cho nên, bây giờ sang đây lần nữa để bái yết ngài, cốt trình bày rõ sách lược đánh Triệu để Đại vương tham khảo. Nhà vua nói như vậy cũng tốt thôi, nhưng bây giờ quá bận, để lui hôm khác có thời gian sẽ nói kỹ hơn. Nói xong bèn đứng đậy tiễn khách.Hàn Phi cũng đành trở về dịch quán. Trong lúc nhàn rỗi, ông ta suy nghĩ: khi nào gặp lại vua Tần, nhất định phải thúc giục ông ta tăng cường sức mạnh tấn công nước Triệu, chỉ đánh một trận là diệt luôn. Quân Tần đã đi viễn chinh quá xa nên không đủ sức để đánh nước Hàn nữa. Nhưng ông ta hoàn toàn không ngờ rằng trong lúc ông đã nghĩ xa nghĩ gần, thì tai họa đang ập đến với ông. Sự việc như sau. Lần trước, sau khi ông về Hàn, vua Tần có xem bức thư của ông nói về việc Tần nên đánh Triệu chứ không nên đánh Hàn, nhà vua thấy rất có lý, bèn gọi Lý Tư đến cho xem và hỏi ý kiến Lý Tư. Lý Tư bèn nghĩ rằng dịp này là một cơ hội tốt, bởi vì chủ trương của Hàn Phi muốn Tần không đánh Hàn là hoàn toàn trái ngược với chiến lược của Lý Tư và Diêu Giá chủ trương: trước hết phải loại trừ Hàn sau đó đánh Triệu để giành thiên hạ. Nghĩ vậy, ông ta bèn ngồi suốt đêm viết cho nhà vua một bản tấu như sau:

“Hạ thần Lý Tư xin chịu tội chết để bẩm tấu Đại vương như sau: Nước Tần có nước Hàn bên cạnh, giống như có ung nhọt trong người, chớ thấy rằng nước Hàn nói họ bằng lòng làm phiên thuộc chư hầu cho nước Tần, nhưng đến giờ phút cuối cùng thì họ chẳng có gì đáng tin nữa. Hàn là một nước nhỏ, nhà vua của họ không muốn cai trị đất nước cho tốt, bầy tôi thì không biết cách phò tá nhà vua để cường thịnh, chỉ xúi giục Vương An bày trò quỷ kế âm mưu. Nên cứ để cho Hàn yên ổn tồn tại thì họ sẽ thực hiện nước mưu gian với các nước lớn. Trong thời gian qua, các nước Triệu, Sở, Yên, Tề đều đã có lúc tham gia liên minh “hợp tung” nhưng trước đó, nước Hàn đã có hành động, họ đã bợ đỡ xun xoe các nước lớn rồi, chủ yếu là cốt để tìm kiếm lợi ích cho mình. Nếu Tần đánh Hàn, Hàn sẽ không đủ sức chống cự. Nước Hàn bị tiêu diệt, cái ung nhọt của Tần sẽ được loại trừ. Nếu không diệt Hàn, một khi Tần giao chiến với các chư hầu, nước Hàn quấy rối và cản trở phía sau, rất bất lợi cho hành động quân sự của Tần. Nay Hàn muốn bảo toàn an ninh cho mình, nên cử Hàn Phi sang làm thuyết khách, hòng muốn Đại vương chuyển sang đánh Triệu, chẳng qua là muốn làm suy yếu lực lượng của Tần, để Tần không đủ sức tấn công sáu nước, bình định thiên hạ. Đương nhiên, Tần không phải là không thể đánh Triệu; nhưng khi tiến công, phải chọn đúng thời cơ, khi nào tình hình có lợi cho Tần mới hành động, không thể vội vàng hấp tấp. Nếu áp dụng kế sách của Hàn Phi, thì không những không đánh được Triệu mà ý muốn của Đại vương thôn tính toàn thiên hạ, cũng chẳng biết ngày nào mới thực hiện được. Hạ thần sợ rằng Đại Vương đã mắc mưu Hàn Phi, không thấy được dã tâm nham hiểm của ông ta, và như vậy, làm tiêu tan sự nghiệp vĩ đại của mình. Trước tình hình đó, hạ thần dám liều chết bẩm báo với Đại vương những điều nói trên, rất mong Đại vương suy nghĩ thật kỹ, thận trọng minh xét”.

