← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MƯƠI TÁM HÀN TRIỆU MẤT NƯỚC, TẦN VƯƠNG ĐẠI THẮNG-THÁI HẬU BUỒN VUI, ĐI VỀ TIÊN TỔ---

Quân Tần vốn rất ngạo mạn khinh địch, coi thiên hạ chẳng ra gì, lúc đầu dự định hành quân đến Hàm Cốc Quan là có thể trở thành vô địch, tiến thẳng một mạch đến kinh đô nước Triệu. Nào ngờ đến Hạ Phì đã vấp phải sức chống trả quyết liệt của quân Triệu, bị vây hãm khốn quẫn do mưu kế nghi binh của Lý Mục, đại tướng quân của Triệu; quân Tần vừa mệt nhọc phòng chống quân Triệu tập kích ở phía sau, cuối cùng thất bại thảm hại, thương vong rất lớn, thiệt hại khí giới trang bị cũng vô kể, sức chiến đấu và ý chí bị tổn thương, kết quả, cái gọi là bất khả chiến thắng của quân Tần bị đập tan, vai trò cường quân sự của đại Tần bị chao đảo suy sụp; vua tôi nhà Tần chán nản kinh hoàng.

Để nhanh chóng thoát ra khỏi bóng đen của thất bại, lấy lại oai phong của đại Tần, mùa xuân thứ 17 niên hiệu Tần Doanh Chính, vua Tần triệu tập hơn một trăm văn võ bá quan cùng bàn bạc những chủ trương lớn của nhà nước quân sự. Ngài rất lo lắng và nôn nóng, khẩn thiết yêu cầu các bề tôi cứ thẳng thắn và thoải mái phát biểu ý kiến. Các võ tướng Vương Tiễn, Mông Quát, Nội Sử Đằng tỏ ra không thể chịu thua quân Triệu. Họ nói rằng chấn chỉnh lại quân đội để tiếp tục chinh phạt, đưa quân tấn công tận kinh đô Hàm Đan, nhất quyết tử chiến với quân Triệu. Nếu không đánh thắng, xin “chặt đầu về chịu tội”. Thừa tướng Xương Bình Quân, một người lão luyện luôn luôn cẩn trọng, cho rằng đánh nhau thắng bại là chuyện bình thường của nhà binh; ông nói, quân Tần đã được mệnh danh là “thường thắng quân”, nay ngẫu nhiên bị thua, cũng khó tránh khỏi. Việc cần làm trước mắt là phải tăng cường chỉnh đốn, bổ sung hậu cần, trợ cấp thương vong, ổn định tư tưởng, nhất quyết không vì bực tức nhất thời mà vội vã xuất quân. Nếu trong lúc chưa lấy lại được sĩ khí mà thất bại lần nữa thì sẽ bị suy sụp và không còn ngóc đầu dậy được nữa, hậu quả sẽ nghiêm trọng vô cùng.

Phần lớn những người khác đều cho rằng cả hai ý kiến nói trên đều có lý cả, và cứ thế tranh luận nhau mãi, chẳng ai chịu ai. Nhà vua cũng không muốn quyết đoán, bèn yêu cầu quốc úy (Úy Liêu - Liêu Tử), một người từ lâu cứ ngồi im, chẳng nói chẳng rằng, phát biểu kiến. Úy Liêu đưa con mắt sắc sảo nhìn mọi người một lượt, cố ý để mọi người chú ý sau đó phát biểu, theo quan niệm tư tưởng của một cuộc chiến tranh lâu dài và quy luật nói chung, thì ý kiến của thừa tướng Xương Bình Quân thể hiện tư tưởng chiến lược muốn được ổn định về lâu về dài. Nhưng như người đời vẫn nói, “văn vô chính sự thì nhàn, võ vô chiến sự thì nản”. Các võ tướng nôn nóng muốn trả cái thù đại bại ở Phì Hạ đó là tấm lòng sắt son của đấng nam nhi có tâm huyết báo hiếu quốc gia; thật đáng quý vô cùng.

Nhà vua có phần nào hơi sốt ruột, tỏ ra không bằng lòng. Ngài nói, vậy theo ý nhà ngươi thì ý kiến cả dôi bên đều đúng cả, vậy thì có xuất quân hay không? Uý Liêu cười ranh mãnh, ông ta nói, theo ý hạ thần thì lần trước, quân ta đánh Triệu, vẫn còn để lại một mối hậu họa. Đó là nước Hàn. Rất may là Hàn đã không đánh lại chúng ta một vố ở sau lưng: khi quân Tần rút lui, họ không chặn đường rút của quân Tần, nếu không thì không phải là thương vong mười mấy vạn, mà là toàn quân bị tiêu diệt. Hai vị tướng quân Vương Tiễn, Mông Quát có lẽ không còn có mặt ở đây để phát biểu hùng hồn khảng khái nữa, mà đã yên giấc ngàn thu dưới chân núi Thái Hành Sơn rồi!

Ý kiến Úy Liêu làm mọi người gật đầu khâm phục, đều nói rằng ông thật là đáng mặt một nhà quân sự đại tài, và yêu cầu ông chỉ dạo mọi người làm tốt công việc bố trí chiến lược. Úy Liêu bèn nêu ra chủ trương:

- Trước mắt phải đưa một đơn vị tinh nhuệ tấn công nước Hàn, bắt buộc phải đánh một trận là thắng, tiêu diệt nước Hàn. Như vậy, vừa có thể triệt để trừ bỏ cục thịt thừa đó, tránh được hậu họa khi chúng ta chinh phục các chư hầu khác, vừa có thể lấy đó để lấy lại sĩ khí, nâng cao tinh thần cho tướng sĩ, tăng thêm lòng tin cho toàn quân chiến thắng quân thù. Điều quan trọng hơn lấy đó răn đe các chư hầu, uy hiếp thiên hạ, đặt nền tảng cho cuộc chiến tiêu diệt năm nước còn lại.

Tất cả vua tôi có mặt đều nhất trí tán thành kế hoạch đó của Úy Liêu.

Một tuần sau, vừa đúng ngày “hoàng đạo cát nhật” (ngày lành tháng tốt), tám vạn quân tinh nhuệ của Tần, hàng ngũ chỉnh tề, hừng hực khí thế, xuất phát từ cửa đông Hàm Dương, ồ ạt hành quân về nước Hàn. Đại tướng quân Nội Sử Đằng dẫn bốn vạn quân, làm trung quân; Mông Quát và Mông Nghị là tả hữu quân, mỗi người chỉ huy hai vạn quân; trong đó, một nửa là bộ binh, một nửa là kỵ binh. Tất cả đều cơ động linh hoạt, thiện chiến kiêu hùng. Đội quân tám vạn người ấy, hành quân cấp tốc đột nhập nước Hàn nhanh như sấm chớp, san bằng mấy ngôi thành trì ở ngoại vi nước Hàn, sau đó chia hai hướng, tiến sâu vào nội địa Hàn quốc. Mông Quát chỉ huy hai vạn quân vây hãm thành Dương Địch, kinh đô hành chính của Hàn quốc, ở đây có các cơ quan chi nhánh của triều đình. Vì vậy, việc đánh chiếm Dương Địch, sẽ tác động quyết định đến kinh đô chính thức Trịnh Thành.

