HỒI THỨ MƯƠI CHÍN THÁI TỬ (YÊN) ĐAN ĐAU BUỒN TIỄN BIỆT-KINH KHA GIẾT HỤT, NGÃ XUỐNG KHÔNG VỀ---
Sau khi tiêu diệt nước Triệu, Doanh Chính xử tử 83 người có thù oán với mẹ con ngài; tức là những người nước Triệu trước đây từng hãm hại, ức hiếp và khinh bỉ thái hậu và bản thân ngài. Đồng thời, ngài còn sai người dựa theo danh sách do thái hậu liệt kê để đi sâu vào tận hang cùng ngõ hẻm của Hàm Đan để tìm cho ra khoảng 50 đến 60 hộ trước đây đã từng cứu giúp, săn sóc và quan tâm đến mẹ con ngài, biếu tặng họ tài sản hoặc tiền bạc với số lượng khá lớn để cảm ơn họ. Khi trở về Hàm Dương, ngài còn mang theo bản danh sách đó, cốt để nói cho thái hậu biết, may ra có giúp ích gì cho việc chữa bệnh cho thái hậu hay không. Nào ngờ không về kịp, ngay cả lời trăng trối của thái hậu cũng chẳng có. Điều này khiến ngài rất đau lòng. Vì vậy khi làm lễ tang rất long trọng cho thái hậu, ngài cúi đầu khóc to và đem bản danh sách ấy đặt trước linh cữu thái hậu, để báo cho anh linh thái hậu biết rằng con đã làm theo lời mẹ, thực hiện lời dạy “tri ân báo đức” (nhớ công ơn, báo đáp bằng đức).
Tuy nhiên, chính ngài - đứa con hiếu thảo với thái hậu đó, lại “lấy oán trả ơn” đối với thái tử Đan nước Yên, người đã có công ơn rất lớn với mẹ con ngài. Còn nhớ năm nào, thái tử Đan làm con tin của nước Yên ở Hàm Đan, không những ngài đã rất quan tâm giúp đỡ gia đình Tử Sở, mà còn bất chấp nguy hiểm đến tính mạng để phối hợp chặt chẽ với Lã Bất Vi cứu Tử Sở trốn khỏi ngoại thành Hàm Đan. Hơn nữa, trong mấy năm sau đó thái tử còn luôn luôn đến thăm và tiếp tế cho mẹ con Triệu Cơ. Sau đó, Doanh Chính lên ngôi, ngài sai Thái Trạch sang ở nước Yên ba năm để thực hiện chính sách “Viễn giao cận công” (giao thiệp với nước ở xa, tấn công nước ở gần). Tức là kết bạn với nước Yên ở xa, để tấn công nước Triệu ở gần. Thái Trạch đã thành công trong sứ mạng đó. Lúc sắp về Tần, Thái Trạch còn mời thái tử Đan sang Hàm Dương. Lúc đó, thái tử Đan cho rằng Tần đã hòa hiếu với Yên, nên đã vui vẻ nhận lời và theo gót Thái Trạch đi sang Tần. Bởi vì thái tử nghĩ rằng có thể dựa vào mối quan hệ hữu nghị lúc hoạn nạn giữa ngài và mẹ con Doanh Chính, để khôi phục quan hệ quen biết cũ, thúc đẩy hữu nghị, củng cố và phát triển hòa hiếu hai nước.
Lúc đầu sau khi đến Hàm Dương, nhà vua có tiếp thái tử mấy lần theo lễ tiết ngoại giao, chỉ nói vài ba câu nhạt nhẽo thường lệ cho xong chuyện rồi để khách ra về, chẳng thèm lưu tâm đến thái tử nữa. Về sau, thái tử lấy danh nghĩa là quen biết cũ để nhiều lần vào cung gặp nhà vua, kể lại những câu chuyện khi hai người đều ở nước Triệu, cố gợi lại trí nhớ của Doanh Chính đối với mình. Thái tử nói:
- Năm ấy mẹ con đại vương ở nước Triệu, Đan này thường đến thăm, không biết đại vương còn nhớ hay không?
- Ồ! Năm ấy Trẫm ở Triệu, gặp nhiều nguy nan, có được số người quan tâm, giúp đỡ. Nhưng lúc ấy còn nhỏ, nên không nhớ hết, những điều thái tử nói, không hiểu rõ cho lắm! - Doanh Chính có vẻ ranh mãnh, không muốn nói về những chuyện ấy với thái tử.
- Tuổi nhỏ thì có thể không nhớ hết chuyện ngày xưa. Nhưng thái hậu và tiên vương đã tiếp xúc với Đan mấy năm ở bên đó, sau Đan còn tiếp tục giúp đỡ, tuy không nhiều, nhưng chắc là không thể quên - Thái tử Đan đành chuyển sang cho mẹ của nhà vua để chứng minh những điều mình nói là không có gì giả dối.
- Những điều mà thái tử nói, sẽ xem lúc nào thuận tiện trẫm sẽ bẩm báo với mẫu hậu, để xem mẫu hậu còn nhớ quan hệ hữu nghị ngày xưa ấy không - Doanh Chính vẫn ứng phó với thái tử bằng những lời khách sáo, không hề có chút hữu nghị, thân mật gì.
Thái tử Đan thấy vậy bèn không nhắc lại chuyện cũ nữa, ngài cũng chuyển sang ngôn từ ngoại giao:
- Từ khi rời Hàm Đan năm ấy đến nay, thế mà đã ngót mười năm rồi. Đại vương lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi, vậy mà đã triển khai thực thi những kế hoạch lớn lao nhằm trị quốc yên dân, thật là đáng khâm phục!
- Trẫm rất may được thừa kế cơ nghiệp của tổ tiên, lại nhờ có bản năng trời cho, và được quần thần phò tá, muôn dân ủng hộ, nên đương nhiên phải làm nên những đại sự như thế! Chỉ có nhà ngươi thì hai mươi năm nay chẳng có gì thay đổi, trước thì làm con tin ở Triệu, nay làm con tin ở Tần. Trẫm thật thương cảm cho nhà ngươi - Doanh Chính nói rất ngạo mạn, còn chế giễu và châm biếm cả thái tử Đan nữa.
Trước thái độ khinh bỉ đó của Doanh Chính, thái tử Đan rất khó chịu, nên chỉ đối đáp qua quýt rồi lủi thủi rút lui. Mặc dù ông rất không bằng lòng với cách cư xử của Doanh Chính, nhưng không dám để lộ ra ngoài, sợ ảnh hưởng đến quan hệ hai nước. Sau đó, ông nhiều lần muốn vào cung thăm thái hậu, để cùng bà nhắc lại chuyện cũ, mong rằng bà sẽ nhắc nhở con mình giữ lời hứa với Yên, không xé bỏ thỏa ước với Yên để quay sang xâm lược Yên. Như vậy, ông sẽ thực hiện được sứ mạng con tin của mình, thúc đẩy việc bình thường hóa bang giao giữa Tần và Yên.