Doanh Chính xem xong bản tấu của Lý Tư, cảm thấy rất hợp lý. Nhưng ý kiến của Lý Tư lại trái ngược với Hàn Phi, vậy ai sai, ai đúng, bỏ ai và nghe ai bây giờ? Với tư cách là một người quyết định cuối cùng, thì lúc này là lúc rất khó quyết đoán. Lúc ấy, Diêu Giá đi sứ nước Ngụy, Sở, Yên và Tề vừa về. Diêu Giá bẩm báo rằng vua tôi nước Hàn đang hí hửng vui mừng vì mưu kế của Hàn Phi làm suy yếu nước Tần, đã thành công. Vì vậy, Doanh Chính rất tin bản tấu của Lý Tư, và cho rằng Hàn Phi có mưu mô độc ác; từ đó ngài có ác cảm với Hàn Phi. Nhất là sau một lần nói chuyện khá lâu với Hàn Phi, ngài hỏi ý kiến Hàn Phi về Diêu Giá, xem Hàn Phi có hiểu biết Diêu Giá hay không. Hàn Phi là một học giả đúng đắn, ông khinh bỉ phẩm chất của Diêu Giá nên trả lời rằng, khi Diêu Giá làm “môn giám” ở Đại Lương, thường ăn hối lộ và đút lót mua chuộc, nên sau phải chạy sang nước Triệu, lại làm quan ở đó. Nhưng vì hành vi xấu nên rốt cuộc lại bị đuổi lần nữa. Hàn Phi còn cho rằng khi đi sứ bốn nước, Diêu Giá đã đem số vàng bạc châu báu của Tần định hối lộ trọng thần các nước, sử dụng cho cá nhân buôn bán riêng, lấy của công làm của tư, làm hỏng việc thực thi kế hoạch nhà nước.

Nhà vua đã gặp Lý Tư và bản thân Diêu Giá để hỏi rất nghiêm khắc về các việc nói trên. Lý Tư giải thích rằng, khi Diêu Giá ở Đại Lương và ở Triệu, là do căm ghét thời thế và thói xấu trong đời, nên thường hay phàn nàn kêu ca. Do vậy, ông ta bị kẻ khác vu cáo hãm hại. Bản thân Diêu Giá thì khóc lóc và nói với nhà vua rằng ông ta đi làm việc tình báo, phải mua chuộc người khác, và việc này không thể thực hiện với tư cách là sứ giả được. Còn việc buôn bán tư nhân là cốt để không lộ bí mật, kết quả công việc đều là vì lợi ích đất nước. Nhà vua nghe vậy bèn không truy cứu nữa; lại còn cho rằng Diêu Giá có công, nên phong chức và ban thưởng thêm cho ông ta. Từ đó, Lý Tư và Diêu Giá càng căm ghét Hàn Phi, và tìm mọi cách để soi mói, nói xấu Hàn Phi. Đó chính là nguyên nhân tại sao Hàn Phi đến Tần lần thứ hai bị nhà vua đối xử lạnh nhạt.

Hiện nay là giờ phút then chốt quyết định kế hoạch tác chiến chống chư hầu, Lý Tư bèn dựa vào cái thế có lợi của mình là thừa tướng để công kích Hàn Phi quyết liệt nhất. Ông ta nói với nhà vua một cách rất giật gân rằng:

- Mưu kế của Hàn Phi có vẻ như chịu khuất phục nước Tần và xin làm chư hầu, chỉ cốt bảo tồn được nước Hàn mà thôi, nhưng thực ra là lừa Tần, để Tần một mình đánh Triệu, khốn đốn trong giao chiến với các nước chư hầu để rồi Tần phải chịu thất bại, trong khi đó thì Hàn được lợi. Thật là dã tâm độc ác không ai bằng!

Doanh Chính vốn có nhận xét tốt về Hàn Phi, nên chưa tin hẳn những điều Lý Tư nói. Ngài nói do dự:

- Hàn Phi là hiền sĩ, đến Tần để cầu hòa, muốn bảo vệ nước Tần nên khuyên đánh Triệu. Điều này có thể tin được. Nay ta nhận Hàn Phi và dùng ông ta, chắc ông ta biết cái ơn tri ngộ (gặp và hiểu nhau) nên sẽ báo đáp trung thành, nhất định sẽ giúp Trẫm làm nên nghiệp lớn!

