← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MƯƠI BẢY ÚY LIÊU BÀY MƯU, HỐI LỘ GIAN THẦN-TRUNG QUÂN LÝ MỤC RƠI ĐẦU NGẬM OAN--

Tần Doanh Chính rất chăm lo công việc chính trị và rất chuyên cần học tập. Việc này thật hết sức đáng quý. Ngài tự quy định mỗi ngày phải đọc 120 cân sách bằng tre. Theo chế độ đo lường thời Tần, một cân lúc đó bằng nửa cân Trung Quốc, hiện nay, tức là 60 cân (bằng 30 kg). Đó là một số lượng khổng lồ! Ngoài con số quy định đó, ngài còn thường xuyên đọc sách kinh điển, sách sử và tác phẩm của danh nhân đương thời, nhằm nâng cao kiến thức và trình độ lý luận của mình. Đến hôm nay ngài lại ngồi một mình trong phòng ngủ và đọc 'Thuyết nan” của Hàn Phi. Khi đọc những dòng chữ có lối hành văn rất sáng sủa, thí dụ sinh động ngụ ý sâu sắc, ngài lại liên tưởng đến cái tật nói lắp của Hàn Phi, ngài thấy tác giả tuy nói năng khó khăn, nhưng việc viết lách lại rất có kỹ xảo, trình độ cao; ông trình bày tư tưởng sâu sắc của mình một cách hết sức sinh động thấu triệt, đọc lên như thấy văng vẳng bên tai, rất thức tỉnh lòng người! Khi ngài đọc đến câu: “Con rồng biến thành con giun, có thể đùa giỡn nó cũng có thể cưỡi. Nhưng dưới cổ họng của nó có cái vẩy ngược rất to, dài đến một thước, ai động đến đó, sẽ bị cắn chết. Chúa thượng cũng có cái vẩy ngược như thế, mấy ai nói chuyện với Chúa thượng mà không động đến cái vẩy ngược ấy!”, ngài lập tức giật nẩy mình, bất giác nhớ lại buổi nói chuyện với Hàn Phi. Khi Hàn Phi nói về “pháp”, “thuật”, “thế” của mình, và về thực chất và cách vận dụng cách nội ngoại trữ, ông ta đều không động chạm tới cái vẩy ngược của Chúa thượng (Doanh Chính) của ông ta. Nhưng đoạn văn thống thiết này của Hàn Phi lại ẩn chứa rất nhiều điều oan ức, thấp thoáng để lộ ra câu nói tự đáy lòng đầy máu và nước mắt! Nghĩ đến đây, ngài cảm thấy rất buồn, vì đã hiểu lầm và làm oan uổng Hàn Phi. Vì vậy, cần phải thả ngay ông ta ra, mời ông ta làm phò tá cho mình. Sáng hôm sau, ngài bèn gọi Lý Tư đến và hỏi:

- Hàn Phi bây giờ như thế nào?

Lý Tư đã có chuẩn bị từ trước, nên trả lời rằng Hàn Phi tính tình rất nóng nảy, luôn kêu la chửi mắng, khuyên can không được, cuối cùng phát cáu phát khùng đến nỗi ốm bệnh rồi chết trong ngục. Nhà vua tức giận vô cùng, mặt ngài tái mét, định ra tay một phen. Nhưng sau nghĩ lại rằng mình đã nói: “Khanh tùy theo tình hình cụ thể để giải quyết” và giao quyền cho Lý Tư, nên mới đi đến tổn thất không thể cứu vãn được như thế này. Do đó, cũng không tiện khiển trách ông ta nữa. Lý Tư đương nhiên là có tật giật mình, chỉ cần nhà vua không trị tội ông ta, là may mắn lắm rồi. Để che giấu tội đố kỵ và ngược đãi nhân tài của mình, Lý Tư tiến cử cho vua một nhân vật nổi tiếng và có tài trí hơn mình rất nhiều, đó là Liêu Tử.

Từ thời cổ đại, “họ” của người Trung Quốc chủ yếu là tên của bộ lạc hoặc của thị tộc nổi tiếng; hoặc là lấy tên “đất phong” làm “họ” của vị quan được phong đất đó. Còn những người dân thường, thì chỉ có tên không có “họ”. Liêu Tử là con người như thế. Tên của ông ta là Liêu Tử, không có họ. Thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc và tiên Tần rất coi trọng nhân tài, nói chung rất ít chú ý xuất thân. Liêu Tử nổi tiếng trong thiên hạ lúc ấy là do có học thức rất rộng và tài năng xuất chúng. Nhiều năm qua, Liêu Tử bôn ba qua các nước chư hầu, thấy vua các nước này không có chí lớn, không có mưu lược, nên ông ta cứ đến rồi lại đi, hết nước này đến nước nọ, cuối cùng đến Hàm Dương nhà Tần. Khi đến nơi vừa đúng lúc vua Tần đang buồn vì mất Hàn Phi và đang rất cần nhân tài. Vì vậy, ông được Lý Tư giới thiệu, quả thật là một cơ hội hiếm có. Cho nên, khi Lý Tư giới thiệu Liêu Tử cho Doanh Chính, thì nhà vua rất mừng, ngài vội hỏi:

- Như khanh nói, thì Liêu Tử là người đại đạo mà Trẫm đang cần để giúp Trẫm trị quốc cầm quân, người đó bây giờ ở đâu?

Lý Tư vừa cười vừa trả lời:

- Vừa từ nước Hàn vào Tần từ tháng trước. Hạ thần để ông ta ở dịch quán, đã xin bệ hạ tiếp kiến mấy ngày nay rồi.

- Đã đến Hàm Dương rồi thì cho vào gặp - Doanh Chính đã quen cái cung cách tiếp khách với tư thế kẻ cả.

Lý Tư nêu đề nghị với thái độ rất trân trọng:

- Liêu Tử tuy là dân áo vải, nhưng tài trí hơn người; từng đến sáu nước nhưng không ở lại nước nào, và chỉ muốn phục vụ nhà Tần, vì hâm mộ bệ hạ có chí hướng, có mưu lược, biết chiêu hiền đãi sĩ; ông ta sẵn sàng phò tá Đại vương làm nên nghiệp lớn. Nếu tiếp đơn giản, e có phần thất lễ xem thường, mà nên nghênh đón như thượng khách, để tỏ rõ bệ hạ rất coi trọng hiền tài. Xin bệ minh xét!

Nhà vua nghĩ rằng vừa mới xảy ra chuyện Hàn Phi chết bệnh trong ngục, e rằng có thể có người nghi ngờ nhà Tần đối xử không tốt, cho nên, nhân dịp này, tiếp đón Liêu Tử thật tử tế, vừa để xóa bỏ ảnh hưởng chẳng đẹp đẽ gì vừa qua, vừa thể hiện sự khoan dung và quý trọng hiền tài của nhà Tần. Nghĩ vậy, ngài bèn chấp nhận kiến nghị của Lý Tư. Nhà vua sai Lý Tư đích thân đưa xe dành riêng cho bậc công khanh đến công quán đón Liêu Tử và học trò của ông ta đến cung Hàm Dương. Bản thân nhà vua ra đón tại cửa cung. Liêu Tử đi xe đến cửa cung, Lý Tư dìu ông ta xuống xe, bước dần lên các bậc tam cấp. Nhà vua tươi cười cùng với Liêu Tử đi vào đại sảnh hoàng cung, xong đứng vào vị trí chủ nhân để chào khách. Liêu Tử đứng ở vị trí của khách, nhưng không quỳ xuống vái lạy, mà chỉ chấp tay vái chào. Nhà vua thấy khách có cái trán thông minh, tiềm ẩn một đức tính kiên nghị hào hùng, bèn nghĩ rằng đây là một tướng tài văn võ kiêm toàn vừa trí vừa dũng. Vì vậy, nhà vua cũng chắp tay chào lại và nói rất kính trọng:

- Liêu tiên sinh thao lược sâu rộng, là tướng tài đương thế, Trẫm ngưỡng mộ từ lâu. Hôm nay tới nơi này, mong chỉ giáo cho ta.