Nào ngờ những cố gắng ấy của ông cũng đổ xuống sông xuống biển. Bởi vì nhà vua Doanh Chính có lệnh: “Bất cứ cửa cung nào cũng không cho thái tử Đan của nước Yên được đi vào”. Đồng thời, không cho phép ai được nói cho thái hậu biết là có thái tử Đan ở Hàm Dương. Cho nên thái tử Đan đành bó tay, chẳng khác gì Tử Sở năm nào ở Hàm Đan. Thái tử cảm thấy sâu sắc rằng, thái độ bạc tình bạc nghĩa, vô đức vô ơn của Doanh Chính, chẳng những là muốn xa lánh cá nhân ông, mà quan trọng hơn, đó là triệu chứng không thân thiện với đất nước ông. Vì vậy, ông rất lo cho số phận của quê hương đất nước mình. Vì vậy, ông nhiều lần bí mật viết thư về nước, xin vua Vương Hỷ của Yên viết thư cho vua Tần, để cho vua Tần cho phép ông về nước. Nhưng vua Yên không có ý kiến dứt khoát, cứ để cho sự việc ấy kéo dài lê thê, cho nên, ý đồ của ông muốn về nước bằng con đường ngoại giao chính thức, bất thành. Trong khi hai nước Triệu và Yên đang đứng trước nguy cơ diệt vong; vua Tần đang ngay càng bộc lộ công khai mưu đồ thôn tính sáu nước và dẹp yên thiên hạ. Một nước nhỏ yếu như Yên, đương nhiên là không thể tránh khỏi tai họa.
Ruột gan thái tử Đan rối như tơ vò, không thể cứ chôn chân mình ở cái nước lang sói này để ngồi nhìn đất nước mình bị diệt vong! Biện pháp duy nhất là trốn khỏi hang hùm này để trở về nước Yên, nhanh chóng tổ chức lực lượng cứu nước Yên khỏi hiểm họa. Sau khi suy nghĩ và cân nhắc kỹ, ông đưa một món tiền lớn đút lót cho “Trung thứ tử” Mông Gia, một cận thần của Doanh Chính, nhân cơ hội vị đại thần này đi săn, thái tử cải trang thành một kỵ binh bình thường để đi theo đoàn đi săn, rồi trốn thoát ra khỏi thành Hàm Dương; phải mất gần một tháng đi đường tắt và đường vòng mới về đến nước Yên vất vả vô cùng.
Đó là năm thứ 15 niên hiệu Tần Vương Chính. Lúc ấy, vua Vương Hỷ của Yên đã ở ngôi được 23 năm, ngài điều hành đất nước chẳng có phương lược gì, không làm nên đại sự gì cho nước Yên, làm cho nước này đã yếu lại càng thêm suy yếu. Thái tử Đan là con đẻ của ngài, đã làm con tin ở Tần được tám năm. Nay thái tử liều chết trốn về, ngài chẳng những không hề thông cảm và thương con, mà còn khiển trách con vì ngài rất sợ đắc tội với vua Tần. Thái tử Đan vừa buồn vừa giận, chăng thèm để ý đến người cha u mê, ăn hại đất nước; ông tự mình đi tìm người thầy cũ là Cúc Vũ để hội mưu kế.
Cúc Vũ bày cho thái tử: “Nước Yên có một người tên là Điền Quang rất giỏi mưu lược và dũng chí có thừa, có thể đến gặp để nhờ ông ấy giúp mưu kế cho”. Thái tử Yên khẩn cầu thầy (thái phó) Cúc Vũ giới thiệu mình làm quen với Điền Quang. Thầy Cúc Vũ bèn đến thăm Điền Quang, nói rõ mục đích đến gặp Điền Quang đồng ý gặp thái tử. Cúc Vũ bèn đưa Điền Quang đến gặp thái tử Đan. Thái tử đứng ở cửa hoàng cung đón Điền Quang. Xe ngựa đưa Điền Quang đến phía trước phòng khách hoàng cung. Thái tử Đan quỳ xuống chiếu, chờ cho đến khi Điền Quang ngồi xuống, bèn bảo những người hầu cận lui ra ngoài, rồi xích đến gần Điền Quang để chào và nói rõ rằng nước Tần tàn bạo, nhất định sẽ xâm lược nước Yên và quyết tâm của mình tìm cách cứu vãn số phận đất nước. Ông cũng bày tỏ mong muốn Điền Quang giúp đỡ.
Điền Quang nói, ta nghe nói con ngựa tốt, khi còn trẻ khỏe, nó có thể chạy nghìn dặm một ngày, nhưng lúc già yếu rồi, thì những con ngựa ngu đần khác cũng có thể chạy nhanh hơn nó. Chắc là thái tử đã nghe người ta nói về ta lúc ta đang còn trẻ khỏe, không hề biết rằng ta nay đã già yếu rồi. Thái tử vẫn nài nỉ rằng sức khỏe của tiên sinh đã yếu, nhưng trí tuệ của tiên sinh còn sung mãn, xin tiên sinh dùng trí tuệ của mình để giúp đỡ. Điền Quang cảm ơn và nói, ta không thể làm được những việc đại sự cho đất nước nữa, nhưng ông bạn Kinh Kha của ta thì có thể làm được. Thái tử lại nhờ Điền Quang giới thiệu Kinh Kha cho mình. Dĩ nhiên là Điền Quang nhận lời. Thái tử tiễn chân Điền Quang ra cửa và dặn ông ta rất trịnh trọng:
- Câu chuyện vừa rồi ta nói với tiên sinh là việc đại sự quốc gia, rất mong tiên sinh hết sức giữ kín!
Điền Quang gật đầu mỉm cười nói rằng nhất định giữ bí mật. Nói xong liền quay gót đi nhanh để tìm Kinh Kha. Khi gặp Kinh Kha, Điền Quang nói rất xúc động nhưng nghiêm chỉnh:
- Ta với anh là bạn thân với nhau, điều này cả nước Yên đều biết. Thái tử Đan chỉ nghe người ta nói về ta lúc ta còn trai trẻ, rất có tài trí, nhưng nay ta đã già yếu rồi, không còn làm được gì nữa. Thái tử muốn nhờ ta bày mưu kế để chống Tần cứu nước Yên. Lòng trung thành của thái tử làm cho ta rất cảm động, cho nên, ta coi anh như là chính ta, và đã giới thiệu anh cho thái tử!
