← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI YÊN ĐAN BỊ GIẾT, NƯỚC YÊN VẪN CÒN-ĐẠI LƯƠNG NGẬP LŨ, NƯỚC NGỤY TIÊU VONG----

Trong con mắt của Tần Vương Chính, nước Yên chẳng qua chỉ là một đồ chơi, muốn đánh diệt lúc nào cũng được. Nhưng nước này ở xa tận phía Bắc, lại là nước nhỏ yếu, chẳng đe dọa gì nước Tần. Điều mà Doanh Chính phải lo nghĩ là cái tính hay thay lòng đổi dạ của vua Yên Vương Hỷ. Ông này, lúc thì tham gia đội quân “hợp tung” do nước Sở đứng đầu để đánh Tần. Lúc thì bắt tay với nước Triệu, ủng hộ Triệu chống Tần. Vai trò của Yên Vương y như một cục thịt thừa. Vì vậy, Doanh Chính áp dụng chính sách “viễn giao cận công” của Phạm Thư, cử Thái Trạch sang nước Yên ba năm, hòa hiếu với Yên, đánh lừa thái tử Đan của Yên sang Hàm Dương làm con tin. Thực chất, đó là ngăn chặn Yên không được phản Tần. Mặc dù bốn năm trước, thái tử Đan đã trốn về nước; sau đó lại còn nuôi và hậu đãi Phàn Vu Kỳ làm cho Doanh Chính tức giận vô cùng. Nhưng lúc ấy Hàn, Triệu đã bị Tần tiêu diệt. Mũi nhọn tiếp theo của Tần là Sở ở phía Nam và Ngụy ở phía Đông. Còn Yên chỉ là một cọng cỏ rác, chỉ cần bóp nhẹ một cái là chết tươi. Cho nên, Doanh Chính không đưa Yên vào danh sách tấn công ngắn hạn.

Nhưng nay tình hình đã khác trước. Thái tử Đan đã cả gan lấy đầu Phàn Vu Kỳ làm mồi và sai thích khách sang Hàm Dương suýt nữa thì giết được Doanh Chính. Vì vậy, Doanh Chính nổi giận đùng đùng, bèn tạm gác kế hoạch tấn công Sở, Ngụy, để chuyển sang tấn công ngay nước Yên. Ngài sai tướng Vương Tiễn, phó tướng Tân Thắng, đô úy Lý Tín dẫn hai mươi vạn đại quân, đi qua nước Triệu, áp sát biên giới nước Yên, đóng quân ở bờ Tây sông Dịch Thủy.

Vua Yên Vương Hỷ vội họp các đại thần để bàn đối sách. Các hoàng thân quốc thích và quan lại trong triều hầu hết là tham sống sợ chết, muốn hưởng lạc cầu an, không ai dám đứng lên chống Tần. Họ khiển trách thái tử Đan sai Kinh Kha âm mưu giết chết vua Tần, nên mới gây ra tai họa này. Vương Hỷ cũng phụ họa theo luận diệu đó, ông ta trách mắng thái tử Đan:

- Nước Yên nhỏ yếu, giữ cho được sống yên ổn trong cuộc đấu đá lẫn nhau giữa các chư hầu đã là chuyện khó. Nay nhà ngươi dám sai sát thủ định ám sát vua Tần, khác nào đốt lửa tự thiêu, đưa cọp vào nhà? Nay cường địch đã ập đến, ta làm sao để sống bây giờ?

- Nước Yên ở tận nơi xa xôi ở miền Bắc này, rất xa mũi gươm lưỡi giáo của quân Tần, đây thật là nơi “địa lợi” rất tốt. Phụ vương không lo chuyện tự lập tự cường, lại nghe lời huyễn hoặc của Thái Trạch, đưa con sang làm con tin ở nước Tần lang sói, làm cho đất nước mất đi lực lượng trung kiên trai tráng, chỉ còn lại toàn là già cả ươn hèn. Vả lại, mưu đồ thôn tính thiên hạ của Tần đã có từ lâu, giết vua Tần là cốt để bảo vệ nước Yên. Việc này tuy không thành, nhưng việc Tần đánh Yên là tất yếu, trước sau thế nào cũng xảy ra, chẳng qua là nay chúng đến sớm, và thế lực rất mạnh. Con xin xung phong dẫn đầu binh sĩ ra nghênh chiến chống Tần, để cho chúng thấy nước Yên tuy nhỏ yếu nhưng nhất quyết không thể bị ức hiếp! - Thái tử Đan nói năng đàng hoàng khảng khái, vạch rõ kẻ làm hại đất nước chính là Vương Hỷ và những người theo đuôi ông ta.

Vương Hỷ và những kẻ nhát gan khác phải cứng họng trước những lời phê phán của thái tử Đan, không dám ngăn cản thái tử đưa quân ra chống Tần nữa; nhưng vẫn yêu cầu tìm cách bảo vệ an toàn cho họ.

Để có thể nắm được quân đội sớm nhất và không bỏ lỡ thời cơ, thái tử Đan đồng ý chỉ sử dụng một nửa binh lực, còn một nửa để lại bảo vệ kinh đô của Yên là Kế Thành (nay là khu vực phía Tây Nam Bắc Kinh). Điều này nếu với tư tưởng bảo thủ của đại tướng quân Kịch Hoàn. Vì mười ba năm trước, người cha của Kịch Hoàn là Kịch Tân (đại tướng quân) đã tử nạn vì tấn công nước Triệu. Lúc ấy, Kịch Hoàn nhìn vào số phận da ngựa bọc thây của cha mình, hiểu rõ rằng đánh thắng kẻ địch mạnh hơn là chuyện rất khó; đánh Triệu đã khó, huống chi đánh Tần! Cho nên, nay Kịch Hoàn chủ trương cố thủ:

- Phàm thực lực hai bên tham chiến quá chênh lệch nhau, thì bên yếu bao giờ cũng nên cố thủ là hơn, chờ khi có thời cơ sẽ tấn công địch. Liêm Pha, Bàng Noãn, Lý Mục đều là những mẫu mực về mặt này. Mạt tướng xin đưa quân cố thủ Kế Thành, cố gắng bảo vệ đại vương và tôn miếu khỏi bị thiệt hại. Chờ cho đến khi quân Tần đã mệt mỏi và sa sút tinh thần, sẽ đưa quân ra ngoài thành đánh một trận là diệt sạch chúng.