Mông Quát là một dũng tướng say mê hiếu chiến, khi đưa quân đến Dương Địch, ông bố trí đội hình thành hình chóp nón [i]; trong đó, lấy kỵ binh làm trụ cột, bộ binh là bổ trợ, tấn công bốn cửa thành. Mấy chục chiếc trống cùng đồng thời ầm rung chuyển, vang động cả một vùng. Hai vạn binh sĩ hăng máu thét vang giết, giết, tựa như sóng thần ập đến, chôn vùi toàn bộ thành Dương Địch trong khói lửa, khiến mọi người trong Dương Địch run sợ, hồn bay phách lạc.

Trong thành Dương Địch chỉ còn một cung điện riêng cho nhà vua và các thành viên hoàng gia nghỉ mát mùa hè và săn bắn mùa đông. Những quan chức và những người hầu hạ, cung nữ trong cung điện này, sống rất nhàn hạ, sung sướng; có thể nói họ đều là những “nhu phu nhược nữ” [ii]. Khi họ nghe tiếng thét “Giết! Giết!” kinh thiên động địa ở bên ngoài, họ đã hồn bay phách lạc, hốt hoảng nhốn nháo.

Các tướng sĩ thủ thành (Dương Địch) cũng run sợ trước khí thế hùng hổ của quân Tần, nên không dám ra ứng chiến, chỉ nấp sau tường thành để bắn lén quân Tần. Quân Tần ỷ thế có áo giáp rất dày bản chẳng coi mấy mũi tên bắn lén của quân Hàn ra gì; hơn nữa, cũng qua đó nhìn thấy quân Hàn giữ thành đô đã khiếp sợ, nên càng mạnh dạn dùng dây có móc câu và thang dài để vượt qua tường thành. Tại bốn cửa thành đội hình hình chóp nón của quân Tần liên tục tấn công và xung phong, luân lưu giữa kỵ binh và bộ binh. Tướng Mông Quát cưỡi ngựa chiến đốc quân tại cửa thành số bốn, luôn giục đánh trống liên hồi và vẫy cờ thật mạnh, làm cho thanh thế và uy lực của quân Tần ở cửa thành này dồn dập như sóng dữ vỗ bờ, như bão tố hung thần, không ngừng áp đảo quân Hàn. Trước khí thế tấn công như sấm vang chớp giật đó, quân Hàn trong thành chỉ chống đỡ yếu ớt được một ngày thì hoàn toàn bị đánh bại. Mông Quát đưa hai vạn quân vào nội thành, dọc đường giết sạch tất cả những người Hàn mà họ gặp, bất kể là quân hay dân; ngay cả những cung phi đang run rẩy sợ hãi kêu la xin được tha mạng cũng không tha, thật là một đạo quân ác quỷ bạo tàn, giết người như ngóe. Xác người phơi khắp mọi nơi ở Dương Địch, máu chảy thành sông, thê thảm vô cùng. Nhưng Mông Quát thì cứ thúc ngựa đi đi lại lại nhởn nhơ, mặt vênh váo câng câng, thỉnh thoảng đắc chí cười rất khoái trá. Sau khi tuần tra xong toàn bộ chiến trường, Mông Quát đưa quân đi tăng viện cho kinh đô Trịnh Thành.

Đại tướng quân Nội Sử Đằng và tướng quân Mông Nghị chỉ huy sáu vạn quân cấp tốc hành quân như vũ bão đến bao vây Trịnh Thành, vây chặt đến nỗi mỗi con ruồi cũng không thế lọt qua. Bọn họ cũng áp dụng chiến thuật giống như Mông Quát, đưa bộ binh và kỵ binh luân phiên xung phong; dùng dây có móc câu và thang dài leo tường. Nhưng Trịnh Thành là quốc đô của Hàn, nên tường thành kiên cố, hào rộng và sâu, quân thủ thành lên tới trên hai mươi vạn. Tuy Hàn là nước nhỏ, nhưng đến giờ phút cuối cùng của sinh tử tồn vong, toàn bộ tướng sĩ đều liều chết tử thủ, cố sức bảo vệ phía đầu thành và bốn cửa thành bằng mọi giá. Họ dùng chiến thuật “mật tập” (tập trung đông người), lớp này ngã thì lớp sau tiến lên để cố thủ trận địa. Nhưng mỗi khi quân Tần tấn công, quân cố thủ vẫn không lùi bước, vẫn dũng cảm dùng lưỡi đao lưỡi giáo đánh giáp lá cà quyết sống chết với quân thù; những binh sĩ Hàn ở xa hơn thì giương cung bắn tên vào quân Tần. Cho nên cuộc vật lộn giữa quân Hàn và quân Tần ở đây hết sức ác liệt, lúc thì bên này thắng, lúc thì bên kia thắng, thương vong cực lớn. Nội Sử Đằng và Mông Nghị thay nhau chỉ huy, đốc chiến, lại có thêm Mông Quát đưa quân đến tăng viện nên sức tấn công tăng lên gấp bội. Tuy nhiên quân Tần tổng cộng chỉ có tám vạn, trong khi quân Hàn trên 20 vạn mà phần lớn đều là những dũng sĩ ra trận xả thân vì hai chữ trung hiếu. Vì vậy, thế trận giằng co kéo dài quyết liệt trong ba ngày.

Quân Tần tấn công vẫn ngày càng mạnh; quân Hàn yếu thế dần, ngày càng tỏ ra không chống cự nổi. Thừa tướng Hàn Thìn hốt hoảng chạy vào nội cung bẩm báo với nhà vua Vương An:

- Quân Tần do Nội Sử Đằng làm thống soái, Mông Quát và Mông Nghị làm phó soái, đưa tám vạn binh mã đến tấn công nước ta; hạ thần đốc chiến hai ngày, thấy rất khó giữ được kinh thành, tình thế rất nguy cấp, chẳng biết Đại vương định đoạt thế nào?

- Ta có hai mươi vạn tướng sĩ, hẳn là có thể đương đầu một trận. Vả lại còn xem tình hình như thế nào rồi sẽ nói sau - Vương An tuy rất sợ hãi nhưng vẫn giả vờ bình tĩnh, và còn hy vọng các tướng sĩ vì ông ta mà liều chết tử thủ.

- Quân ta hết sức xông trận, vì tưởng nhớ đến ân đức của tiên vương và tình thương yêu của Đại vương đối với quân dân cả nước, nhưng e rằng các tướng sĩ không còn hơi sức để giữ vững trận địa. Vả lại, cái thế của quân Tần dường như đang đắc thắng, xin Đại vương kịp thời quyết đoán, không thể chậm trễ được nữa! - Hàn Thìn bực bội, chỉ trích cả Vương An, thúc giục ông ra nhanh chóng có sự lựa chọn.

Vương An trơ trẽn nói rằng:

- Đã vậy thì chỉ còn một cách là mở cửa thành đầu hàng để bảo toàn tính mạng, tránh cho sinh tinh trăm họ khỏi khốn khổ lầm than, khỏi phụ lòng xã tắc muôn dân.

Hàn Thìn nghiêm sắc mặt nói với Vương An:

- Quân Tần đã quen say máu giết người, dù có dâng cả nước mắt cho chúng để xin hàng, cũng khó tránh khỏi cái chết. Đại vương chớ có cầu may rủi!