- Liêu này chỉ manh áo vải, số mệnh nhỏ nhoi, may được Đại vương rủ lòng thương, được vậy là cảm kích vô cùng. Nay xin đem hết tài hèn sức mọn, hiến dâng tất cả những hiểu biết về phương lược chính trị quân sự để phò tá bệ hạ hoàn thành sự nghiệp thống nhất thiên hạ - Liêu Tử từ lâu bị mai một, không ai biết đến tài năng của mình, nên đâm ra lặng lẽ ít nói. Nay được nhà vua đón tiếp thân mật, cố nhiên là rất nhiệt tình.

Lý Tư thấy hai bên rất vui vẻ, hòa nhập với nhau, bèn nói mấy lời chúc mừng:

- Ngày nay, thế sự nhiễu nhương, khó phân biệt phải trái. Cuộc đời Liêu tiên sinh gặp nhiều rủi ro, ai cũng thông cảm! Nay được thánh thượng biết đến tài năng, chẳng khác gì Thái Công gặp Văn Vương, Quản Trọng gặp Hoàn Công. Từ nay, tiên sinh sẽ thỏa lòng ước nguyện, như cá gặp nước. Đại vương sẽ có dịp để thực thi chí hướng vĩ đại của mình, thật như diều gặp gió. Đó chính là cái may của tiên sinh, cái đức của bệ hạ và cái phúc của đại Tần vậy!

Nhà vua cười và khen:

- Lý khanh nói rất phải! Trẫm được các khanh phò tá, văn võ mọi bề đều làm được rất nhiều việc. Duy chỉ có các nước chư hầu thì lúc hợp lúc tan, rất khó nắm bắt, mặc dù luôn dùng vũ lực giải quyết, nhưng cũng lúc thắng lúc bại, đến nỗi cứ kéo dài tình trạng đó mãi, không thắng dứt điểm được. Chỉ lo tướng sĩ mệt mỏi, mưu thần sai sót thì làm sao có thể thôn tính sáu nước để đem lại thái bình cho thiên hạ được? Nay Liêu tiên sinh đến đây chắc là có thể nhìn thấu toàn cục, vạch ra đại kế, giúp ta mưu việc lớn, triển khai một cục diện chiến tranh mới, để tướng soái đại Tần nắm chắc phần thắng trong tay?

- Những lời của bệ hạ thật là đại chí hùng tâm, hạ thần rất kính phục. Nhưng việc nhà binh, chủ yếu là mưu kế, tác chiến chỉ là “thuật”, nếu chỉ muốn tốc chiến tốc thắng, thì chỉ cần hỏng một mẹo là mất toàn quân. Cho nên cần chú trọng mưu lược, mới có thể tránh được mũi nhọn của kẻ địch, để đánh vào chỗ “yếu hại” của nó, đưa chúng ta từ bại thành thắng. Nay hạ thần mới đến đây, chưa biết bệ hạ dự định đánh phạt ở đâu, bố trí quân sự thế nào, xin Đại vương cho biết để hạ thần đóng góp đôi điều - Liêu Tử thẳng thắn và vạch rõ tính chất phiến diện của tư tưởng hiếu chiến nôn nóng, nhấn mạnh phải dùng mưu lược để khống chế và chiến thắng quân địch.

Nhà vua rất vui, ngài luôn gật đầu và nói:

- Liêu tiên sinh thật sự rất tài thao lược, nắm vững quân cơ, chỉ một câu mà vạch ra nguyên cớ tại sao đánh Triệu rất lâu mà không thắng, lại còn thất bại thảm hại nữa chứ. Nay sẽ nói rõ tình hình chiến trận vừa qua để tiên sinh có cơ sở để chỉ giáo cho Trẫm.

Nói xong, ngài cho gọi thừa tướng Vương Quán và đại tướng quân Vương Tiễn đến nói cho Liêu Tử biết tình hình chiến sự với nước Triệu gần đây.

Tình hình đó như sau: Sau khi thua to ở Bình Dương - Vũ Uy, vua Vương Thiên của Triệu tiếp thu kiến nghị của lão tướng Tư Mã Thượng, cho gọi Lý Mục, lúc ấy là tướng quân phòng thủ biên giới, chống trả quân Hung Nô, về Hàm Dương và phong làm đại tướng quân, giao cho Lý Mục làm thống soái, Tư Mã Thượng làm phó thống soái, hợp lực bảo vệ kinh đô Hàm Đan. Lý Mục là danh tướng của nước Triệu, từng chống trả quân Hung Nô hơn mười năm, làm cho người Hồ không dám tiến xuống phía Nam, bảo đảm an toàn cho miền Bắc nước Triệu. Lý Mục nhờ vậy, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm tác chiến phong phú và thực dụng như: lấy nghỉ ngơi để chờ đánh kẻ địch đã mệt mỏi, lấy “tĩnh” đối phó với “động”, lấy “hư” đối phó với “thực”, lấy ít thắng nhiều... Lần này trở về Hàm Đan, ông căn cứ vào tình hình thực tế của trận đại bại vừa qua của quân Triệu ở Bình Dương - Vũ Uy, để bổ sung quân số, cho quân nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại, tăng cường huấn luyện, nắm vững các chiến thuật và các loại hình trận địa, nâng cao sĩ khí và tinh thần dũng cảm kiên cường của quân Triệu, sẵn sàng chống trả quân Tần đến xâm phạm (những nơi diễn ra các trận đánh của chiến dịch này đều nằm trong địa phận tỉnh Hà Bắc hiện nay).

Khoảng giao thời giữa hạ và thu năm thứ 15 niên hiệu Doanh Chính, đại tướng nhà Tần Hoàn Kỳ đưa 15 vạn quân ồ ạt kéo đến Phiên Ngô, một vị trí xung yếu ở cách Hàm Đan ba trăm dặm, và bố trí một trận địa tấn công ở phía Đông núi Vương Mẫu Sơn. Lý Mục và Tư Mã Thượng vội triệu tập các tướng để bàn kế sách đối phó. Tư Mã Thượng và các tướng trẻ đều chủ trương chủ động xuất kích để chặn đứng quân địch ở bên ngoài biên giới. Nhưng Lý Mục nói rằng:

- Binh pháp Tôn Tử nói: “Chiến tranh không nhất thiết phải chiếm đất”. Trước đây, quân Tần đến đánh chúng ta, quân ta bao giờ cũng chủ động xuất kích. Nay đã quen nếp cũ thì thế nào cũng lặp lại bánh xe đổ lần trước. Hiện giờ quân Tần đóng ở Vương Mẫu Sơn, như vậy chúng muốn chiếm đoạt thành Phiên Ngô. Nếu chúng ta xuất kích đánh chúng, sẽ rơi vào thế bị động, phải đánh dã chiến, sẽ mất thành trì. Vì vậy, chúng ta chỉ nên cố thủ, cứ để cho quân Tần đánh chiếm Phiên Ngô. Nhưng đó chỉ là một ngôi thành trống không, quân Tần chiếm đóng ở đó cũng coi như bị giữ chân; cứ án binh bất động, quan sát động tĩnh của quân Tần.