Lý Tư đáp lại một cách xảo quyệt:

- E rằng đó chỉ là sự mong muốn một phía của Đại vương mà thôi. Hàn Phi đem văn chương ra lòe bịp thiên hạ mê hoặc lòng người, thuyết phục bệ hạ, cốt để đạt mưu gian là làm suy yếu nước Tần, củng cố nước Hàn của ông ta. Nếu Đại vương tin theo ông ta, thì đó cuối cùng là vì nước Hàn chứ không phải vì nước Tần ta - Để dẫn chứng cho nhận định của mình, Lý Tư nói tiếp - Năm trước Trịnh Quốc đào kênh, Trịnh Quốc cũng ra sức nói việc này rất có lợi cho Tần, nhưng rốt cuộc hao người tốn của của Tần, phá vỡ mất kế hoạch chinh phạt các nước phía Đông của ta, và còn làm suy yếu nước ta. Trịnh Quốc và Hàn Phi đều là người Hàn, sao lại không thận trọng với họ?

- Hàn Phi ở trong nước bị coi thường, tất rất oán quân chủ của mình. Nếu ta dùng, chắc sẽ chống lại Hàn và giúp ta rửa cái nhục có tài mà bị mai một bấy lâu - Nhà vua vẫn cho rằng Hàn Phi sẽ vì ân oán cá nhân mà phản Hàn, trung thành với Tần.

Nhưng điều này lại tạo cơ hội cho Diêu Giá trả miếng lại Hàn Phi. Ông ta nói với vua Tần, cố ý xúc xiểm Hàn Phi:

- Hạ thần và Lý Tư đều xuất thân nghèo hèn, không được trọng dụng trong nước, may được bệ hạ rủ lòng thương, nên đương nhiên phải hết lòng trung thành, để báo hiếu với đại Tần. Còn Hàn Phi là công tử hoàng gia, là anh của vua Vương Anh tuy là bất đắc chí, nhưng vẫn là cùng tôn thất với nhau. Nay đưa cái tài thuyết khách để tranh thủ lòng tin của Đại vương, nhưng khẩu phật tâm xà, “miệng nam mô, bụng bồ dao găm”, một khi đến giờ phút quyết định, tất sẽ phản Tần. Hạ thần xin khóc lóc kêu than, cầu xin bệ hạ minh xét!

Lại còn trung xa phủ lệnh Triệu Cao và thừa tướng Xương Bình Quân cũng đều rất ghen ăn tức ở, cũng hùa nhau xúc xiểm Hàn Phi. Vì vậy, nhà vua từ chỗ tin Hàn Phi đến chỗ hoài nghi. Tuy nhiên, ngài vẫn nhận thấy Hàn Phi là một nhân tài hiếm có, cho dù có mưu mô đi nữa, cũng chưa thấy đem ra thực hiện, không thể kết tội được, bèn quyết định cứ tạm thời theo dõi giám sát rồi xử lý sau. Lý Tư là người phụ trách tư pháp và tình báo, thấy nhà vua quyết định như vậy, bèn bắt Hàn Phi giam vào nhà ngục Vân Dương; cách Tây Bắc Ung Châu [xiii] tám mươi dặm.

Hàn Phi tự nhiên vô cớ phải mang xiềng đi leng keng vào ngục, vừa căm phẫn vừa chẳng hiểu ra sao cả. Ông ta nghĩ lại tất cả những gì đã diễn ra trong hai chuyến sang sứ nước Tần. Trong những buổi nói chuyện rất lâu với vua Tần, ông đã ra sức bảo vệ nước Hàn, làm cho đất nước mình không bị diệt vong; việc làm đó là nhất quán, trước sau như một. Cho dù bức thư trình vua Tần có nêu lên việc Tần nên đánh Triệu, từ đó, đánh chiếm các nước chư hầu trong thiên hạ, đó cũng là để bảo tồn nước Hàn; và cũng là điều cần phải làm của một chí sĩ quan tâm lo lắng đến sự tồn vong mất còn của đất nước. Nếu vua Tần không nghe những đề nghị đó, cũng không thể coi đó là tội trạng gây nguy hại cho nước Tần. Còn các tác phẩm của ông, ông đã trình bày với vua Tần, đều rất phù hợp với mong muốn của vua Tần về việc xây dựng một chính phủ trung ương tập quyền. Đó là công chứ không thể là tội.