Kinh Kha rất xúc động, anh nắm chặt tay Điền Quang và nói:
- Ngài thật là người bạn tâm phúc chân thành của tôi!
Điền Quang vội giục Kinh Kha đến hoàng cung gặp thái tử Kinh Kha vâng lời đi ngay, nhưng Điền Quang vội níu áo anh ta lại và nói:
- Thái tử có nhắc nhở ta rằng đây là quốc gia đại sự, không thể để lộ cho ai biết. Rõ ràng là thái tử không yên lòng về ta. Nếu những việc mình làm mà không được mọi người tin tưởng, thì chẳng xứng đáng là một hiệp sĩ có khí tiết. Xin anh hãy nói cho thái tử biết rằng Điền Quang này không còn ở trên đời này nữa.
Nói đoạn Điền Quang bèn rút kiếm từ bên hông ra, Kinh Kha vội ngăn lại và nói:
- Xin tiên sinh không nên làm thế!
Nhưng Điền Quang đã tự đâm lưỡi kiếm vào cổ rồi, máu phọt ra như tên bắn. Ông ngã vật xuống đất trong khi tay vẫn cầm kiếm, đầu ngẩng cao lên trời.
Kinh Kha đến hoàng cung, trong lòng rất đau buồn. Ông nói hết mọi chuyện vừa xảy ra cho thái tử nghe. Thái tử vội đến nhà Kinh Kha, đi quỳ đến trước mặt thi thể Điền Quang, quỳ lạy ba vái và khóc mãi. Một lúc khá lâu sau mới nói rất đau buồn rằng sở dĩ ta nói với tiên sinh Điền Quang phải giữ bí mật là cốt để cho mọi việc suôn sẻ; ai ngờ tiên sinh lại đem cái chết để bày tỏ tấm lòng son sắt của mình. Điều này thật sự là hoàn toàn trái với ý định ban đầu của ta. Nói xong liền mời Kinh Kha ngồi lên chiếu trên, còn bản thân vẫn quỳ và nói với Kinh Kha:
- Tiên sinh Điền Quang biết ta là một người không thể làm được việc gì lớn, nên đã giới thiệu ông cho ta, đó là muốn ông giúp đỡ và chỉ giáo cho ta. Được vậy thì đúng là trời xanh còn thương hại nước Yên này, không nỡ bỏ mặc đứa con cô đơn đáng thương này!
Tiếp đó, thái tử phân tích tình hình nước Tần đang uy hiếp các nước chư hầu, và ý tưởng của ngài quyết tâm chống Tần cứu Yên. Đại ý như sau: Lòng tham của Tần là vô đáy. Nếu không quét sạch được thiên hạ và bắt tất cả các nước chư hầu đều hàng phục, thì Tần không chịu buông tay đâu. Nhưng hiện nay nước Tần đã bắt sống vua nước Hàn, chiếm lãnh thổ Hàn, đưa quân đánh nước Sở ở phía nam và tấn công nước Triệu ở phía Bắc. Đại tướng quân của Tần là Vương Tiễn đã đưa 10 vạn quân đến áp sát quận Chương và quận Nghiệp; tướng Lý Tín của Tần đã xuất phát từ Thái Nguyên, Vãn Trung. Nếu nước Triệu không chống được Tần thì sẽ mất nước. Nếu Triệu bị diệt, thì nước Yên sẽ lâm nguy! Nước Yên nhỏ yếu, dốc sức cả nước ra cũng không chống được nước Tần, mà tất cả các nước chư hầu đều sợ Tần, nên họ không thể “hợp tung” với nhau được. Vì vậy, thái tử Đan muốn dùng một biện pháp có hiệu quả nhanh chóng, tức là tìm một dũng sĩ đến nước Tần dùng lễ vật thật hậu để tặng cho vua Tần, ông vua này rất tham lam, chắc chắn sẽ nhận lễ vật. Lúc ấy sẽ dùng vũ lực buộc ông ta trả lại lãnh thổ các nước; nếu ông ta không chịu, sẽ giết. Các đại tướng của Tần đang đưa quân đi đánh các nước, không có mặt ở nhà, nếu vua Tần chết, thì nước Tần sẽ rối loạn, vua tôi nghi kỵ lẫn nhau. Các nước sẽ nhân cơ hội đó liên hợp lại với nhau để tiêu diệt Tần.
Sau khi trình bày mưu kế nói trên, thái tử Đan nói với Kinh Kha:
- Đó là cách làm có hiệu quả nhất và nhanh nhất mà ta nghĩ ra, chẳng biết có thực thi được hay không, rất mong ông xem xét.
Kinh Kha suy nghĩ rất lâu mới nói:
- Đây là một việc lớn, sức của tôi rất có hạn, sợ không làm nổi.
Thái tử Đan quỳ trước mặt Kinh Kha liên tục khấu đầu, khẩn khoản nài xin Kinh Kha đừng từ chối. Cuối cùng, Kinh Kha đã nhận lời.
Kinh Kha là người nước Vệ, quê gốc là nước Tề, sau vì chiến tranh nên di chuyển sang nước Vệ. Anh ta sinh ra và lớn lên trong những năm tháng chiến tranh, thích đọc sách và đao kiếm, rất có hoài bão; từng dùng võ thuật đao kiếm để du thuyết vua nước Vệ là Nguyên Quân, nhưng Nguyên Quân không nghe và không sử dụng anh ta. Về sau, quân Tần xâm lược nước Vệ, và bắt tất cả họ hàng hoàng gia của Nguyên Quân di chuyển đến huyện Dã Vương ở vùng biên giới. Từ đó, Kinh Kha phải rời bỏ quê hương đến Du Thứ, sau đến Hàm Đan. Tại đây Kinh Kha gặp các cao thủ về kích kiếm là Cái Nhiếp và Lỗ Câu Tiền, cùng với họ bàn bạc về phép thuật kích kiếm, nhưng Kinh Kha bị bọn họ khinh thường, do đó anh bỏ đi. Cuối cùng, Kinh Kha đến nước Yên, làm quen với Cao Tiệm Ly, một nhạc sĩ rất giỏi về môn sáo trúc; và là một tay đồ tể bán thịt chó. Cả bộ ba này thường gặp nhau nhậu nhẹt vui vẻ ở Kế thành. Mỗi khi cả ba người đã mặt đỏ gay vì hơi men, Cao Tiệm Ly bèn tấu nhạc rất hùng hồn, Kinh Kha cũng ngâm theo điệu nhạc kích động đó:
Tuổi trẻ ra đi, nước mất nhà tan
Tay cầm kích kiếm; nhưng chỉ làm càn
Cất cao tiếng hát, bạn mới làm quen
Hả hê thoải mái, bên chén rượu nồng
Thịt chó ngon lành thỏa lòng ước mong
Sáo trúc véo von, ngâm nga trầm bổng
Dốc bầu tâm sự, cởi mở tấm lòng
Nhớ nước thương nòi, quyết chí gắng công.