Đại tướng quân Hoàn Kỳ cứ tưởng rằng khi ông ta đánh chiếm Phiên Ngô thì quân Triệu sẽ đến cứu viện, giống như lần trước, và như vậy, tất sẽ bị quân Tần đánh mai phục dọc đường và thất bại. Lý Mục đã thừa biết quân Tần lại giở cái mẹo cũ rích ấy ra, nên nhất quyết không ra đánh. Quân Tần thấy quân Triệu không đến đánh, rất thất vọng. Hoàn Kỳ biết Lý Mục cũng không phải tay vừa, mà rất túc trí đa mưu, nên không dám làm liều, và cứ duy trì tình trạng giằng co ấy mãi. Hoàn Kỳ tuy là lão tướng, nhưng vẫn hung hăng hiếu chiến, rất hay nôn nóng, không chờ được lâu, bèn sai mật thám đi thăm dò tình hình Lý Mục. Nhưng mãi nửa tháng sau vẫn không mò ra tin tức gì. Bỗng một hôm có tin cấp báo nói rằng ở trong thành Hàm Đan đang lan truyền tin tức nói rằng quân Hung Nô thấy Lý Mục đã về Hàm Đan, nên đã tập trung mười mấy vạn quân xâm phạm biên giới phía Bắc nước Triệu. Tin cấp báo này đến tai vua Vương Thiên của Triệu. Vua Vương Thiên chuẩn bị sai tướng Lý Mục trở lại biên giới phía Bắc để chống quân Hung Nô. Vì vậy, quân Triệu không dám ứng chiến với quân Tần nữa. Các tướng Mông Quát, Mông Nghị đều rất hí hửng, vội đề nghị đánh chiếm ngay Phiên Ngô, nhưng Hoàn Kỳ tỏ ra lão luyện hơn, cho rằng rất có thể trong chuyện này có thể bị lừa, nên ông ta cho thám báo đi thăm dò một lần nữa. Mật thám đi về đều nói rằng lá cờ soái vốn cắm cao ở cổng phủ tướng quân Lý Mục nay không thấy nữa. Sau đó lại có tin thám báo nói rằng, có một đơn vị quân tinh nhuệ của Triệu đã lúc nhúc đi dưới lá cờ có chữ “Lý” (Lý Mục) và hành quân ra phía Bắc cửa thành Hàm Đan rồi. Họ đi theo hướng Bắc. Hiện còn các doanh trại quân Triệu chỉ treo cờ có chữ “Tư Mã” (Tư Mã Thượng) đang phất phơ bay nhè nhẹ trong gió, hầu như chẳng có chút tinh thần tác chiến gì nữa. Đến đây, Mông Quát, Mông Nghị và nhiều tướng lĩnh khác đều phấn khởi vô cùng, ai cũng muốn quyết đấu một phen. Lão tướng Hoàn Kỳ cũng rất mừng. Ông nói:

- Bọn người Hung Nô ấy đến giúp ta đây - Nói xong, ông hạ lệnh - đưa hai vạn quân đi trước đánh chiếm Phiên Ngô - Bản thân ông đưa đại quân đi sau đốc chiến.

Tướng trẻ Mông Quát chọn hai vạn tinh nhuệ, hành quân chớp nhoáng đánh chiếm thành bỏ trống Phiên Ngô. Khi ông ta đi đầu hàng quân tiến đến cách Phiên Ngô không xa, chỉ thấy trong thành không hề có động tĩnh gì, ông ta sợ bị tập kích đột ngột, bên cho quân đi chậm lại. Ông ra lệnh cho toàn quân phải nắm chắc khí giới trong tay, đi thành hàng ngũ hẳn hoi tiến từng bước vững chắc như sắp giao chiến với kẻ địch hùng mạnh trước mặt.

Khi Mông Quát đến chân tường thành Phiên Ngô, mới thấy quân dân Triệu đã bỏ thành cao chạy xa bay rồi, cho nên ông cho quân vào thành, coi như đánh thắng trận đầu mà chẳng mất một mũi tên lưỡi giáo nào! Ông hí hửng vui mừng, cứ cười ha hả, cho rằng quân Triệu chẳng là cái gì, chưa thấy quân Tần đã sợ hãi bỏ chạy rồi, đủ thấy tướng Mông Quát tướng quân ta đây dũng mãnh phi thường, tiếng tăm lừng lẫy. Ông ta còn nghĩ rằng lão tướng Hoàn Kỳ nay đã có tuổi rồi, chẳng còn nhuệ khí, can trường và hăng hái năng nổ như xưa nữa, nếu cứ làm theo ý của ông ta (Mông Quát) thì thành Phiên Ngô đã về tay quân Tần từ lâu rồi! Nghĩ vậy, ông ta bèn sai các tướng sĩ đi kiểm tra các nơi trong thành, sửa sang lại chỗ ở và công sự; cắm cao lá cờ có chữ “Mông” (Mông Quát) to tướng ở bốn điểm cao trên tường thành, thật là ngạo nghễ oai phong!

Đại tướng quân Hoàn Kỳ chỉ huy hơn 10 vạn đại quân đi sau, hành quân theo kiểu tiến chậm mà chắc, phía trước và phía sau đội hình đều có liên hệ với nhau chặt chẽ; cho đến khi tin chắc là không có quân Triệu mai phục bên đường, và nhìn thấy là cờ to tướng của Mông Quát đang bay trên thành Phiên Ngô ở đàng xa, Hoàn Kỳ mới yên tâm cho quân tăng tốc, và đến Phiên Ngô chậm hơn Mông Quát một ngày. Mông Quát đưa quân tinh nhuệ ra ngoài thành nghênh đón. Hoàn Kỳ khen Mông Quát trí dũng song toàn, cầm quân tài giỏi; rồi khao thưởng tất cả tướng sĩ. Sau đó bố trí toàn quân đóng doanh trại chung quanh Phiên Ngô; đồng thời cho lính trinh sát đi các hướng thăm dò tình hình quân Triệu.

Không ngờ hơn 10 vạn quân Tần vừa dựng xong lều trại và đang nấu cơm thì có tin cấp báo do tướng Tần bảo vệ Nghi An ở phía Nam đưa về nói rằng, đại tướng quân Tư Mã Thượng của Triệu đang đưa 10 vạn đại quân tiến nhanh đến Nghi An và Phiên Ngô. Hoàn Kỳ không thấy nói đến Lý Mục bèn vuốt râu cười lớn, ông nói rằng Tư Mã Thượng là một viên tướng đã bị ta đánh bại, nay lại dám châu chấu đá voi, thật là chui đầu vào chỗ chết mà không có đất để chôn rồi! Nói xong ra lệnh cho toàn quân sẵn sàng chống trả quân Triệu, đánh cho quân Triệu tơi bời khói lửa, không còn một mảnh giáp! Mông Quát vẫn xin được đi tiên phong, đưa hai vạn quân tinh nhuệ cấp tốc hành quân về phía Nam Phiên Ngô. Khi đến Hạ Phì, lính trinh sát ở phía trước thông báo: quân của Tư Mã Thượng vừa đến địa điểm gần phía Nam Hạ Phì thì vội bỏ chạy vì nghe tin tướng quân Mông Quát sắp đến! Mông Quát bèn án binh bất động và báo tin trên cho Hoàn Kỳ. Hoàn Kỳ bèn ra lệnh cho toàn quân “đóng quân tại chỗ, tạm thời nghỉ ngơi, không được nôn nóng”. Quân của Mông Quát đang cởi giáp tháo yên để chuẩn bị nghỉ ngơi, thì bỗng thấy một đám bụi bốc lên từ xa rồi xích lại gần, té ra là lính trinh sát hỏa tốc phi ngựa về cấp báo: quân Triệu đang quay trở lại và xông thẳng đến Hạ Phì.