Hàn Phi không hề ngờ rằng kẻ xúc xiểm và hãm hại ông ta lại là Lý Tư, bạn học thân thiết của mình. Ông ta thậm chí còn nài xin Lý Tư nói khó với nhà vua cho ông ta được gặp nhà vua một lần nữa, để nói nỗi oan ức của mình và tỏ lòng trung thành với nhà vua. Nhưng ông chẳng được trả lời, mà còn nhận được một mệnh lệnh bằng văn bản đòi ông phải cung khai tội làm “gián điệp”. Đó thật sự là một điều sỉ nhục cực kỳ phi lý. Ông vắt óc suy nghĩ cũng không thể hiểu nổi. Bởi vì, chẳng lẽ những lời lẽ mà ông nói với vua Tần lại đắc tội ư? Nếu vậy thì nói chuyện cũng thật là quá khó. Trong lúc đang bế tắc, ông bèn gạt mọi sự đau buồn phiền muộn sang một bên, tập trung tư tưởng và ý chí viết một bài chuyên luận đặt tên là “Thuyết nan” (“Nói chuyện rất khó”). Khi viết đến chỗ xúc động nhất, có những câu rất bi thương và cảnh tỉnh như sau:

“Ôi con rồng biến thành con giun, có thể đùa giỡn với nó, cũng có thể cưỡi nó. Nhưng dưới cổ họng của nó có cái vẩy ngược rất lớn, dài đến một thước; ai động đến nó, nó cắn chết. Chúa thượng cũng có cái vẩy ngược lại như thế. Mấy ai có thể nói chuyện với Chúa thượng mà không động chạm đến cái vẩy ngược ấy”!

Hàn Phi đau khổ nghĩ rằng mình thật không sờ vào cái vẩy ngược dưới họng vua Tần, vậy tại sao ông ta đối xử với mình như vậy! Ông không hề nghĩ rằng mình sẽ bị giết; thực ra tử thần đang từng phút từng giờ đến gần ông ta. Vua Tần từng nói rằng Hàn Phi vô tội, không cần giam lâu, mà cứ cho ông ta về là xong chuyện. Nhưng Lý Tư, Diêu Giá, Triệu Cao đều cho rằng Hàn Phi là bậc kỳ tài đương đại, cho ông ta về là thả hổ về rừng, tất có hậu họa, nhất quyết không thả. Nhà vua nói với Lý Tư:

- Khanh có thể xem xét tình hình cụ thể để giải quyết.

Dựa vào câu nói ấy của nhà vua, Lý Tư có cái cớ để thực hiện mục đích của mình.

Hàn Phi vẫn suy nghĩ mãi về nguyên nhân đưa ông đến tù tội. Từ chỗ “đùa giỡn với vẩy rồng của Chúa thượng” đến chỗ liên tưởng đến nhà vua Doanh Chính, lại nghĩ đến những người có quan hệ với ông, bỗng nhớ đến câu chuyện sau đây:

Thời Chiến Quốc, nhà lý luận quân sự (binh pháp gia) nổi tiếng Quỷ Cốc Tử có hai người học trò rất giỏi. Đó là Bàng Quyên và Tôn Tẫn. Bàng Quyên sau này trở thành đại tướng của nước Ngụy. Vua Huệ Vương của Ngụy hâm mộ danh tiếng của Tôn Tẫn, bèn nhờ Bàng Quyên mời Tôn Tẫn đến nước Ngụy để cùng chủ trì công việc quân sự. Bàng Quyên thấy Huệ Vương rất coi trọng Tôn Tẫn, bèn từ chỗ đố kỵ sinh ra căm giận, bịa đặt tội lỗi để chặt hai chân của danh tướng Tôn Tẫn và khắc chữ trên mặt ông, để Tôn Tẫn không bao giờ được ai sử dụng nữa. Sau đó, Tôn Tẫn được mật sứ của nước Tề cứu thoát và đưa đến nước Tề. Vua Uy Vương của Tề phong Tôn Tẫn làm thống soái quân đội. Cuối cùng, Tôn Tẫn ngồi trên chiến xa đánh bại quân Ngụy; Bàng Quyên mắc mưu Tôn Tẫn, bị trúng tên tử nạn ở Mã Lăng.