Vương An rất sợ hãi, ông ta hỏi:

- Như nhà ngươi nói thì phải chạy khỏi đây mới thoát chết. Ta chỉ biết chơi trò đá cầu, chẳng biết trận mạc là gì, vậy làm sao có thể chạy thoát ra được?

- Lão thần từng là một hổ tướng, ngài tuy là vua, nhưng lão thần có thể đưa mấy tên vệ sĩ, là bảo đảm Đại vương chạy ra khỏi trận địa quân địch, chạy sang nước khác. Tại đó sẽ mưu tính trả thù nhà Tần để khôi phục đất nước - Hàn Thìn vẫn muốn tranh thủ Vương An và hy vọng vào ông ta.

- Thừa tướng đã trung thành với ta như vậy, ta cũng sẽ nghe theo ngươi chạy trốn sang nước khác vậy.

- Thế mới gọi là vị quân chủ có chí hướng - Lúc này Hàn Thìn mới yên tâm, vội nói thêm - Xin Đại vương thay quần áo, mang theo ngọc ấn. Lão thần đi gọi vệ sĩ để bảo vệ Đại vương vượt vòng vây ra ngoài - Nói xong bèn chạy nhanh đi ra.

Ai ngờ trong khi Vương An nói chuyện với Hàn Thìn thì Vương An đã ngấm ngầm bán nước cầu an: ông ta giả vờ đồng ý với Hàn Thìn, nhưng chờ cho đến khi Hàn Thìn đi ra, bèn vào trong phòng ngủ của cung nữ, cởi trang phục nam giới ra, mặc đồ nữ vào. Khi ấy, ông ta có dáng vẻ rất giống một mụ đàn bà, vì ông ta sinh ra đã bạch diện thư sinh, yểu điệu yếu đuối, suốt ngày chỉ rúc trong đám cung nữ. Cho nên nay cải trang thành nữ giới có vẻ rất nhanh chóng và hiệu quả. Mặc xong đồ nữ, ông ta chui trốn vào bên dưới gầm giường, nằm im, nín thở để nghe ngóng. Cái ngọc ấn vẫn cất giấu trong người, chờ vị thần hộ mệnh đến cứu!

Thừa tướng Hàn Thìn nhanh chóng đưa 20 tên vệ sĩ cung đình đến. Ông ta ngồi ngựa, lại dắt theo một con ngựa chiến phủ kinh giáp, dành riêng cho Vương An. Nhưng tìm khắp nơi vẫn không thấy ông vua mất nước ấy ở đâu nữa. Trong khi đó, toàn bộ Trịnh Thành sắp thua đến nơi, vì quân Tần thay phiên nhau liên tục tấn công và quân Hàn thì liên tục thua chạy và lại không có tăng viện. Hàn Thìn suy nghĩ: Vua nước Hàn đã đi đến chỗ không thể cứu được nữa, vì chỉ ham sống sợ chết, sẵn sàng bán nước cầu vinh, thôi thì mình cũng chẳng cần phải hy sinh vô nghĩa theo ông ta nữa. Nghĩ vậy, bèn gạt nước mắt căm giận vội nhảy lên ngựa chạy nhanh về cửa bắc, có 20 vệ sĩ hộ vệ. Khi này đúng vào lúc quân Tần đã đẩy được cổng thành, bộ binh và kỵ binh của chúng ào ạt xông vào. Hàn Thìn và vệ sĩ đi ngược chiều với quân địch, chém giết điên cuồng, cuối cùng cũng chạy thoát ra ngoài, mặc dù vô cùng khó khăn. Nhưng trước mặt lại gặp một đội kỵ binh do Nội Sử Đằng chỉ huy đang xông tới. Hàn Thìn và vệ sĩ lại dốc hết sức tàn quyết tử chiến với quân Tần một lần nữa. Nội Sử Đằng thấy cách ăn mặc của Hàn Thìn bèn cho rằng là nhân vật quan trọng, bèn dùng giáo dài quyết đấu Hàn Thìn tuổi đã ngũ tuần, lại vừa vật lộn khá lâu khi vượt qua cửa thành, nay mặc dù quyết tâm rất lớn, song cảm thấy lực bất tòng tâm. Tuy nhiên, với tư cách là một thành viên hoàng gia nước Hàn, lại là thừa tướng đương chức, ông ta cảm thấy không thể để cho mình lọt vào tay quân địch. Nghĩ vậy, nên sau một hiệp đấu, ông ta không quay ngựa ứng chiến nữa, mà xông thẳng về phía trước. Quân Tần bất ngờ, không kịp đối phó, nên ông ta nhanh chóng mở ra được một khoảng trống, sắp sửa chạy thoát khỏi vòng vây. Vì vậy chúng liền bắn tên loạn xạ vào người ông. Hàn Thìn biết không thể tránh khỏi tai họa rồi, nên rút kiếm giơ cao, ngửa mặt lên trời, nói khóc to mà rằng:

- Hỡi trời xanh lồng lộng! Than ôi! Nước Hàn của ta đã mất rồi - Nói xong cứa mạnh kiếm vào cổ rồi ngã gục xuống đất.

Nội Sử Đằng thấy ông rất trung dũng kiên cường, nên cho chôn cất tử tế.

Trịnh Thành bị chiếm, nước Hàn bị diệt vong. Nội Sử Đằng đưa thiết kỵ binh vào nội cung, thấy bọn quan lại nam giới đều giết hết, cung phi thì còn để lại xét sau. Vương An đóng giả nữ nên trà trộn vào đám cung phi và sống sót. Nhưng sau bị một cung nữ thật thà nhận ra, bèn lộ nguyên hình, nên vội vàng quỳ xuống, trình nộp quốc ấn, khóc lóc xin tha. Nội Sử Đằng thấy ông ta tự nộp quốc ấn, nên tạm tha tội chết. Các quan chức khác, một số tự vẫn, khoảng mấy trăm người còn lại đều bị giết chết. Đầu người được giữ lại làm chiến lợi phẩm, làm cơ sở để lĩnh thưởng phong chức. Tất cả vàng bạc châu báu đồ cổ và mọi thứ quý hiếm, đều bị Nội Sử Đằng cướp hết sạch, sau đó châm lửa đốt sạch cung điện lâu đài và tất cả mọi vật kiến trúc tượng trưng cho nước Hàn. Nước Hàn sống thoi thóp bấy lâu nay hoàn toàn diệt vong.

Tin chiến thắng ở Hàn liên tục được đưa về Hàm Dương, làm cho nhà vua Doanh Chính vui mừng khôn xiết, đứng ngồi không yên, ngài bèn tạm giao việc triều chính cho thừa tướng Xương Bình Quân chủ trì, tự mình cùng với Úy Liêu đưa ba vạn quân “mãnh hổ” đi nhanh sang nước Hàn. Nhà vua trước hết đến Dương Địch đi xem xét một lượt khu vực nội ngoại thành, nhìn thấy cảnh đổ nát của cung điện bèn khoái chí vô cùng. Nhà vua cho rằng đây là bước khởi đầu của lộ trình chinh phục sáu nước của ông. Đối với Úy Liêu, ông ta coi đó là thành quả của tư tưởng quân sự và bố trí chiến lược của mình đã được thực hiện thành công thuận lợi lần đầu tiên, nên cũng rất tự hào và lấy đó để khuyến cáo nhà vua trẻ tuổi. Hai vua tôi không ở đây lâu mà tiếp tục thúc quân đi về phía Đông. Dọc đường, trống giong cờ mở, người reo ngựa hý, vó ngựa dập dồn, tiếng chân rậm rịch, đúng là một đạo quân kiêu binh đang chiến thắng, mọi người trông thấy đều phải khiếp sợ. Khi đoàn quân của nhà vua đến Trường Đình, cách ngoại thành Trịnh Thành mười dặm, thì các tướng Nội Sử Đằng, Mông Quát cùng các phó tướng, và hơn ba vạn bộ binh, kỵ binh đã xếp hàng đứng nghiêm hai bên đường để chào đón Thánh giá. Nhà vua và Úy Liêu vẫn ngồi trên xe. Tiếng hô “Vạn tuế!” kêu vang trời dậy đất.