Vương Hỷ rất tán thành chủ trương của Kịch Hoàn. Để tỏ ra mình là người có quyền quyết định tối cao, coi thái tử Đan và Kịch Hoàn ngang nhau, Vương Hỷ giao cho mỗi người mười vạn quân, người ra trận, người giữ thành. Thái tử Đan lập tức đưa mười vạn quân đến bố trí trận địa ở bên bờ sông Dịch Thủy, đối diện với trận địa quân Tần của Vương Tiễn ở bờ Tây.

Tướng Vương Tiễn, phó tướng Tân Thắng và đô úy Lý Tín của Tần đã từng thấy thái tử Đan của Yên tại Hàm Dương. Họ đều biết đây là một nhân vật không tầm thường, có đôi mắt sáng quắc, có phong thái kiên định, chắc chắn là một tướng tài, kiên trung yêu nước và có hoài bão lớn. Nhất là sau khi Kinh Kha ám sát hụt vua Tần, họ rất kinh ngạc về mưu lược cũng như về tinh thần căm thù Tần của thái tử. Vì vậy, lần này thái tử đưa quân chống Tần, chắc chắn sẽ liều chết đến cùng. Trước một đội quân sẵn sàng xả thân như thế, tướng Vương Tiễn cũng không dám khinh địch khiêu chiến. Họ bèn nghĩ ra một mưu kế. lung lạc quân bảo vệ Kế Thành do Kịch Hoàn chỉ huy, đó là khâu yếu kém của Yên, có thể tấn công Kế Thành trước. Vương Tiễn bèn sai một võ sĩ có võ nghệ cao cường, đang đêm đi thẳng đến Kế Thành, dùng móc câu vượt tường thành nhảy vào bên trong thành, tìm gặp đại tướng quân Kịch Hoàn, đưa cho ông ta một bức thư viết tay. Kịch Hoàn mở thư ra xem:

Kính gửi đại tướng quân Kịch Hoàn,

Nay Vương Tiễn tôi đưa quân Bắc tiên, nhằm mục đích tiêu diệt Yên và lấy thủ cấp thái tử Đan, để trả thù việc Kinh Kha âm mưu hành thích vua Tần. Vì vậy, chúng tôi đã chẳng quản thời gian, tiền bạc, binh mã, nhất quyết làm cho kỳ được. Nay ngẫm thấy tướng quân là một viên hàng tướng, phải phụng sự nước Yên, nhưng nếu Kế Thành bị đánh bại, tướng quân sẽ bị bắt hoặc bị chết, thân bại danh liệt, tướng quân không nên để cho sự việc diễn ra như thế. Nếu tướng quân có thể làm nội ứng cho quân Tần của ta, phản lại nước Yên, bắt sống vua Yên, giúp ta thành công, nhất định sẽ được vua Tần quý trọng, sẽ được phong tướng và ban tước hầu, phú quý vinh hoa. Nay mạo muội phát biểu như trên, cốt làm rõ lợi hại. Xin mau chóng quyết đoán.

Vương Tiễn cúi đầu kính chào.

Thật là “cha nào con nấy”, cha của Kịch Hoàn là Kịch Tân, Kịch Tân vốn là tướng nước Triệu, sau phản Triệu hàng Yên, nay Kịch Hoàn phản Yên hàng Tần, âu là tính di truyền của tính cách, tư tưởng và khí tiết mà thôi. Kịch Hoàn đọc xong thư trên, chỉ suy nghĩ giây lát rồi đồng ý hàng Tần và viết thư trả lời Vương Tiễn; lại còn cấp cho viên mật thám của Tiễn một giấy thông hành ra vào Kế Thành. Viên mật thám này qua lại Kế Thành nhiều lần nữa để truyền đạt mật kế của Vương Tiễn cho Kịch Hoàn. Kịch Hoàn theo đó tìm những tướng sĩ bạc nhược trong quân Yên, đưa họ chốt giữ những vị trí cần thiết trong các binh chủng và các ngành quan trọng, để đến khi có lệnh là cùng nổi dậy làm phản, tấn công cung đình, bắt sống Vương Hỷ, diệt Yên hàng Tần.

Lúc ấy trong triều đình Yên có công tử Dần, em cùng cha khác mẹ của thái tử Đan. Công tử Dần còn trẻ khỏe, tuấn tú khôi ngô, ý hợp tâm đầu với thái tử Đan, luôn luôn ủng hộ anh mình chống Tần bảo vệ đất nước. Bây giờ thái tử Đan đưa quân ra biên giới chống Tần, công tử Dần lúc đầu đã yêu cầu anh cho đi theo để giúp làm trợ thủ cho anh, quyết tử chiến với quân Tần, tỏ lòng trung thành yêu nước thương nòi. Nhưng thái tử Đan thấy Vương Hỷ ươn hèn bất lực, nếu bị ai đó xúi giục, rất có thể phản quốc đầu hàng, như vậy thì máu đào của mười vạn tướng sĩ yêu nước do ông chỉ huy sẽ thành vô ích. Vì vậy, ông hết sức khuyên công tử Dần ở lại kinh đô, phụ trách việc bảo vệ Kế Thành, và luôn luôn thăm hỏi và động viên nhà vua Vương Hỷ, giúp nhà vua khắc phục tính nhu nhược, sợ hãi, tăng cường lòng tự tin, kiên định chống Tần. Nhờ vậy, Kế Thành đã được giữ vững một thời gian.