Nghĩ đến đây, Hàn Phi tự nói với mình một cách rất đau khổ: “Chẳng lẽ ông ấy lại là một Bàng Quyên?”. Lúc này, cửa ngục mở toang, bọn đồng môn Lý Tư của ông bước vào và nói với ông:

- Vua Tần ban cho ông tự xử! - Nói xong, sai trưởng ngục mang một lọ rượu độc đến đặt trước mặt Hàn Phi.

Lý Tư đến rót rượu đầy chén, vừa nói vừa rơi nước mắt:

- Đệ hết sức xin nhà vua tha cho huynh, nhưng không được!

Hàn Phi uống một hớp cạn chén rượu, hai mắt sáng quắc nhìn thẳng vào Lý Tư, rất căm hờn, ông nói:

- Rất tiếc là không thể diễn lại câu chuyện ở Mã Lăng! - Nói xong, ngã gục xuống.

[i] Huynh trưởng đồng môn: bậc đàn anh trong các bạn học cùng khóa - ND.

[ii] Văn, lý, tri, hành: Văn là văn chương hoặc pháp luật. Lý là lý luận nói chung hoặc là lý luận về "lý học", một học thuyết triết học của Trung Quốc. Tri là tri thức, kiến thức, hiểu biết. Hành là hành động, việc làm (một trong hai vế lời nói và việc làm); hoặc là hạnh: phẩm hạnh, đức độ, đạo đức - ND.

[iii] Mượn một phần câu thơ của Nguyễn Du để dịch ý.

[iv] Tệ quốc: Nước tồi tệ của chúng tôi. Tiếng tự xưng khiêm tốn, trái ngược với tiếng "quý quốc," nhưng "quý quốc" là ngôi thứ hai. Người ta còn nói "tệ xá" là ngôi nhà tồi tệ của tôi - ND.

[v] Nguyên văn: “điểu trùng tiểu kỹ”. “Điểu trùng" là chim và con sâu giun. Tức là một trong tám kiểu chữ triện thời Tần; hình thù ngoằn ngoèo như con giun, con chim, nên gọi là "điểu trùng". Loại chữ này được khắc trên vũ khí, cờ hiệu, hổ phù, ấn tín, chuông. "Tiểu kỹ" là trò kỹ xảo nhỏ mọn. “Điểu trùng tiểu kỹ" có nghĩa đây là trò viết chữ Nho mọn, chẳng có giá trị văn chương gì - ND.

[vi] Mãi độc hoàn châu: "Mua hòm gỗ trả tại châu báu”. Chuyện kể rằng có một người nước Sở mua một cái hòm gỗ của người nước Trịnh. Lúc đưa hòm về nhà, thấy bên trong có nhiều châu báu ngọc ngà. Ông ta bèn trả lại người bán số báu vật đó, chỉ để lại chiếc hòm không. Về sau, câu này ngụ ý nói đó là con người đần độn, lấy cái không đáng lấy, bỏ cái không đáng bỏ - ND.

Chú thích:

[vii] Thân Bất Hại, năm 385-337 trước Công nguyên, nhà tư tưởng lớn thời Chiến Quốc, nhân vật tiêu biểu của "pháp gia" - ND.

[viii] Thận Đảo, năm 395-315 trước Công nguyên, một trong những nhân vật. tiêu biểu của phái Pháp gia - ND.

[ix] Thế ba chân đó là: "pháp", "thuật" và "thế” - ND.

[x] "Công Thâu” tức Lỗ Ban người nước Lỗ, thợ xây và một bậc thầy thời Xuân Thu, có nhiều phát minh về kiến trúc và đồ mộc, được tôn vinh là sư tổ - ND.

[xi] Rất hiếm có.

[xii] Hoàng môn là tên gọi quan hoạn trong cung. Có đại hoàng môn (cấp cao) như Triệu Cao, và tiểu hoàng môn, cấp thấp hơn - ND.

[xiii] Ung Châu: một trong chín châu thời cổ đại Trung Quốc, hiện. nay thuộc vùng sông Hoàng Hà ở địa phận giáp giới tỉnh Thiểm Tây và Sơn Đông - ND.