Mông Quát vội ra lệnh cho tướng sĩ kỵ binh lại mang giáp, lắp yên, lên ngựa, ứng chiến quân tiên phong của Triệu. Nhưng quân Triệu vừa đến Hạ Phì thì bỗng nhanh như chớp, lại rút chạy về phía Nam. Mông Quát tức điên người, nhưng chưa có lệnh nên không thể tự động đuổi theo. Vì sợ quân Triệu quay lại nên tất cả tướng sĩ vẫn giữ nguyên áo giáp và ngồi trên lưng ngựa, cho đến khi quân tuyến sau đến nơi. Thống soái Hoàn Kỳ đưa hơn 10 vạn quân cấp tập hành quân đến Hạ Phì, nghe Mông Quát thông báo tình hình, ông ta thấy quân Triệu cứ lúc ẩn lúc hiện, chỉ thấy cái đuôi của nó chứ không thấy cái đầu của nó, nên không hiểu ra sao cả. Cho nên, ông cũng không dám manh động, bèn ra lệnh cho toàn quân đóng trại trong một khu vực hai mươi dặm vuông, ra sức canh gác, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

Quân Triệu sở dĩ cứ lúc ẩn lúc hiện và làm động tác giả ở Hạ Phì, là vì trong quãng 30 dặm kể từ phía Đông Hạ Phì cho đến Nghi An, và 100 dặm kể từ phía bắc Phì Hạ cho đến thành Phiên Ngô, hình thành một tam giác mà trung tâm là Hạ Phì. Hai trăm dặm phía nam tam giác này là Hàm Đan, kinh đô nước Triệu. Vì vậy, tam giác này là bàn đạp để quân Tần tiến quân sang phía Đông, trong đó Hạ Phì là cứ điểm trung tâm, còn Phiên Ngô và Nghi An là hai cánh hai bên để đồng thời tiến quân đánh chiếm Hàm Đan. Như vậy, đây là chiến trường huyết chiến. Lý Mục dùng chiến thuật nghi binh lừa cho quân Tần bị rối tung rối mù, đứng ngồi không yên, xoay chuyển mệt nhọc, chờ cho đến khi bị kiệt sức, dồn nhau lại từng đám đông, lộn xộn, nhốn nháo, không thể di chuyển linh hoạt nữa; khi đó quân Triệu mới đưa một bộ phận tinh nhuệ tấn công chính diện; đồng thời, đưa hàng nghìn chiến xa từ hai bên sườn thọc vào đánh giáp công. Quân Tần bị đánh từ ba phía, vội cầm khí giới và nhảy lên ngựa ứng chiến; nhưng vì quá gấp nên không thành trận địa, chỉ có thể chống đỡ, không thể đánh trả. May mà hai anh em Mông Quát và Mông Nghị rất dũng cảm, liều chết xông trận, mới tạm thời giữ vững được thế trận và đội hình. Quân Tần tiến dần từng bước dưới hai lá cờ có chữ “Mông” (Mông Quát và Mông Nghị), vừa tiến vừa chống đỡ, vừa tạo thành một lối đi để đại tướng quân Hoàn Kỳ đang gặp khó khăn ở vùng trung tâm có thể phi ngựa tiến ra chỉ huy toàn quân, kịp thời chống lại một cuộc tấn công mãnh liệt của quân Triệu. Mông Quát và Mông Nghị thấy Hàm Đan đã đứng vững ở vị trí trung tâm bèn sai phó tướng phất cờ, chỉ huy đơn vị mình xông ra phá vòng vây, còn tự mình thì vung kích và giáo tả xung hữu đột, đâm chém điên cuồng, miệng thét ra lửa, đi đến đâu là máu chảy đầu rơi đến đấy, đúng là đang cố mở một con đường máu để phá vây. Nhưng quân Triệu đang ở thế thắng nên không chịu buông tha. Trước hành động dũng mãnh của Mông Quát và Mông Nghị, đại tướng quân Tư Mã Thượng và phó tướng Liêm Việt con của lão tướng Liêm Pha, dẫn một đơn vị kỵ binh tinh nhuệ đến chặn đánh. Lại một cuộc huyết chiến bắt đầu. Một bên là hai con hổ nòi tướng soái của quân Tần. Một bên là một cặp dũng sĩ trẻ già của quân Triệu. Hai bên xông vào nhau. chẳng bên nào sợ bên nào, chỉ thấy kích và giáo cứ vung lên rất mạnh, tóe cả đốm lửa, kêu leng keng rất ghê rợn; cả người và ngựa hai bên cứ xoắn lấy nhau, tiếng hò hét vang trời dậy đất. Đại tướng Lý Mục của Triệu đứng ở một điểm cao ở ngoại vi, bình tĩnh quan sát toàn cục và chỉ huy quân Triệu tác chiến. Lý Mục nhìn thấy đại tướng quân Hoàn Kỳ của Tần cũng đứng trên một mỏm đất cao bên trong vòng vây, đang phất cờ chỉ huy quân Tần chống trả điên cuồng. Bỗng ngọn lửa báo thù sôi lên trong lòng Lý Mục. Ông thét lên ra lệnh cho toàn quân:

- Quân địch đã bị quân ta bao vây rất chặt, tuy đang giãy giụa, nhưng vô ích; tướng sĩ toàn quân phải hăng hái dũng cảm, xông lên diệt thù, phải giết hoặc bắt sống lão già Hoàn Kỳ; bọn tướng sĩ khác của quân Tần cũng không buông tha. Chúng ta quyết thề tiêu diệt sạch sành sanh bọn địch đến xâm phạm, để rửa cái nhục Trường Bình năm nào, trả thù cho tướng sĩ tử nạn của chúng ta.

Nghe được lệnh trên, tướng sĩ quân Triệu dũng mãnh xông trận, thét vang khẩu lệnh: “Giết! Giết!” làm rung chuyển cả một vùng hai mươi dặm vuông. Hoàn Kỳ đứng ở điểm cao trung tâm trận địa, thấy rõ toàn bộ cuộc chiến. Ông cũng biết quân Tần đang ở thế yếu, bất lợi, và nay thì càng xấu hơn, và thua đến nơi rồi. Là một lão tướng dày dạn trận mạc và chưa từng thua bao giờ, có thể nói không ngoa là một dũng tướng bách chiến bách thắng, ông bất giác rơi hai dòng nước mắt, mặt tái mét. Tuy nhiên, do bản năng, ông hét lên ra lệnh cho tướng sĩ toàn quân liều chết xông lên, quyết phá vây chạy thoát. Quân Tần vốn kiêu hãnh thiện chiến, thua ít thắng nhiều, dương dương tự đắc, nay bị quân Triệu bao vây và đánh cho một đòn như trời giáng. Vì vậy, tinh thần bị suy sụp rất nhanh, sĩ khí và khả năng chiến thuật cũng không thể phát huy được nữa. Trước tình hình quân Triệu áp đảo giáp lá cà, quân Tần cứ lùi dần, mất hết nhuệ khí tác chiến. Khi quân Tần mở được một đột phá khẩu sau khi hết sức cố gắng, bỗng năm vạn quân thiết kỵ binh của Triệu từ hướng Bắc ập tới bịt kín đột phá khẩu của quân Tần. Lúc ấy, một rừng gươm giáo vung lên, tên bắn như mưa, quân Tần bị giết chết nhiều vô kể, phơi thây đầy đồng, máu đỏ khắp nơi. Đội quân năm vạn đấy là thiết kỵ binh rất thiện chiến do Lý Mục huấn luyện ở Nhạn Môn Quan phía Bắc nước Triệu. Mấy hôm trước, lính trinh sát của quân Tần nói rằng họ nhìn thấy lá cờ có chữ “Lý” (Lý Mục) đi theo hướng Bắc, chính là đơn vị do Lý Mục sai đi Nhạn Môn Quan để đưa quân thiết kỵ binh về đây tham chiến. Khi đơn vị thiết kỵ binh này về đến trận địa đang giao chiến, họ tuân theo mệnh lệnh; khi nhìn thấy ngọn lửa tín hiệu đang bốc lên cao họ phi ngựa như bay đến chặn đứng đột phá khẩu của quân Tần, giáng cho quân của Hoàn Kỳ một đòn chí mạng.