Đến khi, liên quân Nguy, Sở, Tề cùng phối hợp đánh Tần, quân của Vương Tiễn cũng không dám đơn độc tấn công nước Yên nữa, vì phải rút về chống lại cái mũi tấn công nhiều bên của liên quân ba nước. Do vậy, nước Yên được thoát chết.

Công tử Dần nhận trọng trách ở lại Kế Thành do thái tử Đan giao cho, ngoài việc bảo vệ cung đình và ổn định tinh thần cho nhà vua Vương Hỷ, ông còn thường xuyên lui tới các điểm đóng quân, doanh trại và trạm gác của quân Yên để thăm hỏi động viên tướng sĩ, khuyến khích họ kiên định chống Tần, giữ nghiêm kỷ luật, tăng cường canh gác, làm trọn chức trách bảo vệ kinh đô được vẹn toàn. Trong thời gian đầu, quân Yên giữ thành tỏ ra có tinh thần rất cao. Điều này làm cho công tử Dần cảm thấy yên tâm, và thông báo tình hình này cho nhà vua Vương Hỷ biết, nhằm tăng thêm lòng tin của ngài. Nhưng công tử Dần dần dần phát hiện những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ của mình. Một số tướng sĩ không còn nhiệt tình hăng hái như lúc đầu nữa, kỷ luật cũng lơi lỏng; thậm chí có người tỏ ra rất buồn chán... Tinh thần quân sĩ sa sút, đó là dấu hiệu của sự thất bại. Công tử Dần lập tức cảm thấy hoài nghi, muốn gặp một vài tướng sĩ để dò hỏi cho ra ngọn nguồn. Nhưng ông lại không có chức vụ quân đội, nếu nhảy vào cuộc, sợ sẽ gây ra hiểu lầm, nhất là rất sợ tướng Kịch Hoàn hiểu sai và đố kỵ, sẽ ảnh hưởng đến đoàn kết và hợp tác. Vì vậy, công tử Dần không dám làm gì cả, nhưng rất sốt ruột.

Mấy hôm sau, công tử Dần nghĩ ra một mưu kế, cải trang thành người ăn xin, đầu bù tóc rối, bôi mặt lọ lem, áo quần rách rưới, tay cầm bát sứt đi ăn xin trong các doanh trại và trạm gác của quân Yên, nhằm nghe ngóng tình hình. Tại đó, công tử Dần đã nghe được một cuộc nói chuyện của binh lính. Một người nói:

- Vương Hỷ là một ông vua u mê bất lực, sắp mất nước đến nơi rồi. Vậy mà sai con ra ngoài biên cương chống địch, còn bản thân mình thì chỉ say đắm trong nhục dục và tiền bạc, hưởng lạc cầu vinh. Vậy bọn chúng ta cần gì mà hy sinh cho ông ta...

Một người khác nói:

- Bây giờ thời buổi loạn lạc, nên tìm nơi nào để sinh sống thì tốt hơn! Thôi, cứ tạm ăn cái khẩu phần cơm nước này đã, rồi xem xem có một vận may nào khác hay không?

Lại có một người khác nữa nói:

- Thời buổi chiến tranh này, đi lính vẫn còn hơn, nhưng nếu tìm được một chủ tướng thật giỏi, thì chỉ cần đánh thắng mấy trận, nếu không chết mất mạng, thì chắc chắn là sẽ được thăng quan phát tài.

Như vậy, nội dung câu chuyện mà họ bàn tán đã rõ ràng. Té ra là có một số tướng sĩ đã ngấm ngầm đi xúi giục, reo rắc tư tưởng bất bình đối với Vương Hỷ, kích động tâm lý đi tìm minh chủ khác, cũng có nghĩa đi theo tướng Kịch Hoàn, một người không chịu đưa quân chống Tần, chỉ thụ động thủ thành. Dựa theo những lời bàn luận không đầu không đuôi đó, công tử Dần cũng dần dần đoán ra rằng tướng Kịch Hoàn, con của một cựu tướng phản nghịch, đang ra sức lôi kéo và tập hợp lực lượng, chuẩn bị làm phản, tái diễn vở kịch xấu xa năm nào của cha mình. Nhưng công tử không thể đi sâu dò xét kỹ hơn để có thể biết được thời gian và địa điểm khởi sự làm phản của họ, cũng không thể biết được Kịch Hoàn đã tập hợp được bao nhiêu người, cũng không rõ là chỉ một mình Kịch Hoàn hay còn có người ngoài giúp sức hay xúi giục.

Nguy cơ đang tiềm ẩn và sắp bùng phát, không cho phép công tử chần chừ do dự nữa. Ông vội vàng đi nhanh về phủ của mình, viết một bức thư mật, sai kỵ binh hỏa tốc đưa cho thái tử Đan. Trong đó, yêu cầu thái tử cho ngay một bộ phận tướng sĩ về gấp kinh đô để dẹp loạn, bảo vệ nhà vua; vì công tử biết rằng quân Yên của thái tử và quân Tần cứ cầm cự nhau gần một năm nay ở hai bên sông Dịch Thủy rồi, nhưng vẫn chưa đánh nhau, nay Kế Thành lâm nguy, thái tử chắc sẽ cho quân về ứng cứu. Công tử Dần thậm chí còn nghĩ rằng phải thẳng tay giết Kịch Hoàn, may ra mới dẹp được âm mưu nổi loạn, nhưng hiềm một nỗi bản thân không giỏi võ nghệ, sợ không địch nổi phe của Kịch Hoàn. Nếu mình hy sinh thì cũng chẳng hề gì, nhưng trong hoàng cung sẽ mất người chỉ huy, và Vương Hỷ không tránh khỏi cái chết, mà vua chết thì nước mất. Vả lại nếu Kịch Hoàn đã gây dựng được một thế lực hùng mạnh, thì dù hắn có chết, cũng sẽ có kẻ khác thay hắn để cầm đầu bọn nổi loạn. Cho nên, công tử có dũng cảm đến mấy cũng bằng thừa! Cuối cùng, công tử Dần quyết định áp dụng chiến thuật đề phòng nghiêm ngặt, chốt giữ chặt chẽ (cố thủ), chờ quân tiếp viện đến, để đối phó với cuộc nổi loạn sắp nổ ra.