Sau lễ đón, tất cả mọi người đi vào thành. Đội “mãnh hổ” của nhà vua đi trước dẫn đường, Doanh Chính, Úy Liêu và các tướng đi giữa, sau cùng là các đơn vị quân Tần khác. Để đón tiếp nhà vua Doanh Chính, nội ngoại thành đô được quét dọn, không còn thấy vết máu và bụi than nữa. Khi Nội Sử Đằng đưa Doanh Chính, Úy Liêu đi xem xét khuôn viên cung đình, ông ta đã chú ý giới thiệu rất ủi mỉ với nhà vua về vua Vương An của Hàn đã cải trang thành nữ giới và quỳ lạy van xin được tha như thế nào, đến nỗi nhà vua và Úy Liêu cười bổ nghiêng bổ ngả, kéo theo tất cả cùng cười, thật là một dịp để xả hơi một lúc.

Nội Sử Đằng là người lớn tuổi nhất ở đó, không còn hăng máu như Mông Quát nữa, trong quá trình tác chiến, ông có cho đốt cháy một số công sự phòng ngự và lâu đài của Hàn, nhưng sau đó thì thôi, không nhúng tay vào việc đốt phá cung đình của Hàn nữa, để nơi này nhìn chung vẫn giữ nguyên trạng. Nhà vua Doanh Chính khen ngợi việc làm đó, vì đây là kinh đô của Hàn, cần giữ lại một số di tích lịch sử. Nhất là từ lâu nay Hàn vẫn tự hạ mình xưng thần với nhà Tần, nên vua Tần vẫn không có ác cảm nặng nề quá đáng đối với Hàn, không có tư tưởng trả thù hoặc đánh cho hả giận, cho nên ngài cho phép giữ nguyên bộ mặt cung đình, coi đó là một cột mốc trên cuộc hành trình viễn chinh.

Để mừng chiến thắng diệt Hàn, Doanh Chính tổ chức một buổi lễ long trọng tại cung điện cũ của Hàn quốc, do ngài chủ trì. Cuộc vui kéo dài mấy ngày, khao thưởng ba quân. Theo đề nghị của Úy Liêu nêu lên trong lúc đang dự yến, Nội Sử Đằng phải đem quân đi khắp nước Hàn để thanh trừ triệt để hết lực lượng tàn dư của Hàn, nhằm tránh hậu họa. Doanh Chính đưa bản đồ ra và khoanh vùng lãnh thổ mới chiếm được (nước Hàn), đặt tên là Quận Đông, hoặc Dĩnh Xuyên. Khi mọi việc đã hoàn tất, nhà vua và Úy Liêu lại trở về Hàm Dương, vẫn do quân “mãnh hổ” yểm hộ.

Một năm sau khi diệt Hàn, tức mùa hè năm thứ 18 niên hiệu Doanh Chính (năm 229 trước Công nguyên) Doanh Chính lại chủ trì cuộc họp triều chính bàn về kế hoạch tấn công nước Triệu. Sau khi ca ngợi các chiến công diệt Hàn năm ngoái, nhà vua tuyên bố:

- Các tướng Nội Sử Đằng, Mông Quát, Mông Nghị năm ngoái đánh Hàn có công lớn, chiến đấu rất vất vả mệt nhọc, phải được nghỉ ngơi chỉnh đốn lại đơn vị mình. Năm nay sẽ giao trọng trách đánh Triệu cho một số tướng quân khác.

Tiếp đó, ngài giao cho quốc úy Úy Liêu bố trí cụ thể. Theo Úy Liêu, đại tướng quân Vương Tiễn chỉ huy 10 vạn quân, hành quân theo con đường đánh Triệu trước đây, đi qua Tịnh Hình để vào lãnh thổ Triệu sau đó tiến thẳng một mạch đến Phì Hạ, Nghi An, Phiên Ngô, và cuối cùng đánh chiếm Hàm Đan.

Đại tướng quân Dương Đoàn Hòa chỉ huy 10 vạn quân, đi từ phía Tây sang Đông, là cánh quân đánh nhanh thắng nhanh mà trước hết phải tạo thanh thế thật rầm rộ để răn đe vua tôi nước Triệu. Đại tướng quân Khương Quỹ chỉ huy 10 vạn quân, càn quét miền Đông nước Triệu ngăn cản quân tăng viện từ bên ngoài tới giúp Triệu; sau đó đến tập trung tại Hàm Đan, tăng cường lực lượng tổng tấn công. Ngoài ra, Hàm Đan là nơi mà cả nhà Doanh Chính bị làm nhục và chịu khổ cực lâu dài [iii]; cho nên, lần này Doanh Chính phải dẫn 20 vạn quân đi đốc chiến ở phía sau, để đề phòng tái diễn cục diện thảm bại lần trước, bị Lý Mục của Triệu cắt đứt đường rút lui và quân Tần bị bao vây và thương vong quá lớn.

Các tướng lĩnh nghe xong bố trí chiến lược nói trên, bèn đến nhận quân lệnh ở Úy Liêu. Sau đó, mỗi người về đơn vị mình, chuẩn bị khẩn trương để xuất phát đúng thời hạn quy định.

Về phía nước Triệu sau khi có tin cấp báo quân Tần đến xâm phạm với quy mô lớn, nhà vua Vương Thiên hết sức kinh hoàng vội gọi Quách Khai vào cung. Vương Thiên hỏi Quách Khai trong tâm trạng rất bối rối:

- Quân Tần đưa đại quân chia làm ba cánh đến xâm phạm, cốt để trả thù trận đại bại ở Phì Hạ năm trước; vậy ta cũng phải ứng chiến mới phải!

Quách Khai biết mục đích lần này của quân Tần là đánh chiếm Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu. Nhưng vì bản thân là thừa tướng, nên không thể để lộ quá sớm ý đồ đầu hàng; huống hồ là một tên nô lệ mất nước sao bằng được chức vụ thừa tướng như hiện nay; cho nên, ông ta chủ trương chủ chiến. Quách Khai nói:

- Quân Tần lần trước bị quân ta đánh bại, chắc là phần nào có sợ hãi. Nay tuy chia ba cánh để tấn công, nhưng nếu chúng ta ra quân trước một bước, bịt kín đường giao thông huyết mạch, thì họ không thể thắng được.

Mặt mày Vương Thiên lúc ấy buồn xỉu buồn xiu, ông ta nói:

- Lý Mục vừa chết, lấy ai thống lĩnh đại quân ta, để có thể chống lại bọn cường địch bây giờ đây?