Thiết kỵ binh của Lý Mục lao đến như trên trời giáng xuống, bất ngờ xông trận, gây hoang mang cực độ cho quân Tần. Lý Mục bèn nhân đà đó ra lệnh cho toàn quân tổng tấn công vào toàn tuyến quân Tần. Hoàn Kỳ vừa hối hận vừa căm phẫn, nhưng đã hết đường xoay xở, chỉ còn một hướng duy nhất là ra lệnh cho toàn quân rút về hướng Tây. Lý Mục từ trên cao chạy nhanh xuống, cầm kích xông thẳng tới Hoàn Kỳ; Hoàn Kỳ vội đưa giáo ra đỡ và đâm trả một nhát. Cứ thế, hai bên đâm nhau chém lại đến mấy chục hiệp, một bên thì thừa thắng truy kích, dũng mãnh kiên cường; một bên thì đuối sức vì đã mệt mỏi và đã ra lệnh rút chạy, đến nỗi để lộ sơ hở, bị Lý Mục đâm kích thủng áo giáp đồng, xuyên thủng vào vai. May mà Hoàn Kỳ cũng thuộc loại xương đồng da sắt, lại lão luyện võ công, nên vẫn còn đôi chút sức lực, nên không bị ngã nhào xuống đất.Ông ta vừa ưỡn ngực chống lại mũi kích, vừa kéo mạnh dây cương bắt ngựa quay ngang tháo chạy, bản thân còn xoay người để tránh mũi kích đâm sang của Lý Mục, lấy tay bịt miệng vết thương và phi ngựa chạy nước đại trốn chạy thục mạng. Lúc ấy, Mông Quát và Mông Nghị tuy còn trẻ khỏe và rất dũng mãnh, nhưng toàn quân đã bị đánh bại, nên không thể chống cự nổi hai tướng Tư Mã Thượng và Liêm Việt của quân Triệu; vì vậy, cũng vội vàng thúc ngựa quay đầu tháo chạy về hướng Tây. Các tướng khác lại càng bi đát hơn, họ vứt cả mũ giáp, chạy bán sống bán chết để bảo toàn tính mạng.

Trận Hạ Phì này, quân Triệu có tất cả 20 vạn gồm bộ binh, kỵ binh và chiến xa binh. Quân Tần có tất cả 15 vạn. Hai bên hỗn chiến một ngày đêm trong khu rừng rộng khoảng 20 dặm vuông. Quân Tần bị thương vong hơn 12 vạn, quân Triệu thương vong hơn 5 vạn. Quân Triệu toàn thắng, đem lại sự cổ vũ rất lớn cho toàn dân toàn quân cả nước. Lý Mục chiến thắng huy hoàng, lập công hiển hách, tiếng vang khắp nơi, răn đe chư hầu. Trong khi đó, quân Tần sợ hãi mất vía kinh hồn, từ đó không còn dám dòm ngó sang phía Đông nữa.

Sau khi nghe Vương Tiễn và Vương Quán kể lại diễn biến nói trên, Liêu Tử bất giác than rằng:

- Lý Mục thật là một tướng tài, không ai kình địch nổi; tay này phải đánh thắng bằng mưu trí, không thể thắng hắn ta bằng vũ lực.

Nhà vua gật đầu lia lịa, cảm thấy rất cay cú. Ngài nói:

- Nếu hắn ta chỉ có dũng cảm không thôi, thì không đáng sợ. Đằng này hắn rất tinh thông thao lược, chỉ huy như thần; mưu trí của chúng ta cũng khó lòng thắng hắn ta!

- Hạ thần nói dùng mưu để thắng Lý Mục, không phải là ngồi trong trướng màn rồi chỉ huy từ xa, bài binh bố trận, mà là tránh cái mạnh của hắn, đánh chỗ yếu của hắn, lợi dụng sơ hở của hắn để đột nhập, đồng thời, lén dùng khí giới sắn bén nhất để diệt hắn - Liêu Tử vuốt râu cười mỉm, nói diệu kế của mình.

- Theo chỗ Trẫm biết, thì Lý Mục văn võ song toàn, vừa trí vừa dũng, có đạo đức và phong độ đúng mực, yêu nước trung vua, làm gì có chỗ yếu và sơ hở để người khác hạ thủ? - Nhà vua vẫn không tin là Liêu Tử có thể tìm thấy chỗ nào là điểm yếu kém của Lý Mục.

Liêu Tử chớp mắt mấy cái, xong vừa giơ tay làm hiệu vừa giải thích cho nhà vua và văn võ bá quan có mặt, rằng bất cứ triều đình nào cũng vậy, trong hàng ngũ quan lại, kể cả hoạn quan, thì cái ranh giới để phân biệt ai là trung thần, ai là gian nịnh, ai là người có lương tâm, ai là kẻ xấu bụng, đều ở chỗ liêm khiết hay tham lam và dũng cảm hay nhút nhát mà thôi. Lý Mục là một tấm gương liêm khiết và dũng cảm, hoàn toàn trái ngược như nước với lửa với tham lam và nhu nhược. Nếu chúng ta đánh Lý Mục theo hướng chính diện thì dù là về quân sự hay đạo đức, đều không thể được. Nhưng ở Triệu lại có một vị thừa tướng tên là Quách Khai, là một tên nhút nhát nhưng rất tham lam. Quách Khai đương nhiên coi Lý Mục là cái gai trước mắt mình. Vì vậy, chúng ta tiếc gì mà không đem nhiều vàng bạc đút lót cho hắn ta, để hắn ngấm ngầm nói xấu Lý Mục. Lúc đó chúng ta có thể dùng vũ lực để đánh thắng nước Triệu.

Vua tôi nhà Tần có mặt đều thấy Liêu Tử nói có lý, nhưng lại cho rằng Lý Mục là vị tướng trung với vua và yêu đất nước, được Vương Thiên coi là trụ cột, là chỗ dựa quan trọng, sao có thể nhẹ dạ nghe lời xúc xiểm để đang tay giết hại cận thần?

Liêu Tử nói rất trịnh trọng:

- Vị quân chủ sáng suốt thì tin và dựa vào trung thần lương tướng, còn những quân chủ tầm thường mê muội thì rất sợ những lời can gián trung thực của trung thần lương tướng. Vì vậy, chỉ cần Quách Khai nắm lấy điều đó để ra tay, thì vua Vương Thiên nhất định sẽ loại trừ Lý Mục. Cho nên, sự trung thành hết lòng của Lý Mục là sự thật và là thế mạnh của ông ta; nhưng nếu đứng về phía phản diện mà xét, thì đó lại là khoảng trống và là điểm yếu kém của ông ta. Chỉ cần Quách Khai “lén bắn một mũi tên”, Lý Mục sẽ đổ kềnh ngay lập tức mà không kịp biết ai đã hạ thủ mình.