Ba người bạn tâm giao cứ thế, rượu vào lời ra, lấy lời ca tiếng sáo để quên nỗi buồn trong lòng; họ dốc hết bầu tâm sự với nhau, rất cởi mở, thân tình, hầu như không còn biết có ai ở xung quanh. Họ chơi với nhau, lúc thì cười rất hả hê thoải mái, lúc thì xúc động đến rơi nước mắt. Kinh Kha tuy nhập cuộc với các bạn rượu thịt giang hồ, nhưng bản chất của anh là con người thâm trầm chín chắn, lại hay đọc sách, từng đi chu du nhiều nước, quen biết nhiều nhân sĩ, trí thức sống rất hào hiệp nhân hậu. Sau khi đến nước Yên, Kinh Kha được gặp Điền Quang và được nhân vật đức cao vọng trọng tiếp đãi rất tốt, vì ông biết Kinh Kha không phải là hạng người tầm thường vô dụng. Vì vậy, khi thái tử Đan yêu cầu Điền Quang giúp vạch kế hoạch chống Tần cứu Yên, ông liền giới thiệu Kinh Kha cho thái tử; lại còn lấy cái chết bi tráng để khích lệ Kinh Kha đảm đương việc nghĩa trọng đại ấy, để cố giết cho được Tần Doanh Chính tàn ác bạo ngược, cứu thiên hạ khỏi nguy cơ diệt vong.
Khi thấy Kinh Kha nhận lời, thái tử Đan hết sức vui mừng, ngài liền sửa lại quần áo chỉnh tề và vái lạy cảm tạ; còn tôn vinh Kinh Kha làm quan thượng khanh, chàng cho ông cả một biệt thự lộng lẫy. Hàng ngày, thái tử đến thăm Kinh Kha, sai người cung phụng rất đầy đủ về ăn uống, có cả xe cộ, mỹ nữ và các đồ chơi ưa thích, nhằm thỏa mãn cuộc sống tình cảm và tư tưởng của ông.
Sau một thời gian, Kinh Kha vẫn không có ý định ra đi, về công việc đã bàn định. Lúc ấy, đại tướng quân Vương Tiễn của Tần đã đánh chiếm được Hàm Đan, bắt sống vua Vương Thiên của Triệu; chiếm toàn bộ lãnh thổ nước Triệu, và đưa quân áp sát biên giới phía tây nam nước Yên, chỗ giáp giới giữa Nam Yên và Bắc Triệu. Thái tử Đan hết sức sốt ruột, buộc long phải nói với Kinh Kha:
- Quân Tần sắp vượt song Dịch Thủy để vào nước Yên, ta vốn định vi chơi với ông ít ngày nữa, nhưng nay thì có lẽ không được rồi.
Lúc ấy Kinh Kha nói rằng cho dù thái tử không giục thì anh ta cũng muốn đi rồi. Nhưng nếu chưa có biện pháp gì để làm cho vua Tần tin, thì không thể đến gần ông ta. Thái tử hỏi rằng vậy thì làm thế nào để vua Tần tin. Kinh Kha nói:
- Vua Tần rất thèm khát thôn tính lãnh thổ nước khác, nếu chúng ta có thể hiến dâng cho ông ta một bức bản đồ khu vực Đốc Kháng, thì chắc chắn ông ta sẽ vui vẻ tiếp kiến tôi, bởi vì Đốc Kháng là vùng đất tươi tốt nhất của nước Yên. Lúc đó, tôi sẽ rat ay hạ thủ ông ta để trả nợ nước thù nhà.
Thái tử Đan nghe xong lập tức sai người vẽ một bức bản đồ mới về khu Đốc Kháng và đưa cho Kinh Kha. Kinh Kha mỉm cười, gật đầu nói:
- Tôi biết việc này chẳng khó gì!
Thái tử hỏi ngay:
- Ta là thái tử đương triều, có việc gì khó mà ta không làm được? Chỉ khi nước Yên ta còn thì mọi việc sẽ trở nên đơn giản thôi.
Kinh Kha tiếp lời:
- Cũng giống như một đồ vật vậy, không những nước Yên có, mà lại có ngay trong cung của thái tử, chỉ e ngài không nỡ làm mà thôi.
Thái tử Đan lập tức nói như đinh đóng cột:
- Nếu vật đó có ngay ở trong cung của ta, ta chẳng bao giờ tiếc cả!
Bấy giờ Kinh Kha mới nghiêm sắc mặt nói:
- Nếu tôi nói ra, chắc chắn ngài sẽ không chấp nhận đâu…
Thái tử ngắt lời:
- Thôi đừng quanh co nữa, nói thử xem vật đó là gì?
Kinh Kha vẫn từ tốn:
- Cái này quả thật là một báu vật, mà còn là một thứ báu vật sống.
Thái tử Đan hỏi lại ngay:
- Bảo bối sống đó là vật gì vậy?
Kinh Kha mặt nghiêm lại, giọng trầm xuống và buồn bã khẽ nói:
- Cái mà tôi cần, chính là cái đầu của Phàn Vu Kỳ, một viên tướng giỏi nhà Tần!...
Giọng nói như lạc đi, thái tử Đan xua tay, lắp bắp:
- Không được, cái đó thì không được! Phàn là một viên tướng tài, vì mang tội với vua Tần nên mới phải chạy sang nương nhờ nước Yên ta đây. Ta không thể nhẫn tâm, chỉ vì để trả mối thù của riêng mình mà lại giết hại một con người trung trực đến thế! Kinh Kha, ông hãy nghĩ một phương kế khác đi!...
Kinh Kha chậm rãi nói từng tiếng một:
- Để giết được vua Tần, duy nhất chỉ có thể dung cái đầu của Phàn Vu Kỳ mà thôi.