Quách Khai có tật giật mình, nhưng biết cách lấp liếm ngay và điềm nhiên nói rằng:

- Nước Triệu ta thời nào cũng có nhân tài, sau Triệu Xa, Liêm Pha là Bàng Huyền, Hỗ Triếp, Lý Mục. Nay thì có Nham Tụ, Triệu Thông, đều đáng mặt là những võ tướng còn trai trẻ, có thể giao trọng trách, xin bệ hạ cất nhắc họ làm thống soái, chỉ huy toàn quân chống Tần, chắc chẳng kém gì Lý Mục.

Vương Thiên bèn dựa vào ý của Quách Khai, gọi Nhan Tụ, Triệu Thông đến và phong chức đại tướng quân; hai người này tuy không bằng Lý Mục nhưng đều đã tham gia chinh chiến nhiều năm, có những kinh nghiệm tác chiến thực tế nhất định, lại rất thành thạo địa hình địa thế trong nước, nhất là họ đều là những tướng trẻ một lòng sắt son với quê hương đất nước, sẵn sàng xả thân để bảo vệ tổ quốc giang sơn. Vì vậy, khi nhận được lệnh, hai người lập tức tiếp nhận “hổ phù” (binh phù), và vạch kế hoạch tác chiến. Theo đó, Triệu Thông chỉ huy 10 vạn quân đến Tịnh Kinh, cất đến trước để chặn quân Tần ở đó. Nhan Tụ chỉ huy 10 vạn quân bảo vệ Hàm Đan. Hai đơn vị này phải giữ liên hệ với nhau, chi viện cho nhau. Chỉ cần Tịnh Kinh có thể giữ vững được, thì Hàm Đan trước mắt chưa có gì đáng ngại. Nhà vua Vương Thiên nghe bố trí vậy, cảm thấy yên tâm. Còn Quách Khai thì mặt mày hớn hở, tự khoe khoang là mình có con mắt nhìn người, đã kịp thời tiến cử những con người trụ cột vững vàng.

Mười vạn quân của Triệu Thông hành quân cấp tốc đến Tịnh Kinh, cố đến thật sớm để chiếm các điểm cao trước khi quân Tần đến; chặn đứng các ngã ba đường và các cửa khẩu; nắm quyền chủ động. Nhưng Triệu Thông không ngờ rằng trong đội quân của ông ta, có một số tướng sĩ là quân của Lý Mục trước đây. Sau khi chủ soái Lý Mục bị hãm hại, những người này sợ bị liên lụy nên bề ngoài tỏ ra ủng hộ triều đình, phục tùng chủ soái mới. Nhưng nay đã ra tận tiền tuyến rồi, thì đây là cơ hội tốt để trả thù cho chủ soái Lý Mục của họ. Họ ngấm ngầm liên lạc với nhau để chuẩn bị hành động. Khi toàn đơn vị đi đến một ngã ba đường, bỗng một tiếng kêu vang lên, thế là một vạn rưỡi thiết kỵ binh lập tức cho ngựa quay đầu lại, chạy nhanh về phía Bắc Đại Quận. Triệu Thông phải vất vả mãi mới chỉnh được số quân còn lại đang rất lộn xộn nhốn nháo. Cuối cùng cũng lấy lại trật tự và hàng ngũ chỉnh tề, lại tiếp tục hành quân. Nhưng chậm mất hơn một canh giờ (khoảng hai - ba giờ) Khi quân sĩ đang rất chán nản của ông ta kịp đến Tịnh Kinh thì quân Tần đã chiếm hết các vị trí lợi thế từ lâu rồi, và đang lăm lăm sẵn sàng xông trận. Quân của Triệu Thông đành phải vội vã bố trí trận địa ở mé trước, chuẩn bị đánh trả quân Tần để giành lại các điểm cao.

Triệu Thông lúc đầu cứ nghĩ rằng ông ta có trong tay thiên thời, địa lợi, nhân hòa, nhưng nay thì nhoáng một cái mất sạch, ưu thế hoàn toàn chuyển sang tay kẻ địch hết cả. Vì vậy trạng thái tâm lý của vị thống soái này có bị chao đảo rất mạnh. Tuy nhiên, ở cương vị của mình, Triệu Thông không thể tỏ ra yếu thế, mặc dù thật sự đang ở thế yếu. Nếu không, sẽ không đánh mà thua ngay lập tức. Nghĩ vậy, ông ta bèn lập tức phát lệnh cho toàn quân sẵn sàng chiến đấu, chuẩn bị tấn công. Nhưng đối thủ của ông ta là đại tướng quân Vương Tiễn, một lão tướng dã từng trải hàng trăm trận; Vương Tiễn sao có thể để cho địch thủ của mình được một phút xả hơi. Cho nên, ngay khi Triệu Thông chưa kịp bố trí xong trận địa, ông ta đã cho nổi trống trận, xua toàn quân xông vào quân Triệu.

Quân Triệu lúc ấy đã rất mệt mỏi vì mới hành quân từ xa đến, lại phải vội vàng ứng chiến, nên rất hoang mang sợ hãi, chẳng đáng mặt đối thủ của quân Tần nữa. Trong tình hình đó, quân Triệu chỉ còn một con đường duy nhất là vứt bỏ mọi vũ khí nặng nhẹ và xe cộ, nấp sau kỵ binh để cướp đường tháo chạy thoát thân, còn thế trận như thế nào, chẳng còn gì để nói nữa. Triệu Thông và mấy viên phó tướng không tài nào làm chủ được tình thế nữa, nên cũng ai lo phận nấy, cố sức thoát khỏi vòng vây để bảo toàn tính mạng. Chủ soái Tần là Vương Tiễn đứng trên cao nhìn thấy hết; ông ta phất cờ ra lệnh cho kỵ binh và chiến xa chặn hết chỗ này đến chỗ khác, không cho quân Triệu lọt ra ngoài, vòng vây ngày càng thắt chặt lại. Quân Triệu bị vây chặt trong rừng gươm giáo, cũng đến lúc phải liều chết quyết chiến điên cuồng. Vì vậy, trận địa giáp lá cà diễn ra rất thảm khốc.

Cuộc tàn sát đẫm máu kéo dài suốt một ngày đêm, quân Triệu dần dần đuối sức, Triệu Thông rốt cuộc vẫn không phá được vòng vây, bị một viên tướng của Tần đâm chết. Chủ tướng ngã gục, toàn quân tán loạn, bị quân Tần đâm chém hầu hết, chỉ còn một số rất ít chạy thoát ra ngoài và tản ra khắp nơi, hồn kinh phách lạc.

Cuộc chiến này, quân Triệu bị chết chín phần mười, chỉ còn sống sáu, bảy nghìn. Quân Tần chết hai phần mười, còn tám vạn. Sau khi nghỉ ngơi chốc lát, Vương Tiễn đưa đại quân tấn công các thành Phiên Ngô, Nghi An, Hạ Phì. Quân Tần vẫn là một đội quân sát khí đằng đằng, giết người như ngóe. Sau khi quét sạch mọi cứ điểm của quân Triệu, đại quân của Vương Tiễn xông thẳng đến Hàm Đan, phối hợp với tướng Dương Đoàn Hòa tấn công quân Triệu. Ở miền Bắc nước Triệu, đại quân Khương Quỹ quân Tần triển khai một trận địa rất dài, khiến quân Triệu ở các quận ở phía ngoài không tài nào đưa quân vào tiếp viện, đẩy Hàm Đan vào thế cô lập hoàn toàn, phải vật lộn giãy chết trong vòng vây của 30 vạn quân Tần.