Sau khi nghe Liêu Tử trình bày cặn kẽ mưu kế của mình, vua tôi nhà Tần ai cũng hết sức khâm phục; và lập tức đề nghị Diêu Giá đứng ra đảm đương công việc ấy. Lúc đó, Diêu Giá là quan thượng khanh, rất quen việc sử dụng buôn bán để hoạt động ngoại giao.

Liêu Tử được nhà vua phong làm “Quốc úy”, tức là đại thần phụ trách quân sự; vì ông có công nêu lên một chủ trương chiến lược quan trọng, tỏ rõ tài năng chính trị, quân sự xuất sắc. Từ đó ông lấy chức vụ làm họ, gọi là “Úy Liêu”.

Mấy hôm sau, Diêu Giá mang theo 5.000 dật (mỗi dật bằng 20 - 24 lạng Trung Quốc hiện nay) vàng bạc châu báu, cải trang thành nhà buôn, đi qua Đại Lương của Triệu (nơi này từng được coi là cửa khẩu biên giới của nước này) để đến Hàm Đan. Thông qua quan hệ với giới thương nhân, ông ta mở một cửa hàng buôn bán châu báu tại một địa điểm đông đúc nhất, coi đó là cái vỏ bọc bề ngoài; từ cái cửa hàng trá hình đó, Diêu Giá sử dụng thủ đoạn mua bán và biếu xén để làm quen với những người quyền quý. Sau khi đã xây dựng được một mạng quan hệ xã giao nhất định, ông ta mang tặng phẩm đến xin gặp thừa tướng Quách Khai. Quách Khai nghe nói khách đến xin gặp là một thương gia giàu có vừa mới mở cửa hàng châu báu cách đây không lâu, người này ông cũng vừa mới biết, bèn cho vào tận nhà trong để tiếp chuyện. Sau một hồi chuyện trò rôm rả, Diêu Giá đến gần Quách Khai nói nhỏ rằng:

- Tiểu thương này đến quý quốc làm ăn, may nhờ quý ngài cho được nhiều điều dễ dàng trong kinh doanh, nay xin có lễ mọn bày tỏ lòng tri ân, xin vui lòng nhận cho - Nói xong, bèn đưa bản kê, các tặng phẩm, rồi chắp tay cúi người dâng lễ.

- Quý ngài đến kinh đô chúng tôi, làm cho vật phẩm được lưu thông, dân sinh dược sung túc, thật là có lợi cho nước tôi. Việc chăm lo đến các chuyện làm ăn của quý ngài là bổn phận phải làm của nước chủ nhà. Nay lại để cho quý ngài phải tốn kém nhiều như vậy, thật là thú nhận thì hổ thẹn lắm thay - Quách Khai vừa nói đãi bôi một câu cho xong chuyện, vừa đưa mắt liếc qua bản kê tặng phẩm, bỗng bất giác kinh ngạc, bèn nói với Diêu Giá:

- Họ Quách này có tài đức gì mà dám nhận đại lễ như thế này?

Diêu Giá vội nói khơi mào:

- Quả là không phải lễ mọn, cho nên mới đến nhờ vả thừa tướng, cúi xin nhận cho, nhất thiết không nên từ chối!

Quách Khai đút nhanh bản kê vào ống áo rồi cười mỉm:

- Nói qua nói lại, không bằng nhận đại cho xong. Thôi thì ta không dám từ chối nữa!

- Thật là quý hóa quá, xin thừa tướng kiểm nhận - Diêu Giá lấy từ trong áo ra một cái hộp nhỏ, trông rất tinh xảo, đưa cho Quách Khai rất cung kính.

- Đa tạ! Đa tạ! - Quách Khai cầm lấy hộp, mở nắp ra, thấy một màu sáng loáng của châu ngọc, bèn hí hửng ra mặt, vội nói thêm với Diêu Giá - Nhưng không biết quý thương gia cần gì ở bản tướng?

Diêu Giá đến gần Quách Khai, nói rất khẩn thiết:

- Tiểu thương hôm nay đến dâng lễ mọn, một là để tỏ lòng kính trọng thừa tướng, hai là cũng muốn hỏi thừa tướng về tình hình gần đây!

- Được ngài quan tâm như vậy, thật là cảm kích. Gần đây nạn ngoại xâm đã dẹp xong, trong triều ngoài xã tắc đều bình yên, bản tướng cũng rảnh rang, yên tâm nhẹ gánh hơn nhiều - Quách Khai nói với tâm trạng thoải mái.

Diêu Giá lại không đồng ý như vậy. Y nói:

- Theo tiểu nhân thì những ngày tốt lành mà thừa tướng nói, từ lâu trong đó đã tiềm ẩn nguy cơ rồi!

- Quý ngài có yêu cầu gì cứ nói rõ ra, hà cớ gì phải nói như vậy để cho người khác phải giận mình? - Quách Khai cho rằng vị khách này cố làm to chuyện ra, nên không chú ý lắm.

- Đứng trước mặt quan thừa tướng, tiểu thương này đâu dám nói sai! Chẳng qua là vì ngài thấy khung cảnh thanh bình quá, nên không dám nhìn thấu manh mối tai họa tiềm ẩn, nên mới nhắc nhở đó thôi, rất mong thừa tướng không bao giờ bỏ qua! - Diêu Giá lại nói cho thêm phần quan trọng.

- Đã vậy thì tiên sinh có gì chỉ giáo cho ta? - Bây giờ Quách Khai mới thật sự lắng nghe ý kiến của vị khách.

Bây giờ Diêu Giá mới nói với Quách Khai mọi chuyện mà ông ta đã sắp đặt sẵn từ trước. Ông ta nói rất nghiêm túc rằng, đứng về phía người đương quyền, thì nước Triệu trước mắt. không có tai họa từ bên ngoài, nhưng ắt có tai họa từ bên trong [i]. Vừa qua, quân Tần thất bại thảm hại ở Hạ Phì, quân dân nước Triệu ăn mừng, biên cương được củng cố, tai họa bên ngoài không còn nữa. Một khi chuyển sang thái bình, thì cuộc tranh giành trong triều và ngoài xã tắc tất sẽ tăng lên; lúc này, việc bình xét công trạng, tội lỗi, vinh và nhục sẽ quyết định số phận của các quan lại văn võ. Ngài là thừa tướng, nhưng trong quá trình chiến tranh chống Tần lâu dài vừa qua, tỏ ra bình thường, không có công lớn. Ngược lại, đại tướng quân Lý Mục lại liên tục đánh bại quân Tần hùng mạnh đến xâm phạm, cứu nước Triệu khỏi diệt vong, cứu dân sinh khỏi tai nạn, lập nên chiến công hiển hách, cả nước nhất trí ca ngợi. Nếu so sánh hai người, chẳng hóa ra ngài thua kém quá đỗi rồi chăng?

Quách Khai nghe vậy cũng cảm thấy rất lúng túng. Ông ta nói, ngày nay thiên hạ luôn luôn có chuyện can qua gươm giáo, cho nên nay đúng là thời cơ lập công lập nghiệp của các võ tướng. Tôi chỉ là một văn thần lo việc nội bộ triều chính, đương nhiên không thể so đo với ông ấy, đành phải tự thẹn mà chịu thua, thế mới bình yên vô sự, và cũng yên lòng yên dạ để phụng sự.