Công tử Dần đi vào hoàng cung, tập hợp toàn bộ đội cận vệ cung đình, cho canh gác cẩn mật tất cả các cửa lớn nhỏ; thành lập các đơn vị cơ động đi tuần tra thường xuyên, cấm tất cả những người bên ngoài đến gần hoàng cung. Công tử còn tuyển chọn những tay thiện xạ cung nỏ, ẩn nấp tại các cửa ra vào hoàng cung và phía sau các cung điện để theo dõi tình hình. Mọi việc đều được xếp đặt chu đáo. Sau đó, công tử mới vào trong khuôn viên hoàng cung, đôn đốc các thành viên hoàng gia thu dọn và mang theo người các đồ châu báu ngọc ngà, đề phòng có thể có đột biến bất ngờ. Bản thân công tử chỉ huy một đơn vị kỵ binh thiện chiến, mũ sắt áo giáp nghiêm chỉnh, khí giới đầy đủ canh gác ở cổng chính hoàng cung.

Thái tử Đan biết rất rõ rằng đất nước của ông trong mấy chục năm qua liên tục bị nước Triệu, Ngụy xâm lấn ức hiếp. Hơn thế, cha ông chỉ biết hưởng lạc cầu vinh, chăng ngó ngàng gì đến công việc triều chính, để cho dân tình điêu đứng, quân yếu nước nghèo. Phần lớn các tướng sĩ do ông chỉ huy đều có tinh thần kiên quyết chống Tần, và đều trung thành với ông. Tuy nhiên, của cải và tài lực của đất nước chẳng có mấy, không đủ để cung cấp cho quân sĩ, ban thưởng cũng chỉ nói chay đầu miệng. Nếu so sánh với quân của Vương Tiễn nhà Tần, thì quân Yên thua kém một trời một vực; chỉ có thể tốc chiến tốc thắng mới mong ổn định tinh thần tướng sĩ, cổ vũ sĩ khí, hăng hái xông lên. Nhưng ngay cả về sức chiến đấu và kinh nghiệm tác chiến, quân Yên cũng rất kém quân Tần. Vì vậy, thái tử đã cầu viện nước Đại ở bên cạnh.

Nước Đại này vẫn là quận Đại của nước Triệu, là nơi tiếp giáp với Hung Nô, là căn cứ quân sự quan trọng của cựu đại tướng quân Lý Mục. Sau khi Lý Mục bị hại, đơn vị tinh nhuệ cũ của Lý Mục bèn chiếm đóng quận Đại và kình địch với nước Triệu. Về sau, khi Hàm Đan bị vây hãm, công tử Gia của Triệu dẫn đầu một phần đội cận vệ cung đình và một số thành viên hoàng gia, phá được vòng vây của quân Tần, chạy lên quận Đại, được quân dân quận này ủng hộ, tự lập ngôi vua, đổi quận thành nước Đại, và đưa quân đội đến đóng chốt ở Thượng Cốc, là nơi giáp giới với nước Yên để tự vệ. Về sau, Đại thấy quân Tần bỏ Ngụy và Sở để Bắc tiến, thấy tình hình nguy cấp ngay đối với nước Đại, nên đã đồng ý với đề nghị của thái tử Đan, đưa mười vạn quân phối hợp với quân Yên, thành lập liên quân Yên - Đại cùng bảo vệ phía bờ Tây sông Dịch Thủy. Đó cũng là nguyên nhân khiến quân Tần phải án binh bất động lâu dài ở bờ bên kia Dịch Thủy.

Nay mưu kế của Vương Tiễn xúi giục Kịch Hoàn làm phản sắp thành công, quân Tần bèn chuẩn bị đồng thời khởi sự tấn công cùng một lúc ở cả hai mặt trận (Kế Thành và Dịch Thủy). Ngày giờ và chiến thuật tác chiến đều đã được định đoạt. Tối 15 tháng 9 năm 21 niên hiệu Tần Vương Chính, trăng tròn vành vạnh, sáng tỏ mặt người, đúng là thời cơ rất tốt để tác chiến ban đêm. Và quân Tần ồ ạt vượt sông, tấn công mãnh liệt vào quân Yên - Đại. Quân Yên - Đại do thái tử Đan chỉ huy lập tức chống trả quyết liệt. Để ngăn cản quân Tần đổ bộ lên bờ, liên quân Yên - Đại nhảy cả xuống sông, làm thành một bức tường người để chặn địch. Bộ binh và kỵ binh của Tần thay phiên nhau xung phong. Hai bên có tất cả hai mươi nhăm vạn quân, vật lộn nhau dưới nước sông giá buốt, chẳng khác gì hai con rồng đang quần nhau, cấu xé lẫn nhau. Cuộc hỗn chiến dưới nước cứ kéo dài, bất phân thắng bại. Lúc ấy, Vương Tiễn và Tân Thắng đưa một bộ phận kỵ binh dũng cảm nhất, tấn công bờ Tây Dịch Thủy. Thái tử Đan và các tướng quân Đại lại chia nhau ngăn cản quân Tần.

Thái tử Đan nghĩ rằng đây là trận đánh then chốt cứu vãn vận mệnh đất nước. Vì vậy, ông quyết tâm tử chiến, thà hy sinh chứ không đầu hàng để sống. Ông đã dốc sức đẩy lùi nhiều đợt xung phong đổ bộ của quân Tần. Lão tướng Vương Tiễn quá mệt mỏi, đành phải cho thổi kèn tạm lui quân để ngày mai tiếp tục tác chiến.