Đại tướng quân Nhan Tụ chỉ huy 10 vạn quân Triệu cứ cố thủ trong nội thành Hàm Đan, không chịu ra ứng chiến. Vì vậy quân Tần không thể đánh chiếm ngay được. Trong khi đó, toàn bộ cung đình và triều thần nhà Triệu đã mất hết tinh thần. Nhà vua Vương Thiên biết mình là quân chủ nước Triệu, là đối tượng nguy hiểm nhất của quân Tần, cho nên ông ta luôn luôn gọi Nhan Tụ vào cung, giao trách nhiệm cho ông ta phải liều chết giữ vững kinh thành.

Khi nhận lệnh của nhà vua, Nhan Tụ vì tức giận nên không sợ phạm thượng, ông ta đã trách nhà vua, lẽ ra không nên nghe lời xúc xiểm bịa đặt để giết mất Lý Mục, đến nỗi bây giờ rơi vào thảm trạng là ngồi chờ chết, làm gì còn mặt mũi để ra lệnh cho bề tôi phải bỏ mình cho ông ta nữa! Vương Thiên há miệng mắc quai, chỉ còn cách là cầu cứu Quách Khai. Quách Khai thì đã tính toán sẵn rồi, nên hết sức khuyên nhà vua đầu hàng. Vương Thiên cũng xiêu lòng. Nhưng ý đồ của Quách Khai bị hoàng gia nhà Triệu kiên quyết phản đối. Người phản đối mạnh nhất là công tử Gia. Công tử Gia là con trưởng của Triệu Tương Vương, lẽ ra là người kế vị ngôi vua. Nhưng Triệu Tương Vương lại sủng ái một người con của một ái phi xuất thân làm kỹ nữ, nên phong đứa con ấy làm thái tử và nối ngôi vua. Đó chính là Vương Thiên.

Công tử Gia giữ lòng hiếu thuận, vâng lời phụ vương, không hề tính toán hơn thiệt của cá nhân. Ngược lại, ông ta còn luôn luôn can gián Vương Thiên, hy vọng Vương Thiên cố gắng cứu vãn vận mệnh đất nước. Nào ngờ, vị vua u mê này chẳng thèm để ý đến những lời can gián chính trực, ngược lại, còn hãm hại trung thần, gây bao tai họa cho dân cho nước; cuối cùng rơi vào tình trạng tuyệt vọng. Nay lại nghe những lời huyễn hoặc của Quách Khai để dự định đầu hàng quân Tần. Công tử Gia không thể kìm nén được căm giận, bèn dẫn đầu các hoàng thân quốc thích tôn thất họ Triệu, xông thẳng vào nội cung, chửi mắng Quách Khai, chặn đứng ý định đầu hàng của Vương Thiên. Nhóm thành viên hoàng gia này nhất trí quyết định mỗi nhà phải tự vũ trang, mọi người trong gia đình mình, cũng tham gia quân đội bảo vệ kinh thành, quyết chiến chống quân Tần đến giọt máu cuối cùng.

Trước khí thế chính nghĩa kiên định như vậy của hoàng gia tôn thất, Quách Khai khiếp sợ vô cùng, đành phải tìm cách chui lủi chạy về nhà mình, đóng chặt cửa, chẳng dám ló mặt ra nữa. Vương Thiên cũng không dám nói đến chuyện đầu hàng nữa, đành phải ấp úng cầu xin mọi người bớt ra một ít người đến bảo vệ nội cung. Nói xong vội trốn vào phòng ngủ, rúc mình vào trong lòng một ái phi, run lên cầm cập, rồi thút thít khóc lóc chẳng khác một đứa trẻ.

Quân hai bên cứ thế cầm cự nhau suốt một năm, cho đến giao thời xuân hạ năm 19 niên hiệu Doanh Chính (năm 228 trước Công nguyên) nhà vua Doanh Chính đích thân đưa quân đến tăng viện, tự mình đốc chiến, 50 vạn quân Tần đồng loạt tổng tấn công vào Hàm Đan. Quân Triệu hoàn toàn thất bại, vì không có tiếp tế, không có tăng viện, 10 vạn quân Triệu bị quân Tần say máu giết sạch. Tất cả gia đình, gia tướng của các gia đình hoàng gia tuy hết sức liều mình đánh trả quân Tần, nhưng quá ít so với đại quân xâm phạm, nên cũng bị giết hại hết sức thảm. Tất cả các văn thần võ tướng trung thành với triều đình nhà Triệu và gia đình họ đều bị chặt đầu hết sạch. Tướng Nhan Tụ, thống soái quân Triệu, định giở trò “phản Tề hàng Triệu” như trước đây ông ta đã làm, nhưng đã bị Vương Tiễn chém đầu chết tươi. Còn Vương Thiên, tên vua nhu nhược tham sống sợ chết cũng bị bắt sống khi đang trốn trong đám cung nữ, chẳng khác một chút gì như vua Vương An của nước Hàn, có khác cũng chỉ khác người khác cảnh mà thôi. Vua Vương An của Hàn thì cải trang thành nữ, còn Vương Thiên của Triệu thì nữ ôm lấy nam. Ông ta nhảy vào bồn tắm, đứng trần truồng trong nước tràn ngập hương thơm, một bầy cung nữ, cũng chẳng manh áo che thân, đưa tay ôm chặt lấy Vương Thiên đứng ở chính giữa, còn họ thì khom lưng quay mông ra ngoài, làm thành một cột trụ bằng xương thịt, giống như một bông sen khổng lồ, các cánh sen là cung phi, bảo vệ tâm sen là Vương Thiên. Trong bể nước ấm áp, bọn cung phỉ còn liên tục đốt hương, khói hương nghi ngút, làm cho toàn bộ nhà tắm ngập trong mùi hương khói, chẳng khác gì như một chốn bồng lai tiên cảnh.

Vương Thiên cứ nghĩ rằng khi tướng sĩ quân Tần nhìn thấy những tiên nữ lõa lồ đang tắm, chắc phải nhớ đến câu “nam nữ thụ thụ bất thân” và lời dạy “phi lễ vật thị, phi lễ, vật động” [iv], thì họ phải bỏ đó mà đi. Nhưng đối với những sát thủ khát máu như số tướng sĩ quân Tần đã xông vào tận sào huyệt thâm cung của nhà Triệu, thì đám người trong bể tắm lại là những miếng mồi ngon lành của các mũi giáo sắc nhọn của họ. May mà lọt vào tay một viên phó tướng của Tần còn khá nhân hậu, vả lại viên phó tướng này còn nghi nghi hoặc hoặc, không rõ nhân vật này là ai mà lại trốn ở chính giữa, nên chưa vội ra tay. Sau đó, mọi người nhận ra đó là Vương Thiên, đại vương nước Triệu. Vậy là viên phó tướng được thưởng 50 dật vàng và thăng cấp lên tướng quân.