Diêu Giá cười nham hiểm. Ông ta nói, ngài yên lòng yên dạ, đó là cách suy nghĩ của ngài, nhưng người khác có để cho ngài yên tâm yên dạ hay không, lại là chuyện khác. Đứng về phía nhà nước sử dụng ai, sử dụng như thế nào, đều xét về tài năng để lựa chọn. Quản Trọng và Nhạc Nghị năm nào, và Liêm Pha, Bàng Viễn hiện nay, chẳng phải là đều do trí dũng song toàn, nên ra trận thì làm tướng quân, vào triều thì làm thừa tướng đó sao? Giờ đây, Lý Mục đang là một nhân vật như thế. Với tư cách là võ tướng, ông ấy là hòn đá tảng làm cột trụ cho đất nước; điều đó, mọi người đều công nhận. Vì vậy, ông ta đã được phong làm Vũ An Quân rồi. Chẳng mấy ngày nữa, cái ngôi báu thừa tướng mà ngài đang nắm toàn quyền sẽ rơi vào tay ông ta, chức vị lão thừa tướng của ngài liệu còn giữ được mấy buổi sáng chiều nữa. Đó chính là mối lo bên trong của ngài, là nguy cơ đã ập đến đầu mũi ngài rồi!

Nghe những lời như vậy, Quách Khai cảm thấy vừa hối hận vừa sốt ruột, bỗng toát cả mồ hôi, vội chắp cả hai tay bái tạ những lời chân thành của Diêu Giá, và hỏi ông ta xem có cách gì để thoát ra khỏi nguy cơ này, và giữ vững cương vị của mình hay không? Diêu Giá lạ,i nói thật lòng với ông ta, rằng món quà tặng nặng ký với cái giá năm nghìn dật vàng ấy là do vua Tần ban tặng cho ông ta (Quách Khai) với yêu cầu là ông ta (Quách Khai) sẽ lợi dụng cương vị thừa tướng của mình để góp ý với vua Vương Thiên, dùng mưu kế trừ khử Lý Mục, quét sạch trở ngại trên con đường nước Tần tấn công nước Triệu! Nghe vậy, Quách Khai rất sợ hãi. Ông ta nói, như vậy thì nước Triệu bị Tần tiêu diệt, cái chức thừa tướng của tôi cũng chỉ là một nô lệ mất nước! Diêu Giá an ủi ông ta rằng không phải vậy, vua Tần đưa cho ngài một số tiền vàng rất lớn là gửi gắm ở ngài rất nhiều hy vọng, chỉ khi nào Lý Mục bị loại bỏ, nước Triệu bị Tần tiêu diệt, thì vinh hoa phú quý của ngài không bị suy chuyển, ít nhất cũng làm thượng khanh.

Đến đây, Quách Khai đã xiêu lòng, nhưng vẫn nghĩ rằng bán nước cầu vinh là hổ thẹn trong lương tâm. Diêu Giá lại mặt dạn mày dày, trâng tráo nói rằng đối với một cá nhân con người thì tiền đồ của mình là quan trọng nhất, lo gì đến chuyện quốc gia đại sự! Phạm Thư, Lã Bất Vi, Lý Tư và tôi được đắc chí thi thố tài năng ở nước Tần, chẳng phải đều là người nước ngoài đó sao? Chẳng phải đều là quan lại cao cấp và có địa vị vinh hiển cả đó sao? Cuối cùng, Quách Khai chấp nhận hết và ngồi bàn mưu tính kế rất lâu với Diêu Giá, để bí mật hạ độc thủ, giết Lý Mục.

Đến tận đêm khuya, Diêu Giá mới ngà ngà say, ra về dưới ánh trăng. Trong lịch sử nước Triệu, vua Vương Thiên là một vị hôn quân, bất lực nhất trong việc “trị quốc”, chỉ gây thiệt hại cho đất nước. Ông ta không bao giờ hỏi han tới chuyện văn chuyện võ của triều chính, chỉ đam mê tửu sắc và chơi trò chó ngựa. Mỗi khi có giặc ngoại xâm, đều sợ hãi kinh hồn bạt vía, tham sống sợ chết. Để cầu an hưởng lạc, ông ta sẵn sàng bán rẻ đất đai của xã tắc, một cách nhục nhã, cắt đất nhượng thành cho nước chiến thắng, và tự hạ mình làm nước chư hầu phiên thuộc. Vừa rồi, hai đại tướng Lý Mục và Tư Mã Thượng chỉ huy quân đội tác chiến đẫm máu, đánh bại quân Tần ở Hạ Phì, đuổi cường địch ra khỏi biên cương, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và đời sống an cư lạc nghiệp của dân chúng; ông ta chỉ tọa hưởng kỳ thành. Nhưng lại trơ tráo cướp công người khác, nói rằng nhờ có Trẫm biết dùng người, lãnh đạo có phương lược; nên càng thêm ham muốn hưởng lạc, thèm khát tửu sắc. Hôm ấy ông ta đang vui đùa cợt nhả với cung phi trong vườn thượng uyển, đang lúc hứng chí, bèn sai nhạc sư tấu nhạc để ông ta ngâm một bài ca ngông nghênh đắc chí (dịch ý):

Đức độ tổ tiên, tiếng thơm muôn thủa

Ơn trạch tiên vương, để lại cho ta

Giang sơn nước Triệu, lập quốc từ lâu

Đứng đầu xã tắc, duy ngã độc tôn.

Chống giặc ngoại xâm, sẵn có tướng tài,

Sự vụ nội triều, văn thần chăm lo.

Sao không ngồi mát để ăn bát vàng,

Tọa hưởng kỳ thành, ngày đêm hoan lạc.

*

Ngày uống rượu ngon, cao lương mỹ vị,

Suốt đêm hoan lạc, cả bầy cung phi.

Châu báu ngọc ngà, đeo đầy mình mẩy,

Lộng lẫy sắc màu, đẹp hơn tiên nga.

Làm vua cho đáng, như Trẫm nơi này,

Số phận “ba sinh”, vẫn còn hưởng phúc.

Kịp thời hành lạc, mới đáng minh quân,

Chẳng phụ cung tần, chẳng quản thời gian.

Vương Thiên đang hát rất say sưa thì thừa tướng Quách Khai vội vã bước vào, nói rằng có việc khẩn cầu tấu trình. Nhà vua cảm thấy cụt hứng, bèn hỏi lại, hơi bực mình:

- Có việc gì mà khẩn cấp thế?

Quách Khai cúi đầu liếc nhìn các cung phi, nhạc sư một lượt xong nói nhỏ:

- Những người này...

Nhà vua hiểu ý bèn bảo họ lui ra rồi hỏi gấp:

- Thừa tướng có việc gì quan trọng mà hốt hoảng như thế?

- Hôm trước vi thần phụng mệnh đi thăm quân sĩ của tướng Lý Mục, bỗng nhặt được một bài ca dao, nay trình Đại vương xem qua - Quách Khai vội rút một mảnh lụa từ trong ống áo ra, và trình lên Vương Thiên.

Vương Thiên đưa mắt đọc lướt qua (dịch ý):

Lý Mục tướng quân, giỏi vô cùng,

Trấn ải biên cương, rất nghiêm minh

Hung Nô nghe tiếng, đã giật mình,

Chẳng dám xuống Nam, chăn đàn ngựa.

Nước nhà gặp nạn, ấy trung thần,

Ngài vội quay về, xông ra trận,

Phì Hạ ra tay, diệt quân Tần,

Chấn động chư hầu, trời đất sợ.