Còn nhớ, mười một năm trước đây, tức năm thứ tám Tầ Vương Chính (239 trước Công nguyên), Phàn Vu Kỳ đã xúi giục Trường An Quân, em Doanh Chính, dấy binh nổi loạn, mưu đồ lật đổ Tần Vương Chính. Nhưng Thành Kiều Trường An Quân nhu nhược bất lực, mắc vào mưu kế phản gián của Dương Đoàn Hòa nên bị thua trận ở Đền Lưu, phải tự vẫn chết. Tần Vương Chính căm phẫn Phàn Vu Kỳ xúi giục gây sự; nhưng ngài phát điên phát khùng lên về bài hịch của Phàn Vu Kỳ phơi bày chuyện Doanh Chính mang họ Doanh là giả, mà họ thật là Lã. Vì vậy, nên ngài giết sạch mười ba người, gồm cha mẹ vợ con của Phàn,, và treo thưởng một nghìn dật vàng và ban tước “hầu” cho hưởng lộc một vạn hộ, cho ai lấy được đầu của Phàn. Lúc ấy Phàn trốn ở nước Triệu. Sau đó, thay họ đổi tên trốn sang nước Yên, nương nhờ thái tử Đan. Thái tử Đan không những thu nhập ông ta mà còn xây nhà cao cửa rộng cho ông ta, tiếp đãi ông ta rất tốt. Thái phó Cúc Vũ biết chuyện này, bèn nói với thái tử:
- Việc này, nhất quyết không được. Tần Vương Chính bạo ngược nhất định sẽ oán thù nước Yên, nếu ông ta biết Phàn ở đây, liệu ông ta có bỏ qua không? Việc làm này giống như đưa thịt vào miệng hổ, nhất định sẽ gây nên tai họa.
Thái tử Đan rất buồn, ngài nói:
- Tướng quân Phàn Vu Kỳ đắc tội với vua Tần, bị giết cả nhà, nên chạy sang nhờ ta, sao ta có thể từ chối. Nay nếu lại đưa ông ta đến chỗ chết, ta không nhẫn tâm như thế được.
- Thái tử có thể đưa gấp tướng Phàn vào lãnh thổ Hung Nô, từ đó thay họ đổi tên, như vậy, Tần sẽ không thể trách ta được - Cúc Vũ đề nghị thái tử Đan nên làm theo cách đó thì hơn.
- Nước Tần tàn bạo là kẻ thù của tướng Phàn, vừa là kẻ thù của nước Yên ta. Chúng nó sắp tấn công tiêu diệt nước Yên ta đến nơi rồi, làm sao ta có thể nhẫn tâm đưa ông ấy đi được, đó chẳng phải là làm trái với ý tưởng ban đầu của ta là cứu Yên diệt Tần đó sao? - Thái tử vẫn kiên quyết chống Tần.
Cúc Vũ nói rất thận trọng:
- Vậy thì có thể bắt tay với nước Tấn ở phía Tây, hợp lực với nước Tề và Sở ở phía Nam và Hung Nô ở phía Bắc để chống Tần, nhưng không thể nôn nóng ăn ngay!
Thái tử không tán thành. Ông nói:
- Nếu để lâu dài thì e rằng chưa kịp hợp tung với nhau, thì Tần đã vượt sông Dịch Thủy diệt nước Yên rồi. Cho nên, ta nhất quyết không đưa tướng Phàn đến đất Hung Nô; và bắt tay vào chống Tần ngay, càng nhanh càng tốt.
Cúc Vũ thấy không thể khuyên được học trò của mình, bất giác than rằng:
- Coi thường nguy cơ, và cứ tưởng rằng bình yên; tự gây nên họa, lại cứ tưởng là phúc; tầm mắt nông cạn lại tưởng biết nhìn sâu xa. Chỉ thấy tình nghĩa cá nhân, không thấy nguy cơ của đất nước. Đó khác nào như đặt chiếc lông gà trên bếp than hồng, vèo một cái là thành than! Buồn lắm thay!
Thái tử Đan quá nặng về tình cảm nên không muốn đưa tướng Phàn đi nơi khác, mà vẫn đàng hoàng để ông ta ở lại và tiếp tục hậu đãi. Nay Kinh Kha đòi lấy đầu ông ta để đánh lừa vua Tần, đương nhiên là thái tử không chịu rồi. Kinh Kha thấy không thể thuyết phục được thái tử, bèn lén đi gặp Phàn Vu Kỳ, nói nhỏ với ông ta như sau:
- Vua Tần đối xử với tướng quân quá tàn bạo, giết hết cha mẹ vợ con của ông, lại còn treo thưởng một ngàn dật vàng và vạn hộ hầu để mua thủ cấp của ông. Ông nghĩ như thế nào về điều này?
Phàn Vu Kỳ gạt nước mắt than rằng:
- Ta với Doanh Chính là không đội trời chung, ta luôn luôn mong muốn trả món nợ máu này, nhưng vô kế khả thi, chẳng biết làm như thế nào?
- Nay có một mưu kế, có thể giải thoát được nguy cơ cho nước Yên, báo được thù cho tướng quân, không biết tướng quân có muốn nghe hay không? - Kinh Kha hạ thấp giọng, hỏi Phàn Vu Kỳ.
- Chẳng hay mưu kế đó như thế nào? - Phàn Vu Kỳ hỏi gấp.
Kinh Kha đến gần hơn, mắt nhìn vào Phàn Vu Kỳ, thái độ rất đau buồn nhưng rất hy vọng. Ông nói:
- Muốn mượn thủ cấp của tướng quân để dâng cho vua Tần, khi hắn tập trung vào nhìn thì hạ thần sẽ đưa tay trái nắm lấy tay áo của hắn, tay phải đâm vào ngực hắn. Như vậy trả được mối thù của tướng quân, trừ được tai họa cho nước Yên! Chẳng hay tướng quân có bằng lòng hay không?
Phàn Vu Kỳ phanh ngực, nắm chặt cổ tay, rất kích động. Ông nói với Kinh Kha:
- Thế mà ta ngày đêm suy nghĩ vẫn không nghĩ ra. Nay thì ông hãy mang cái đầu của tôi và đâm chết tên vua Tần tàn bạo kia, như vậy vừa báo được thù nhà vừa đem lại bình yên cho thiên hạ. Vong linh của tôi ở nơi cửu tuyền cũng phải cảm ơn đại ân đại đức của ông. - Nói xong liền rút kiếm ra, trước khi tự cứa vào cổ còn nói tiếp - Xin nói hộ tôi với thái tử Đan rằng tôi cảm tạ cái ơn tri ngộ của thái tử.
Tiếp đó đầu rơi xuống, cổ máu vọt cao lên mấy thước, tấm thân bảy thước ngã vật ra phía sau. Thật là coi cái chết nhẹ như lông hồng!