Trong khi đó, thừa tướng Quách Khai lại là một trường hợp rất đặc biệt. Nhờ có công giúp Tần mưu hại Lý Mục, và được Diêu Giá của Tần hứa sẽ phong “thượng khanh”, nên ông ta hí hửng vui mừng, vênh váo tự đắc. Ông ta và cả gia đình phấn khởi, ăn uống suốt mấy ngày. Nhưng đến ngày thứ ba, Doanh Chính tổ chức một cuộc tàn sát lớn tại quảng trường phía trước Tùng Đài ở Hàm Đan; trong đó, vua Tần cho chém hết tất cả các thành viên hoàng gia họ Triệu đã thề chết chống Tần; còn giết cả 83 người bị kết tội là trước đây đã ức hiếp, hãm hại hoặc khinh miệt Triệu thái hậu, mẹ của ông ta. Tất cả hơn 300 người, họ bị áp giải đến chỗ hành hình, đứng thành hai hàng hai bên.

Vua Triệu Vương Thiên bị áp giải đến đứng trên đài cao nhất chứng kiến cuộc hành hình. Ông ta run rẩy sợ hãi, toàn thân nhũn ra như bún, mắt trắng dã, mặt cắt không còn hột máu, chỉ còn là cái xác không hồn.

Tần Doanh Chính ngồi ở cao trung tâm; Vương Tiễn, Dương Đoàn Hòa, Khương Quỹ, Úy Liêu chia nhau đứng hai bên. Nhạc buồn tấu lên trầm trầm. Doanh Chính đưa cho Quách Khai bản kê tội trạng của những người sắp bị giết, để tuyên đọc. Vị “thượng khanh” mới được phong chức này lúng ta lúng túng, tuy được chủ mới tôn trọng nhưng trong lòng vẫn nơm nớp lo sợ. Tuy nhiên, ông ta vẫn ngang nhiên đứng thẳng người trước mặt các tử tù và đọc “tội trạng” của từng người một. sau khi đọc xong, Quách Khai quay người bước lên tam cấp để về chỗ, bỗng nghe Úy Liêu sai phó tướng kéo ông ta xuống. Thật là sét đánh ngang tai, Quách Khai cố sức gào lên:

- Tâu bệ hạ, xin tha cho lão thần, Quách Khai này có công với Tần cơ mà!

Doanh Chính liếc nhìn ông ta rồi mặc kệ. Úy Liêu nói to cho mọi người nghe:

- Quách Khai tham lam của cải hối lộ rất lớn của nước ta, đã hãm hại Lý Mục đến chết, cố nhiên có công với Tần. Vì vậy được phong “thượng khanh” để ban thưởng. Nhưng xét về căn bản, Quách Khai bán nước cầu vinh, để cho đất nước bị diệt vong. Những tham quan nịnh thần như vậy, không một nước nào chấp nhân! Do vậy, phải đem ra xử tử để giữ vững kỷ cương.

Úy Liêu vừa dứt lời, toàn bộ quảng trường vang lên: “Bệ hạ anh minh! Tần Vương vạn tuế!”. Ngay cả Vương Thiên dở sống dở chết, vừa hối hận vừa căm phẫn, cũng thốt lên:

- Giết là phải! Phải giết chứ để sống làm gì!

Chỉ mới được làm “thượng khanh” ba ngày, hôm nay Quách Khai là người bị hành hình đầu tiên. Tiếp theo đó là trên hai trăm người Triệu bị giết bằng cách chặt đầu, thắt cổ, hoặc vứt vào vạc dầu. Đến đây, tính say máu giết người và trả thù của Doanh Chính mới thỏa mãn.

Mấy hôm sau, Doanh Chính thưởng công bằng vàng bạc và thăng cấp cho những người lập công trong chiến dịch vừa qua. Đồng thời, ban phát tài sản hoặc tiền của cho những ai trước đây đã giúp đỡ, quan tâm đến mẹ con ngài, để tỏ rõ tấm lòng của ngài biết nhớ đến người có công ơn với mình, sống có tình có nghĩa ngay cả với người dân thường. Lẽ ra Doanh Chính định ở lại Hàm Đan thêm mấy ngày nữa, nhưng thừa tướng Xương Bình Quân cho kỵ binh từ Hàm Dương đến cấp báo:

- Thái hậu bệnh nặng!

Nhà vua bèn phải ngày đêm cấp tốc quay về, hộ vệ ngài là 400 lính cận vệ “mãnh hổ”.

Lúc này, trong cung Cam Tuyền ở Hàm Dương, thái hậu Triệu Cơ đang sống đau khổ những ngày cuối cùng của đời mình. Kể từ khi ngài nghe lời Mao Tiêu, đích thân đón thái hậu ở cung Phụ Dương ở Ung Thành về Hàm Dương đến nay, vừa tròn sáu năm. Về hình thức bề ngoài, thì kể từ khi bà trở lại sống trong cung Cam Tuyền, nơi mà trước đó bà đã có những ngày thật sự hạnh phúc êm đềm, giờ đây tình mẹ con được chắp nối thuận hòa như xưa. Tuy nhiên, đối với bà, cung Cam Tuyền giờ đây hoàn toàn giống như lời ca mà bà đã hát năm nào: “Cuộc đời phận bạc, cô đơn một mình. Tù túng trong cung Cam Tuyền khổ ải; Ai thấy lòng ta, trằn trọc đêm dài!”. Những cung nữ và nội thị vệ đã hầu hạ bà lâu năm, đều rất thông cảm với nỗi lòng sầu thảm của bà. Những đêm hè nóng nực phải luôn phe phẩy quạt lông để đuổi muỗi cho bà; hoặc những ngày đông giá rét phải có “rượu nếp cẩm” và lò sưởi than hồng để chống rét cho bà, lúc ấy họ ngồi vây quanh bà, trò chuyện râm ran, làm vui lòng bà, thậm chí còn hát hò ngâm nga, nhảy múa, để xua bớt nỗi u sầu vẫn đè nặng trong lòng bà. Để cảm ơn sự quan tâm săn sóc của họ, thái hậu cũng miễn cưỡng tươi cười và trò chuyện với họ; có lúc cao hứng cũng ngâm vịnh mấy câu. Nhưng rốt cuộc cũng chỉ là khiên cưỡng, chẳng qua chỉ là ứng phó nhất thời cho qua chuyện. Khi tan cuộc, trở về với buồng the lạnh lẽo với cây đèn leo lét của mình, thì bà lại càng cảm thấy cô đơn vắng vẻ. Bởi vì lúc này bà chẳng còn một người thân nào bên cạnh, sự trống trải và hư vô tràn ngập trong lòng bà! Nhưng thực tế có phải vậy đâu! Bà không những có con dứt ruột đẻ ra, mà lại là nhà vua đang có quyền lực nhất, danh vọng nhất, xán lạn nhất. Nhưng ngài, nào có nhiều thì giờ để đến chung vui với mẹ, đưa lại cho mẹ tình mẫu tử theo như đạo hiếu của trời đất mà chỉ chăm chú vào việc triều chính, nhất là việc bành trướng bằng quân sự. Thảng hoặc ngài có đến thăm bà, gợi cho bà tình cảm ruột thịt của mẹ con và lòng thương con, nhưng chẳng hiểu sao, mẹ con nói chuyện với nhau chỉ một lúc là sinh ra trục trặc, chẳng hòa hợp với nhau, thậm chí xung khắc, đối chọi nhau, rồi chia tay chẳng vui vẻ gì.