Cờ soái tung bay, rất ngạo nghễ,

Lý Mục đại soái, chữ to đùng.

Răn bảo lê dân, luôn ghi nhớ

Thiên thu vạn đại, biết ơn ngài.

Nhà vua đọc xong bài ca dao, bỗng gật đầu ngâm nga, lại còn khen:

- Bài dân ca này, viết thật hay, vừa có vần, vừa có ý, xem qua là hiểu ngay.

Quách Khai bèn cố ý nói rõ:

- Xin dám hỏi Đại vương, Đại vương hiểu ngay điều gì ở trong ấy ạ?

- Đại vương ta đây, tài hèn học ít, vậy mà mấy câu này còn hiểu rõ. Chẳng phải là nói tướng quân Lý Mục chống quân Hung Nô, đánh bại quân Tần đó sao - Vua Vương Thiên nói rất tự đắc.

- Chẳng lẽ Đại vương không hiểu những điều lắt léo bên trong đó ư? - Quách Khai vội đến gần và vạch ra điều muốn nói.

Vương Thiên lại nheo mắt, đọc đi đọc lại mấy lần nữa, nhưng vẫn chẳng thấy gì, cứ lắc đầu hoài:

- Ta thật ra chẳng thấy gì, có gì gọi là lắt léo?

Quách Khai vội nói:

- Đã vậy thì vi thần xin nói để Đại vương được rõ - Tiếp đó, Quách Khai tiếp tục giải thích cho nhà vua, vừa nói vừa minh họa, rất sinh động - Bốn câu đầu tiên [ii] đã nói ngay “Lý Mục tướng quân, giỏi vô cùng”. Đây là nói giỏi chống quân Hung Nô. Bốn câu thứ hai nói chiến công hiển hách đánh cho quân Tần đại bại, gây chấn động cả chư hầu. Bốn câu thứ ba, là bốn câu cuối thể hiện ý chí của ông ta; tức là “Răn bảo lê dân, luôn ghi nhớ, thiên thu vạn đại, biết ơn ngài!”. Như vậy đã thấy, cái lắt léo tế nhị của bài ca dao này là ở chỗ đó. Nghĩa là toàn bài chỉ ca ngợi công đức của Lý Mục, không có chỗ nào nhắc đến chữ “Triệu”. Trong khi đó, mở đầu bốn câu thứ hai (đoạn hai) lại nói: “nước nhà gặp nạn”, đó chẳng phải là đang nguyền rủa ngài làm vua nước Triệu mà lại làm cho đất nước rối loạn, gây tai nạn cho xã tắc đó sao? Tiếp đó lại nói “ấy trung thần”, để ca ngợi Lý Mục là vị tướng cứu nước cứu dân, rõ ràng là đã hạ thấp Đại vương xuống đến mức chẳng đáng phải nhắc đến nữa. Cho nên bài ca dao này là “thơ phản” hoàn toàn từ đầu đến chân, đó là bài hịch kêu gọi chống Triệu, ủng hộ Lý Mục.

Vương Thiên vừa nghe Quách Khai giảng giải, vừa để cho tư tưởng của mình tự do phát triển theo sự chỉ dẫn của Quách Khai, từ chỗ nghi nghi hoặc hoặc, đến chỗ bán tín bán nghi, rồi cuối cùng hoàn toàn tin lời Quách Khai.

Lúc này, ông ta dương nhiên vừa kinh hoàng vừa căm giận, đến mức cảm thấy phải trừ bỏ Lý Mục, tiếp đó Quách Khai cùng với nhà vua bàn định mưu kế hãm hại Lý Mục.

Một buổi sáng nọ mấy hôm sau, Vũ An Quân Lý Mục cưỡi con ngựa có bờm màu xanh, đầu đội mũ giáp, đang duyệt binh theo định kỳ tại quảng trường. Ngài thấy sĩ khí quân lính của mình ngày càng cao, ngày càng tinh nhuệ, trong lòng cảm thấy rất vui. Bỗng viên cận vệ cung đình phi ngựa đến, truyền đạt khẩu dụ nhà vua nói rằng:

- Vừa nghe tin từ cửa ải biên giới cảnh báo là quân Hung Nô đưa đại quân đến xâm phạm, tình hình Nhạn Môn Quan đang rất khẩn cấp, mời Lý Mục tướng quân về gấp cung đường để bàn đối sách.

Lý Mục bèn phi ngựa đi theo viên cận vệ, khi đến cổng cung thành thì xuống ngựa. Theo lệnh cấm của cung đình, các võ tướng khi vào cung không được mang theo binh khí. Nhưng viên cận vệ vội đi nhanh đến nói với bọn quan canh cổng rằng nhà vua cho gọi tướng quân Lý Mục rất gấp, nên bọn họ không cởi bỏ kiếm dài của Lý Mục, mà cứ để cho ông ta đi thẳng vào nội cung. Sau khi vào nội cung, viên cận vệ để cho Lý Mục nghỉ một lúc để đi mời nhà vua ra tiếp. Nói xong bèn biến mất sau tấm bình phong. Lý Mục đứng chờ ở chính giữa nội cung, nhưng chờ mãi chẳng thấy nhà vua ra, bèn đi đi lại lại trong phòng. Một lúc lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, ông cảm thấy hơi khó hiểu. Bỗng có tiếng bước chân từ phía bình phong, ông quay lại nhìn thì đúng là nhà vua Vương Thiên đang từ từ bước tới. Ông vội bước lên và nói: “Hạ thần Lý Mục xin yết kiến Đại vương!”. Nói xong, quỳ xuống lạy chào theo đại lễ. Nào ngờ Vương Thiên hô lớn: “Bay đâu đến ngay, có thích khách!”. Lý Mục giật nảy mình, nhưng chưa kịp giải thích thì đã bị bọn cận vệ cung đình nấp ở ngay gần đấy, chạy bổ nhào đến trói chặt lấy. Lý Mục vội thanh minh là phụng chỉ đến đây. Vương Thiên hỏi: Vậy chỉ dụ ở đâu?

Ông ta nói: Một cận vệ cung đình đến truyền đạt khẩu dụ. Hai mươi tên cận vệ cung đình xếp hàng đứng đó, chẳng có tên nào đi truyền đạt cái khẩu dụ ấy! Vương Thiên bèn cột cho Lý Mục cái tội nói láo và chỉ vào thanh kiếm bên hông ông ta để khẳng định rằng ông ta đến để hành thích (ám sát). Lý Mục khăng khăng phủ nhận tội lỗi. Vương Thiên ra lệnh khám xét trong người Lý Mục. Viên cận vệ bèn lột mũ giáp của Lý Mục và tìm thấy trong đó bài ca dao “thơ phản”. Lý Mục vừa đau buồn vừa căm phẫn; ông kêu to lên rằng mình bị mưu gian hãm hại rồi. Nhưng bây giờ thì dù có một trăm cái miệng cũng không thể thanh minh được nữa.

Một vị “trung thần lương tướng” như vậy mà bị đưa lên đoạn đầu đài vì cái tội “viết thơ phản và vào cung hành thích”.

Chú thích:

[i] "Không có tai họa bên ngoài ắt có hiểm họa bên trong": đó là một câu châm ngôn được đúc kết từ thực tiễn xã hội thời đại đó của Trung Quốc - ND.

[ii] Bốn câu là một đoạn, bài ca dao có ba đoạn. Nguyên văn mỗi đoạn chỉ có hai câu toàn bài sáu câu. Chúng tôi cố dịch hết ý, nên dài gấp đôi - ND.