Kinh Kha nói cho thái tử Đan biết việc Phàn Vu Kỳ tự chém đầu. Thái tử vội đến nhà Phàn, quỳ bên thi thể đang nằm trong vũng máu, khóc thảm thương. Nhưng sự việc đã đến thế, chỉ còn cách là đặt đầu Phàn vào hộp và bịt kín lại. Tiếp đó, thái tử mua một con dao găm rất sắc, giá một trăm lạng vàng. Người bán dao có tên gọi là Từ phu nhân, người nước Triệu. Dao được tôi bằng nước thuốc, nên rất bén; xong đem tặng Kinh Kha. Thái tử tìm trong đám môn khách của mình, chọn được một người tên là Tần Vũ Dương, làm trợ thủ cho Kinh Kha.
Lúc Tần Vũ Dương mới mười ba tuổi, đã đâm chết kẻ thù giết cha mình ngay trước mặt rất đông người, tỏ rõ khí phách kiên cường, được mọi người kính phục. Sau đó, Tần Vũ Dương tự thú nên được tha tội chết, chỉ bị giam. Sau khi hết hạn bị giam, thái tử Đan nhận làm môn khách.
Như vậy, mọi việc chuẩn bị cho Kinh Kha đã xong xuôi, chỉ chờ ngày xuất phát. Nhưng còn có một người lại chưa đến. Kinh Kha lại phải chờ. Thái tử Đan thấy mất quá nhiều thời gian chờ đợi, tưởng rằng Kinh Kha hối hận và không dám đi nữa, bèn nói:
- Mặt trời sắp lặn rồi, ngài còn muốn đi nữa hay không? Nếu không, tôi sẽ cho Tần Vũ Dương đi trước.
Kinh Kha tức giận đến nỗi phải lên tiếng trách thái tử:
- Sao thái tử ép quá đáng vậy? Kinh Kha này ra đi chẳng bao giờ trở lại nữa! Huống chi lần này hạ thần phải cầm dao găm đến nơi hang hùm miệng cọp, vào tận trong hang ổ của nhà Tần, cho nên muốn nấn ná một lúc để chờ bạn ta cùng đi. Nay thái tử trách ta làm mất thời gian, vậy thì xin cáo biệt!
Nói xong quay gót ra đi.
Thái tử Đan và tất cả môn khách đều mặc áo tang ra cổng tiễn đưa Kinh Kha và Tần Vũ Dương. ánh chiều tà soi bóng nhợt nhạt trên dòng sông Dịch Thủy đang lờ đờ trôi, gió thu hiu hắt ớn lạnh đất trời. Hai bóng người mặc đồ trắng đang đứng bên bờ sông, đàn nhạn bay qua kêu lên oang oác từng hồi, làm cho bầu không khí tiễn đưa thêm buồn thảm, thê lương. Sau khi cử hành xong lễ cầu trời khấn đất long trọng và trang nghiêm, Cao Tiệm Ly cầm lấy cây sáo và thổi nhạc réo rắt, Kinh Kha thì ca lên khảng khái theo điệp khúc của nhạc tấu. Chàng hát theo giọng Trừng, bi ai sầu thảm, mọi người xúc động rơi nước mắt! Lời ca như sau:
Gió thổi hiu hiu, đưa hơi lạnh về,
Tráng sĩ ra đi, không hề trở lại.
Tiếp theo lại chuyển sang giọng Vũ, khảng khái trầm hùng, thức tỉnh lòng người. Tất cả những ai có mặt tiễn đưa hôm ấy đều rất kích động, người nào cũng mở lớn mắt, lòng sôi sục ngọn lửa căm hờn đối với Tần Vương Chính. Trong không khí lửa giận hừng hực đó, Kinh Kha và Tần Vũ Dương lên xe ngựa ra đi, không hề ngoái cổ nhìn lại.
Sau khi đến kinh đô Hàm Dương nước Tần, Kinh Kha dựa theo sự sắp xếp của thái tử Đan, trước hết đến thăm cận thần của Doanh Chính là “Trung thứ tử” Mông Gia, chuyển lời của thái tử cảm tạ sâu sắc Mông Gia trước đây đã giúp thái tử trốn thoát về nước Yên, và biếu Mông Gia hai trăm dật vàng. Lúc đầu Mông Gia cố ý không nhận, nói rằng:
- Ta có công lao gì đâu mà nhận lễ lộc thế này.
Kinh Kha nói:
- Dâng lễ là muốn nhờ vả, rất mong đại nhân đừng chối từ!
Mông Gia bèn nhận lễ vật và hỏi cần giúp việc gì. Kinh Kha bèn nói:
- Nước Yên khiếp sợ uy danh của nước đại Tần, nên cúi xin nhận làm phiên thuộc chư hầu, nay đến dâng thủ cấp của Phàn Vu Kỳ và bản đồ khu vực Đốc Kháng; xin đại nhân chuyển tấu đến Tần Vương Chính cho được gặp.
Mông Gia đồng ý chuyển tấu ngay, còn nói khách khí rằng:
- Bệ hạ thường coi trọng tân khách, ta thường hầu cận bên cạnh, để lúc nào thuận tiện sẽ tấu trình là được thôi!
Sau đó thu xếp cho hai người ăn ở tại công quán, chờ nhà vua tiếp kiến.
Hôm sau, Mông Gia tâu với nhà vua rằng vua Yên đã rất khiếp sợ uy danh của nhà vua, không dám chống lại và trái lời nhà vua, càng không thể chống cự cuộc tấn công của quân Tần, cho nên đã cúi đầu xưng thần, xin hàng phục làm chư hầu nước đại Tần, coi mình như quận huyện của Tần, chỉ mong giữ lại tôn miếu của nước Yên là được. Vua Tần thấy sự việc quá đột ngột, không tin ngay. Mông Gia vội nói, nước Yên muốn chứng tỏ sự thành thật của mình, nên đã đưa thủ cấp của Phàn Vu Kỳ và bản đồ của vùng Đốc Kháng và cử phái viên đặc biệt mang những thứ đó đến Hàm Dương, hiện đang ở công quán để chờ được tiếp kiến. Nhà vua đồng ý tiếp khách đặc biệt ấy vào buổi thiết triều sáng ngày thứ ba (tức ba ngày nữa). Mông Gia vội thông báo cho Kinh Kha và Tần Vũ Dương chuẩn bị sẵn sàng.
Hôm tiếp kiến, cung Hàm Dương được trang hoàng rực rỡ, ngoài các đại thần văn võ trong triều, còn mời cả sứ thần các nước chư hầu đến dự. Tần Vương Chính mặc áo long bào, đầu đội mũ miện dát ngọc, di hài cao cổ; lưng đeo bảo kiếm, ngồi ngay ngắn chính giữa chiếc long kỵ để tiếp kiến sứ thần nước Yên.