Sáng hôm sau, quân Yên - Đại vừa ăn cơm sáng trên trận địa xong, chuẩn bị tác chiến, thì bỗng có mật sứ của công tử Dần từ Kế Thành tới. Thái tử Đan xem qua lá thư, vừa tức giận vừa lo lắng. Ông lập tức gặp ngay các tướng quân Đại, nói vắn tắt với họ tình hình Kế Thành. Sau đó tập hợp khoảng sáu nghìn người, gồm các binh sĩ thân cận và các môn khách trung kiên của mình, hành quân cấp tốc về Kế Thành cứu vãn tình thế. Các tướng Đại ở lại tiếp tục chỉ huy tác chiến, quân sĩ Yên - Đại vẫn giữ vững tinh thần chống trả quân Tần. Nhưng lúc ấy, Vương Tiễn đã rêu rao trong quân Tần rằng quân Yên bảo vệ Kế Thành đã làm phản, vua Vương Hỷ đã bị bắt sống. Vì vậy, sĩ khí quân Tần lên rất cao, tấn công mãnh liệt hơn. Trong khi đó chủ soái quân Yên phải rời trận địa, tướng sĩ bắt đầu dao động, rồi lại nghe tin từ bên quân Tần truyền sang, nên càng hoang mang, không chống cự nổi các đợt xung phong mới của quân Tần nữa. Toàn bộ trận địa nhanh chóng tan rã, bỏ chạy tán loạn. Quân Tần thừa thắng truy kích, tiếp tục mở rộng thành quả chiến thắng.

Tại Kế Thành, cũng tối 15 tháng 9, Kịch Hoàn chỉ huy hơn ba vạn quân làm phản, xông vào hoàng cung. May mà công tử Dần đã cảnh giác từ trước, đã cho bố phòng nghiêm ngặt, nên quân cận vệ cung đình chống trả quân phản nghịch rất quyết hệt. Kịch Hoàn thúc ngựa cầm giáo xông vào cửa cung, bị các tay thiện xạ của công tử Dần bắn chết. Tuy chủ tướng tử nạn, nhưng quân phản loạn vẫn điên cuồng như thú dữ, chúng tả xung hữu đột, hết sức hùng hổ. Lúc đó, tướng Tần Lý Tín đã nhảy vào được nội thành, công tử Dần thấy tình thế nguy cấp, khó lòng giữ được thành, bèn đưa ba vạn kỵ binh làm nhiệm vụ bảo vệ nhà vua Vương Hỷ cùng gia quyến của ông và một bộ phận thành viên hoàng gia chạy thoát ra ngoài thành và đi về phương Bắc. Lý Tín đưa quân đuổi theo, có vẻ như sắp đuổi kịp, thì gặp quân kỵ binh của thái tử Đan đón đầu chặn đánh. Thái tử Đan nhường cho xe ngựa của vua Vương Hỷ đi qua, rồi cùng với công tử Dần tử chiến với quân Tần. Lý Tín đành phải lui quân về Kế Thành, trút tức giận lên đầu quân Yên còn lại trong thành. Chúng giết sạch quân Yên, bất kể là quân bảo vệ hay quân làm phản. Tiếp đó, Vương Tiễn và Tân Thắng cũng vào thành. Kiểm tra lại, thấy quân Yên bị chết hơn tám vạn, chưa kể những người dân vô tội bị chết oan. Quân Tần đưa mấy trăm cỗ xe chở toàn bộ tài sản, phụ nữ và đồ đạc quan trọng, đưa về Hàm Dương. Các quan lại và các hộ giàu xin hàng cũng áp tải về Hàm Dương, không cho họ ở lại quê nhà, đề phòng ngóc đầu dậy chống Tần.

Vua tôi Vương Hỷ cùng với thị vệ, một bộ phận hoàng gia và hơn ba vạn tướng sĩ chạy đến Liêu Đông, vẫn xưng là nước Yên. Thái tử Đan dẫn hơn hai vạn quân đánh chốt ở Thổ Thành bên bờ sông Diễn Thủy, đối diện với Liêu Đông, nhằm ngăn cản quân Tần tấn công chính diện. Lý Tín lại dẫn năm vạn quân đến tập kích Liêu Đông, không đuổi kịp thái tử Đan, nhưng vây hãm thành Liêu Đông rất chặt, ngày đêm liên tục đánh phá, làm cho Vương Hỷ hồn bay phách lạc, vội sai công tử Dần đến nước Đại xin cứu viện. Vua vương Gia của Đại lấy lý do là nước Đại chưa vững vàng, vả lại vừa qua liên quân Yên - Đại thất bại thảm hại, nên nay không dám đắc tội với nước Tần nữa, chỉ mong được yên phận nơi góc trời này là đủ rồi, và từ chối giúp Vương Hỷ một lần nữa. Vương Gia viết cho Vương Hỷ một lá thư đại ý như sau: “Vua Tần Vương Chính sở dĩ truy đuổi nước Yên của ông đến cùng, không chịu buông tha, đó là để trả thù thái tử Đan. Nếu ông giết thái tử Đan, lấy đầu dâng cho Vương Chính, ông ta sẽ cho lui quân, đất nước của ông sẽ được bảo tồn”. Để bảo vệ ngôi vua của mình, Vương Hỷ đi đến chỗ mất hết tính người, viết chiếu thư giết con đẻ của mình, rồi sai mấy tên cận vệ cung đình xin Lý Tín nhường đường, đưa chiếu thư đến Thổ Thành ở Diễn Thủy để giết thái tử Đan, lấy thủ cấp mang về. Công tử Dần biết tin này vội chạy đến báo tin cho anh, nhưng bị quân Yên bắt được đưa về giam trong cung. Quân cận vệ của Vương Hỷ đưa chiếu thư đến Thổ Thành, toàn bộ chiếu thư chỉ vạch tội thái tử Đan mưu hại vua Tần gây tai họa cho nước Yên, đất nước tiêu vong, hoàng cung điêu tàn, thiên tử gian truân, tội này quá nặng, phải giết không tha, để tạ đất trời. Thái tử Đan mang nặng tư tưởng trung hiếu tuyệt đối [i], vả lại sẵn có tâm lý có tội vì đã hy sinh thầy dạy, bạn tốt cùng nhiều người khác mà không giết được Vương Chính, cho nên quỳ xuống chịu chết, không hề chống cự. Hơn hai vạn quân còn lại đau buồn và căm phẫn vô cùng, rồi theo nhau bỏ chạy tán loạn.