Chính trong mấy hôm Doanh Chính nghe lời mấy vị tôn thất hoàng gia rồi ra lệnh xua đuổi người nước ngoài Doanh Chính muốn giải sầu một lúc bằng cách đến cung Cam Tuyền thăm mẹ. Thái hậu thấy con đến thì vui mừng quá, bà tự tay rót trà, lấy hoa quả đưa cho nhà vua, xích lại gần để nhìn cho thật kỹ ông vua đại Tần này đúng là đứa con của mình. Khi hai người nói đến chuyện bà từ Ung Thành trở về cung Cam Tuyền, thái hậu bất giác nhắc đến Mao Tiêu. Bà than thở rằng:

- Hai mẹ con ta sở dĩ có thể trở lại như xưa là nhờ có công can gián của Mao Tiêu. Có thể lúc nào thuận tiện, gọi ông ta vào cung, để mẹ có thể cảm ơn ông ta một chút.

Điều này lại đụng chạm đến một việc riêng tư của Doanh Chính. Nhà vua cảm thấy đau lòng khi nói với bà:

- Ý của mẹ tuy rất tốt, nhưng con đành phụ lòng mẹ!

- Việc mẹ mời Mao Tiêu đến chẳng có gì là không đáng, sao con lại từ chối? - Thái hậu không hiểu tại sao Doanh Chính lại không nghe lời mình.

- Không phải là con không nghe lời mẹ, mà là ông ấy đã bị con đuổi về nước rồi - Doanh Chính đành nói ra sự thật.

- Ồ! Lại có chuyện đó ư? Nhưng ông ta phạm vào điều luật nào? - Thái hậu tỏ ra lo lắng.

- Không phạm điều gì cả! - Nhà vua hạ thấp giọng trả lời

- Vậy là nói năng cử chỉ gì đã đắc tội với con? - Thái hậu vội hỏi.

- Càng không phải! - Doanh Chính cau mày, xua tay, không muốn nói nhiều.

Đến đây, thái hậu có phần nào sốt ruột, bà trách con:

- Vậy là một người rất tốt, tại sao con lại đuổi ông ta?

Mẹ hỏi vậy, Doanh Chính bèn nói thật:

- Vì nghe các bậc đàn anh của Hoàng gia nói rằng gần đây triều đình xảy ra đủ thứ chuyện bậy bạ xấu xa, phần lớn đều do người nước ngoài gây ra cả. Để đề phòng chính quyền rơi vào tay kẻ khác, lấy lại trật tự kỷ cương, con đã ra lệnh đuổi toàn bộ các khách khanh ra khỏi nước ta, để trừ tận gốc những tai họa có thể có.

- Ý kiến các bậc đàn anh của Hoàng gia tôn thất có thể có chỗ đúng chỗ sai, nên phân biệt người tốt, người xấu, xử lý thận trọng. Vậy mà con đuổi tất cả, chẳng để lại một ai. Thế thì người thân sẽ đau lòng mà kẻ thù sẽ vui mừng thôi - Thái hậu nói rất nghiêm khắc.

- Con cũng biết trong khách khanh cũng có người tài có thể dùng được, nhưng rốt cuộc họ chỉ là tầm gởi lấn cành, được đằng chân lân đằng đầu, khiến lòng người không thể yên tâm. Huống chi chỉ dụ đã ban ra rồi, không thu hồi lại được nữa! - Doanh Chính cứ khăng khăng ương ngạnh, không chịu để cho thái hậu can dự vào công việc của mình.

- Các khách khanh là người nước khác, họ đều rất có chí hướng, là những chí sĩ biết gắng sức báo đáp ân tình, có thể xả thân vì nước, ra sức phụng sự nước Tần ta - Thái hậu vẫn cố sức thuyết phục Doanh Chính. Bà rất hay liên tưởng, nhưng thiếu bình tĩnh, bất giác nói - Năm nào Lã thừa tướng bán hết gia sản, phò tá tiên vương và đưa con lên ngôi quân chủ. Đó chẳng phải là khách khanh có công với Tần đó sao?

Mặc dù thái hậu nói đúng sự thật, và cũng là nói ra điều tốt lành, nhưng lại đụng đến nỗi đau sâu sắc và khó nói nhất trong lòng Doanh Chính, ngài bèn nghiêm sắc mặt nói với thái hậu, bất chấp trên dưới và tình nghĩa mẹ con:

- Lã thừa tướng! Lã thừa tướng cái gì? Bà không bao giờ quên được ông ấy. Sao không gọi là Trọng phụ? Thật là nghĩa tình quá sâu sắc, lúc nào cũng nhớ nhung canh cánh trong lòng! - Nói xong vội vẫy ống tay áo ra đi.

Thái hậu không ngờ mình nói với con những lời khuyên can tốt bụng như thế lại bị con oán trách và khinh bỉ, bà cảm thấy rất buồn. Để bảo vệ lòng tự tôn, bà vẫn phải tỏ rất bình thường trước mặt các cung nữ và nội thị vệ. Chỉ khi nào nằm một mình trong chăn mới thui thủi sụt sùi nước mắt đầm đìa, ướt đẫm cả một mảng lớn trên gối. Từ đó về sau, mỗi khi gặp Doanh Chính, lúc nào cũng nơm nớp lo nghĩ, nói năng dè dặt, và cũng không dám nhìn thẳng vào khuôn mặt nghiêm khắc luôn luôn lạnh như tiền của con nữa. Do buồn bực lâu ngày, bà ngày càng suy nhược, rồi bị bệnh ngày càng nặng, cứ nằm dài trên giường.

Trước khi Doanh Chính đưa quân đánh Triệu, ngài có đến gặp mẹ để hỏi ý kiến bà về danh sách những người có thù oán với bà hồi còn ở Triệu, bà vừa run rẩy vừa viết tên họ những người đó, nhưng cũng dặn ngài phải tùy theo tình hình để xét xử vừa phải, không thể quá tàn bạo. Sau khi Doanh Chính ra đi bệnh tình thái hậu ngày càng nặng, nhất là khi nghe con mình thực hiện việc trả thù tàn khốc ở Hàm Đan, đến nỗi vô phương cứu chữa. Khi Doanh Chính trở về Hàm Dương thì bà đã ra đi vĩnh viễn. Hỏi cung phi và thị vệ thì họ đều nói thái hậu không trăng trối điều gì cả.

Chú thích:

[i] Nguyên văn: hình chữ Kim. Chữ Kim trong Hán văn, cũng có hình thù như hình chóp nón, đầu nhọn, thân to - ND.

[ii] "Nhu phu nhược nữ": những người đàn ông nhu nhược và những người đàn bà yếu đuối - ND.

[iii] Muốn nói cha (Tử Sở) của Doanh Chính làm con tin hai mươi năm ở Hàm Đan và mẹ (Triệu Cơ) lấy Tử Sở và đẻ Doanh Chính ở Hàm Đan và sau đó sống lưu lạc đầy gian truân 6, 7 năm ở Hàm Đan. Đó là chưa kể, sau đó bản thân Doanh Chính thân chinh đốc chiến bốn năm, cuối cùng thất bại lại quay về - ND

[iv] "Phi lễ vật thị; phi lễ, vật động": Thấy hành vi không lễ phép thì không được nhìn. Thấy hành vi không lễ phép thì không được đụng chạm đến (ở đây hành vi không lễ phép là đám người trần truồng và chĩa mông vào anh) - ND.