Kinh Kha mang chiếc hộp kín đựng thủ cấp Phàn Vu Kỳ, Tần Vũ Dương mang cuộn bọc bản đồ Đốc Kháng của nước Yên đi đến bậc tam cấp, quỳ xuống, mặt hướng về phía vua Tần. Cả hai người đều đưa hai tay giơ cao hiện vật mà họ đang cầm.
Nhà vua đưa mắt nhìn qua hai người rồi hỏi:
- Hai người phụng mệnh của ai đến dâng đầu và dâng bản đồ?
Kinh Kha bình tĩnh trả lời:
- Hạ thần phụng mệnh vua Vương Hỷ nước Yên, mang thủ cấp của Phàn Vu Kỳ, tướng phản bội nước Tần và bản đồ vùng Đốc Kháng của nước Yên đến kính dâng đại vương bệ hạ, để tỏ lòng thần phục, cúi xin đại vương kiểm nhận.
- Phàn Vu Kỳ là viên tướng phản lại triều đình ta, trẫm đã nói mua cái đầu của y bằng nghìn vàng và tước “hầu” hưởng lộc vạn hộ. Nhưng chủ nhân các ngươi là thái tử Đan lại dám nuôi Phàn và hậu đãi y, rõ ràng là muốn chống lại Tần. Nay bỗng đưa thủ cấp của Phàn đến dâng, trẫm lấy gì làm tin đây?
- Thái tử Đan là con của vua Vương Hỷ, hành vi của thái tử vừa qua rất nông cạn thất lễ, chẳng biết lợi hại, bênh che và giao du với Phàn, thật có tội với đại vương. Vua tôi nước Yên đều cho rằng đó là sai lầm to lớn, nên đã truất quyền của thái tử và giết Phàn, mang thủ cấp đến tạ tội đại vương bệ hạ. Nếu thánh thượng không tin xin mở hộp để xem. Hạ thần xin quỳ trước mặt bệ hạ, chờ bệ hạ xem xong sẽ xử lý. - Kinh Kha bình tĩnh bẩm báo, và lại giơ cao chiếc hộp để xin được kiểm tra tại chỗ.
Nhà vua nghe Kinh Kha nói rất chắc chắn, bèn yên tâm hơn. Ngài sai Triệu Cao cầm chiếc hộp từ tay Kinh Kha đến đặt trên bàn trước mặt ngài. Ngài đứng dậy, hai tay vịn vào thành ghế, nín thở theo dõi Triệu Cao mở nắp hộp, thấy trong đó không có gì khác thường, mới từ từ cúi đầu xem cho rõ. Đầu Phàn Vu Kỳ đặt nằm ngửa trong hộp, nhờ đã qua xử lý bằng thuốc nên biến thành màu vàng nhợt nhạt đúng là màu của xác chết; đặc biệt là đôi mắt không nhắm, vẫn trợn trừng, trông rất dữ tợn, sát khí đằng đằng. Tần Vương Chính giật mình kinh sợ, vội kêu lên một tiếng “úi dà” rồi ngồi phịch xuống ghế và vội đưa tay bảo Triệu Cao đậy nắp lại. Ông ta nghĩ rằng ta đường hoàng là vua đại Tần, sao lại khiếp sợ cái đầu của một kẻ đã chết? Để che giấu biểu hiện thất thố vừa rồi, ngài bèn dùng uy phong để răn đe sứ thần, và cũng để răn đe triều thần và các sứ giả khác có mặt. Nghĩ vậy, ngài bèn đứng dậy lần nữa, nói rất nghiêm trang: “Đưa bản đồ lên đây để trẫm xem!”
Phó sứ Tần Vũ Dương hai tay cầm cuộn bản đồ bước lên tam cấp. Anh ta còn trai trẻ, khôi ngô tuấn tú, dũng khí can trường, phong thái đàng hoàng, khiến mọi người kính nể. Anh ta bước lên các bậc tam cấp rất tự tin, tiến dần đến nhà vua. Khi anh ta sắp mở bản đồ cho nhà vua cúi xuống xem thì có một tiếng thét lớn như tiếng gầm của hổ beo:
- Hãy đứng lại cho ta!
Đó là tiếng thét của Tần Vương Chính. Ngài ra lệnh:
- Nhà ngươi là sứ giả của nước Yên bé xíu, mà dám đi một mình trước triều đường của đại Tần ta, ta phải xem thử nhà ngươi to gan đến đâu!
- Tiểu dân chỉ là một gã vũ phu, không hiểu lễ nghi của đại triều. Nhưng ở đây là triều đường nho nhã lịch sự như thế này, làm sao có thể xem được tiểu dân to gan như thế nào? - Tần Vũ Dương không hiểu nhà vua đại Tần này muốn xem anh ta to gan bằng cách nào!
- Người đời nói rằng trống đánh ba hồi là uy, người hô ba lượt là dũng. Nay trẫm lại kêu lên ba tiếng, nếu nhà ngươi hô đáp lại khớp với ba tiếng đó, thì chứng tỏ có cái gan đi theo bên cạnh nhà vua. Nếu không, thì chẳng qua chỉ là cái vỏ bề ngoài, sao có thể đến triều đường đại Tần ta để làm sứ giả được? - Tần Vương Chính nêu lên biện pháp.
Tần Vũ Dương nghĩ trong bụng: Lúc mình mới mười ba tuổi đã dám giết kẻ thù trước mặt đông người, giữa thanh thiên bạch nhật, nay làm sao lại phải sợ đáp lại ba tiếng thét của ông vua này được cơ chứ? Nghĩ vậy, bèn đồng ý. Nhà vua bèn vẫy tay gọi anh ta đến gần, khi chỉ cách vài ba gang, hai mắt nhà vua đang nhắm tít bỗng mở to ra nhìn thẳng vào Tần Vũ Dương và thét rất to như sét đánh ngang tai: “A ha”. Tiếng thét vang lên, hình như làm rung chuyển cả triều đường, khiến Tần Vũ Dương lúc đầu còn tỏ ra rất can đảm đường hoàng, cũng phát run lên, nhưng rồi anh ta cũng bình tĩnh lại, cùng thét lên hai tiếng “A ha” nhưng yếu hơn, giọng còn run run, rồi lùi lại phía sau một bước. Nhà vua thấy vậy, rất đắc chí cười lăn, nhưng lại bảo anh ta đứng cho vững. Tần Vũ Dương miễn cưỡng bước lên một bước, nhìn nhà vua bằng con mắt sợ sệt, nhà vua lại trừng đôi mắt chim ưng của mình, lại thét lên hai tiếng “A ha” với giọng to hơn, gớm ghiếc hơn! Đến nỗi, Tần Vũ Dương cũng phát khiếp, không hô đáp lại được nữa, cả người run lên cầm cập. Nhà vua thấy vậy lại hô tiếp, hô dài to hơn: “Kha kha! Ha! Ha! Ha!...” và không để cho Tần Vũ Dương kịp chống cự, ngài đưa tay nắm lấy ngực Tần Vũ Dương, Tần Vũ Dương vội ôm chặt lấy cuộn bản đồ và cố giãy giụa để thoát khỏi bàn tay của nhà vua, nhưng nhà vua đã kịp đá cho anh ta ngã xuống đất và lăn lông lốc xuống bậc tam cấp:
“Ha! Ha! Ha!...” Nhà vua cười lớn, đắc thắng. Mọi người có mặt đều giật mình kinh hãi. Kinh Kha thì giả bộ tươi cười, chê trách Tần Vũ Dương quá vô dụng và tạ tội Tần Doanh Chính:
- Tần Vũ Dương là tiểu dân ở nơi dân tộc man di miền Bắc, chưa bao giờ nhìn thấy thiên tử, cho nên rất sợ hãi nhà vua, xin đại vương tha thứ, và để cho hạ thần được làm tròn sứ mạng đó.