Sau khi lấy được thủ cấp thái tử Đan, Vương Hỷ cho vào hộp, rồi sai người đưa cho Lý Tín để chuyển về Hàm Dương. Ông ta còn viết một bức thư cho Vương Chính với giọng điệu kinh hoàng khiếp sợ, chỉ cầu xin vua Tần tha tội.

Ngạn ngữ nói rằng “Hổ dữ không ăn thịt con”, nhưng Vương Hỷ giết con để cầu an hưởng lạc, thật là độc ác hung dữ hơn cả hổ beo! Nhưng Vương Chính rất xảo trá tham lam, ông ta đời nào lại bằng lòng dừng chân ở đó. Sau khi nhận được thủ cấp của thái tử Đan, Vương Chính vẫn giục Lý Tín tiếp tục bao vây và tấn công thành Liêu Đông. Lúc này, Vương Hỷ vừa hối vừa hận, khóc rống lên, nhưng đã quá muộn. Thông qua những sự việc đẫm máu đó, quân dân nước Yên cũng thấy rất rõ rằng nước Tần rất gian giảo và quân Tần quá tàn bạo. Vì vậy, họ càng căm thù giặc, quật cường liều chết chống quân Tần đến cùng. Lúc ấy, bộ lạc người Hồ ở Liêu Đông cùng nổi dậy cứu viện nước Yên, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của Lý Tín. Vương Chính cần tập trung binh lực để đánh nước Sở và Ngụy, nên ra lệnh cho Lý Tín rút quân. Đến đây, cái triều đình lưu vong cỏn con, chẳng biết sống chết lúc nào của Vương Hỷ, may mắn thoát khỏi miệng hùm và sống sót.

Quân Tần chiến thắng trở về Hàm Dương, tổ chức đại tiệc mừng công, ban thưởng cho người có công, phụ cấp ưu đãi cho người thương vong. Cả nước ca ngợi Vương Chính uy vũ ngang trời dọc đất, sự nghiệp huy hoàng. Điều này càng làm cho Vương Chính thêm say mê hiếu chiến. Ý đồ thôn tính sáu nước của ngài càng thêm mạnh mẽ. Mùa đông năm hai mươi mốt niên hiệu Tần Vương Chính (226 trước Công nguyên), sau khi quân Tần đã được nghỉ ngơi và chỉnh đốn nửa năm, binh mã đã mạnh hơn, sĩ khí đã hào hùng hơn trước, Vương Chính bèn vạch kế hoạch tấn công Ngụy, Sở ngay tại một buổi thiết triều. Lúc ấy, đại tướng quân Vương Tiễn đã cáo lão về quê, vì ông bị bệnh thấp khớp rất nặng, chừa mãi không khỏi. Đó là vì năm ngoái, ông phải vật lộn quá lâu dưới nước lạnh buốt của sông Dịch Thủy với quân Yên, lại tuổi đã cao, nên nhà vua cũng đồng ý để ông nghỉ, mặc dù ngài rất tiếc, vì đây là một lão tướng từng vào sinh ra tử, lập nhiều công lớn. Vả lại ông cứ quỳ mọp rất lâu xuống đất để xin được nghỉ. Tuy nhiên, nhà vua vẫn yêu cầu ông tham gia, góp ý kiến vào việc hoạch định chiến lược chiến thuật tác chiến. Vương Chính nêu vấn đề:

- Sau khi diệt Hàn, Triệu và chiếm toàn bộ lãnh thổ nước Yên, mặc dù còn một góc Liêu Đông chưa chiếm được, nhưng đó chỉ là miếng đất đầu thừa đuôi thẹo, chỉ là một thứ mụn nhọt ghẻ lở mà thôi, chẳng đáng là một trở ngại gì lớn, cứ tạm để đó. Chỉ có nước Sở ở phía Nam và nước Ngụy ở phía Đông là còn khá mạnh, nếu không sớm đánh diệt, sẽ thành họa lớn. Các khanh thấy thế nào?

Úy Liêu suy nghĩ giây lâu rồi nói rất trung thực:

- Đại vương nói rất phải. Hai nước này đã chống lại nước Tần rất lâu rồi. Xuân Thân quân của Sở và Tín Lăng quân của Ngụy là trụ cột của lực lượng hợp tung, là mưu sĩ của liên quân, làm cho kế hoạch của chúng ta không thể thực hiện được, quân ta không thể chiến thắng. Nay những người ấy không còn nữa, nhưng thế lực của họ vẫn rất mạnh, nếu không sớm diệt trừ, e sẽ để lại hậu họa.

Tần Vương rất tán thành ý kiến đó của Úy Liêu. Vì vậy, ngài yêu cầu Úy Liêu nêu ra kế hoạch cụ thể. Sau khi Úy Liêu trình bày phương án tác chiến cụ thể, Vương Chính mỉm cười gật đầu. Ngài nói:

- Việc này, vua tôi chúng ta đều đã thấy rõ, chỉ có điều, nên đồng thời tấn công và tiêu diệt cả hai cùng một lúc, hay là phân biệt trọng điểm và thứ yếu để lần lượt đánh chiếm, điều này cần xem xét cho kỹ!

- Quân ta tuy liên tục chiến thắng, các nước chư hầu đều khiếp sợ, nhưng cũng cần đề phòng. Nếu đồng thời đánh cả hai nước, sợ phân tán lực lượng. Nếu bị đối phương đánh hai gọng kìm, thì càng khó đối phó. Cho nên cần phân biệt trọng yếu để đánh dần. - Úy Liêu nhắc lại.

Vương Tiễn bổ sung thêm:

- Mạt tướng mấy năm qua hết đánh Hàn, rồi diệt Triệu, Yên. Cho nên không thật rõ tình hình Ngụy, Sở. Nói chung là nên thận trọng, nên đánh nước yếu trước; sau khi chiến thắng, mới uy hiếp nước còn lại. Như vậy mới dễ đánh thắng.

Tiếp đó, mọi người so sánh hai nước Sở, Ngụy và đều nhất trí cho rằng, nước Ngụy ở phía Đông, nằm giữa nước Tần và Triệu; khí hậu và địa lý gần giống Tần và Triệu; cho nên, thích hợp với quân Tần. Nhất là, sau khi Tần tiêu diệt Triệu, làm cho Ngụy cảm thấy hết sức bất an, do đó, tự nhiên rơi vào thế yếu. Dựa vào nhược điểm đó, có thể tấn công Ngụy trước, sẽ dễ dàng chiến thắng. Còn nước Sở là một nước mạnh ở phía Nam, đất đai rất rộng, có nhiều địa thế để tiến lùi, khó có thể đánh thắng họ nhanh chóng được. Nhất là ở miền Nam, sông hồ dày đặc, núi non trùng điệp, rất khó cho quân Tần vốn quen đánh dã chiến với binh đoàn lớn. Khí hậu ẩm thấp ở đó cũng dễ làm cho quân Tần sinh bệnh. Đặc biệt, nước Sở từng nhiều lần cầm đầu liên quân hợp tung chống Tần, nay vẫn còn lực lượng và nhân tài quân sự rất mạnh. Cho nên, đây là một kẻ địch mạnh, không thể coi thường.

Sau khi phân tích và thảo luận như trên, triều thần của Vương Chính quyết định dốc toàn lực đánh Ngụy trước. Khi bàn đến việc cử ai làm thống soái toàn quân, Tần Vương Chính lại lấy làm tiếc là Vương Tiễn đã xin nghỉ, nhưng ngài vẫn muốn Vương Tiễn tiếp tục cầm quân, khi nào chinh phục xong Ngụy, Sở hoàn thành sự nghiệp thống nhất thiên hạ, hãy về nghỉ trong niềm vinh quang toàn thắng. Vương Tiễn cảm ơn nhà vua đã trọng dụng và khen ngợi mình, nhưng vẫn nhấn mạnh bản thân tuổi già nhiều bệnh, quả thật không thể tiếp tục tham gia chinh chiến được nữa. Để tỏ lòng ủng hộ nhà vua và lòng trung thành kiên định đối với đại Tần, ông đề nghị giao cho con ông là Vương Bôn giữ chức tướng quân, làm thống soái toàn quân đánh Ngụy. Vương Chính và các tướng lĩnh khác đều rất tán thưởng thái độ công tâm vô tư của Vương Tiễn. Trong buổi thiết triều sáng hôm sau, Vương Chính đích thân tuyên bố phong Vương Bôn làm tướng quân và thống lĩnh quân đội đánh Ngụy.

Sau khi xác định mục tiêu trước mắt là nước Ngụy, Tần Vương Chính còn giao cho tướng quân Lý Tín và Mông Quát thống lĩnh quân đội đánh Sở, nhằm ngăn cản Ngụy và Sở bắt tay với nhau, gây khó khăn cho quân Tần.

Sau khi bố trí mọi việc xong xuôi, các đơn vị quân đội được tập kết đến các địa điểm thích hợp, chờ xuất phát. Lúc ấy bỗng có tin cấp báo từ miền biên giới đưa về, tại khu vực Tân Trịnh thuộc nước Hàn cũ, xảy ra bạo động quân sự, viên thái thú của quận do Tần mới bổ nhiệm bị giết. Ở đó, quân Tần sở tại không đủ sức đánh dẹp quân nổi loạn, vì vậy, yêu cầu cứu viện. Quân nổi loạn ở đó sở dĩ dám khởi sự làm càn, là do có sự xúi giục và ủng hộ của nước Ngụy chỉ cách đó một dòng sông.

Khi Úy Liêu và Lý Tư tấu trình tin này cho Vương Chính, nhà vua không phẫn nộ như trước kia vẫn hay như thế, mà ngài cười ha hả. Ngài nói:

- Tân Trịnh làm phản thật đúng lúc. Thật là trời giúp ta!

Úy Liêu và Lý Tư lấy làm lạ, hỏi tại sao nhà vua lại cảm thấy vui mừng trước cuộc bạo động ở Tân Trịnh. Vương Chính cười nói:

- Trẫm đang lo rằng nước Ngụy có thể phát hiện và đề phòng cuộc chinh phạt của chúng ta, sẽ khó khăn cho ta. Nay ta đưa quân đánh dẹp ở Tân Trịnh, đó là công việc nội bộ của ta, Ngụy sẽ không đề phòng. Nhưng ta lại có thể nhân dịp đánh dẹp nổi loạn để vượt qua sông, bất ngờ đột kích Đại Lương (kinh đô của Ngụy). Do đó mới nói rằng cuộc bạo động ở Tân Trịnh là cơ hội do trời giúp cho đại Tần vậy!

Úy Liêu và Lý Tư nắm chặt tay bái phục và nói rằng Vương Chính đích thực là một nhà quân sự đại tài.

Tiếp đó, Vương Bôn đưa mười vạn quân đánh Tân Trịnh, nhanh chóng dẹp yên bọn nổi loạn. Sau đó, đánh quân bên bờ Tây sông Hoàng Hà; bề ngoài là nghỉ ngơi và phục hồi sau khi dẹp loạn xong; thực tế là ngấm ngầm theo dõi tình hình thành Đại Lương của Ngụy nằm bên kia sông, chuẩn bị sẵn sàng đánh chiếm bất cứ lúc nào có cơ hội.