Nhà vua cũng đồng ý làm lại việc dâng bản đồ. Kinh Kha bèn cầm lấy cuộn bản đồ từ trong tay Tần Vũ Dương và bước từng bước lên bậc tam cấp. Tần Vương Chính lại nhân đà đắc thắng vừa qua, tiếp tục hét rất to theo chiến thuật ngày càng áp sát đối phương, mắt trừng trừng trợn trợn, lần sau hét to hơn, khủng khiếp hơn lần trước, rồi giáp lá cà để hét lần cuối. Nhưng Kinh Kha vẫn ngẩng cao đầu, mắt nhìn thẳng, ánh mắt như tia chớp, tiếng thét đáp lại vang lên như tiếng sấm! Hình ảnh uy vũ kiên cường đầy khí phách của Kinh Kha làm cho Tần Doanh Chính, một con người hiếu chiến chuộng võ, bỗng cảm thấy ưa thích, ngài cho rằng như thế mới là một sứ giả. Sau khi hét ba lần xong, ngài bèn nhận cuộn bản đồ. Cầm một đầu và mở ra xem, thì bỗng một con dao găm lăn ra. Nhanh như cắt, Kinh Kha đưa tay trái cầm lấy ống tay Tần Vương Chính, tay phải cướp con dao đâm mạnh vào người Doanh Chính, nhưng vì quá vội nên không đâm trúng. Doanh Chính giật mình nhảy chồm dậy, kéo tay áo ra khỏi tay Kinh Kha và rút thanh kiếm bên hông. Nhưng kiếm quá dài, không rút ra được. Kinh Kha cầm dao găm đuổi theo Doanh Chính đang chạy vòng quanh cột nhà.
Các đại thần và sứ giả có mặt đều bạt vía kinh hồn, họ đứng ngây người ra, lúng ta lúng túng rất khó xử, chẳng biết làm gì. Đó là vì, theo luật pháp nhà Tần, các quan lên thiết triều không được mang theo khí giới. Những “lang trung” có binh khí, chỉ đứng ở bên ngoài cung điện, không có lệnh không được vào điện. Nhà vua thì đang phải vật lộn trong nguy cấp, không kịp hô hoán các võ sĩ đến cứu. Vì vậy Kinh Kha có thể thừa cơ cầm dao găm đuổi theo vua Tần, còn vua Tần thì chỉ có thể chống đỡ bằng tay không. Trong lúc nghìn cân treo sợi tóc đó, thì ngự y Hạ Vô Thả đang đưa thuốc đến cho nhà vua, vội đập mạnh bàn thuốc vào Kinh Kha. Kinh Kha tránh ngay sang một bên và do đó không bị đánh trúng, nhưng bị cách xa vua Tần, không thể đâm dao được nữa. Lúc ấy, Doanh Chính rất hoang mang, vừa chạy vừa với tay cầm đốc kiếm. Nhưng kiếm quá dài, vẫn không rút ra được. Trong khi đó, Kinh Kha lại đuổi kịp rồi. May lúc ấy có một ca kỹ đã dùng cây đàn của mình, vừa đàn vừa hát như thôi thúc:
Đừng để vướng vào quần đang mặc,
Đi nhanh, vượt qua ba thước bình phong,
Đốc kiếm trồi ra, đưa nhanh tay cầm.
Doanh Chính nghe tiếng hát như đang mách bảo cho mình, liền nhảy lên mấy bước, vượt quá tấm bình phong, rồi cúi người xuống, bỗng thanh kiếm chống xuống đất và đốc kiếm trồi lên cao, ngài vội cầm lấy đốc kiếm và xoay người lại phía sau nhằm thẳng vào Kinh Kha đang đuổi theo sát phía sau, đâm mạnh mũi kiếm vào Kinh Kha. Kinh Kha bị bất ngờ, không kịp đề phòng, không kịp tránh, nên mũi kiếm đã chém đứt đùi trái của ông. Kinh Kha hết sức đau đớn, không thể đứng vững được nữa và sắp ngã gục xuống, nhưng vẫn đem hết sức tàn ném mạnh con dao găm vào Doanh Chính. Lúc này, Doanh Chính đã trấn tĩnh, ngài kịp tránh sang một bên, mũi dao bay cắm phập vào cột bọc đồng ở bên cạnh, làm tung tóe những tia kim loại sáng rực. Doanh Chính thấy Kinh Kha đã bị thương nặng, bèn đến tận nơi đâm thêm mấy nhát nữa. Kinh Kha bị đâm trọng thương tám chỗ, máu chảy lênh láng. Ông biết việc đã không thành bèn phẫn nộ cười lớn và nói:
- Ta tưởng bắt sống nhà ngươi, tên bạo chúa nước Tần để về báo công với thái tử Đan, nào ngờ… - Mắt Kinh Kha trừng trừng nhìn Doanh Chính rồi từ từ ngã nhào xuống, hắt hơi thở cuối cùng.
Kế hoạch chu đáo của thái tử Đan, Điền Quang tự vẫn để thanh minh lòng trung thực, Phàn Vu Kỳ tự chém đầu... tưởng rằng mũi dao găm sẽ làm nên công trạng phi thường trong phút chốc. Nhưng Kinh Kha đã không làm được điều đó, thất bại hoàn toàn, lại còn hy sinh cả tính mạng. Một cái giá quá lớn! Một bi kịch đáng ca ngợi biết bao! Nay ôn lại giai đoạn lịch sử đó mọi người vẫn cảm thấy hết sức đau thương và xúc động.