Mùa đông năm ấy, nước Ngụy có tuyết rất lớn, tuyết dày hai thước rưỡi, đóng băng ba thước, khắp nơi một màu trắng xóa đến tận chân trời. Vua tôi và quân dân nước Ngụy cả nước đều rét run lên bên bếp lửa, kẻ giàu sang thì ngồi bên lò sưởi để đàn hát, hưởng lạc xa hoa, hoặc rượu chè nhậu nhẹt. Phần lớn dân nghèo thì cam chịu đói rét. Điều duy nhất là chẳng ai suy nghĩ gì đến tình hình ở Tân Trịnh, mảnh đất cũ của nước Hàn, nay là đất “lãnh địa” của Tần, nơi chỉ cách Nguy một con sông. Trong khi đó, quân Tần đang lợi dụng mùa tuyết rất lớn này, phát huy ưu thế của họ là quen chịu khổ chịu khó, liên tục tác chiến. Vương Bôn cho quân sĩ hành quân trên băng, vượt qua sông Hoàng Hà tại Tân Trịnh, bố trí trận địa bao vây thành Đại Lương. Đến năm sau, tức là mùa xuân năm hai mươi hai niên hiệu Tần Vương Chính (năm 225 trước Công nguyên). Khi băng tuyết đang tan, thì đại quân Tần đã hoàn tất việc vượt sông và bố trí xong toàn bộ trận địa, chỉ chờ lệnh là tấn công vào thành Đại Lương (nay là khu vực phía Tây Bắc thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam).

Đến lúc đó, nước Nguy mới biết là kinh đô của mình đã nằm gọn trong thế bao vây của hai mươi vạn quân Tần. Khi vua Vương Giả của Ngụy nhận được tin cấp báo, ông ta mới giật mình thức tỉnh như sau một cơn mê ngủ, vội vàng triệu tập quần thần họp bàn kế sách chống Tần.

Khi phân tích tình hình hiện trạng của nước Ngụy, các vua tôi nhà Tần đều đánh giá nước Ngụy khá cao. Bởi vì trước đó, nước Nguy có Tín Lăng Quân, tức công tử Vô Kỵ, từng bày mưu cho Như Cơ ăn cắp “binh phù” để trong phòng ngủ nhà vua để giúp Vô Kỵ cứu nước Triệu, đánh bại quân Tần. Sự việc này gây cho vua tôi nước Tần ấn tượng rất sâu sắc. Nay đại tướng quân Tấn Thăng của Ngụy lại là con của Tấn Bỉ, một viên tướng nổi tiếng, từng không trao binh phù cho công tử Vô Kỵ. Vua tôi nhà Tần cho rằng Tấn Thăng là con nhà nòi của gia đình tướng tài, chắc là quân do Tấn Thăng chỉ huy khó có thể bị đánh bại. Do đánh giá như vậy cho nên quân Tần hết sức thận trọng trong kế hoạch bố trí chiến lược và chiến thuật tác chiến đánh Ngụy.

Trong khi đó, vua Ngụy là Vương Giả lại buông lỏng cảnh giác đối với âm mưu xâm lược của quân Tần, vì ngài tôn sùng và tin cậy Tấn Thăng, con của lão thần và là danh tướng Tấn Bỉ, ba đời trung thần của triều đình Ngụy.

Vương Giả là cháu của vua An Ly, con của vua Cảnh Dân. Vương Giả rất giống Vương Chính nhà Tần về nhiều mặt. Trước hết, Vương Giả không phải là con trưởng, mà là con một người thiếp được vua Cảnh Dân sủng ái, nên được lập làm vua lúc mới mười ba tuổi. Thứ hai, Vương Giả cũng tinh thông võ nghệ, rất ngạo mạn tự đắc, thường tự xưng là “Doanh Chính” của nước Ngụy. Điều quan trọng hơn là mẹ của Vương Giả, tức thái hậu Ứng Hạ, ở góa lúc còn trẻ (36 tuổi), và cũng rất giống thái hậu Triệu Cơ, tức là không chịu sống cô tịch, mà gian dâm với bầy tôi. Nhưng lại khác Triệu Cơ ở chỗ, Triệu Cơ chỉ quan hệ với một người duy nhất, còn Ứng Hạ thì lấy chồng khắp thiên hạ, quan hệ bừa bãi, đến những trên hai trăm người đàn ông. Lại còn chuyện này nữa: Vương Giả lúc đầu có tên là Ngụy Thành. Nhưng lúc lên ngôi, người mẹ (Ứng Hạ) tin vào lời của Hậu Lệ, đổi tên con thành Giả, muốn nói rằng con mình không phải vua thật, mà là vua giả. Vương Giả thấy mình bị đổi tên, và mẹ thì dâm ô điên loạn, nên rất lo sẽ xảy ra những cuộc nổi loạn quân sự như Lao Ái và Lã Bất Vi ở nước Tần. Vì vậy Vương Giả bèn cho mời hơn hai trăm người có quan hệ với mẹ mình vào cung dự tiệc rồi giết sạch. Nhưng những người bị giết đều là văn võ trọng thần. Đương nhiên, giết những người này, có làm cho bộ mặt nội cung được trong sạch, nhưng lại gây một tổn thất to lớn đối với tầng lớp cầm đầu chính trị quân sự ở triều đình; nguyên khí quốc gia bị tổn thương, không sao phục hồi lên được. Các trọng thần quân sự chính trị hiện có, tuy không có quan hệ nhơ nhuốc với thái hậu, nhưng lại bất lực trước quốc gia đại sự. Đó là mối lo ngại to lớn mà đã nhiều năm nay, Vương Giả không tài nào tháo gỡ cho ra được.

Khi hai mươi vạn quân Tần bao vây đô thành, Vương Giả lại càng lúng túng. Tại cuộc họp tối cao khẩn cấp, Vương Giả nói với quần thần, giọng điệu rất chán chường:

- Mùa đông vừa qua rất lạnh, tuyết phủ cả nước ta, cứ tưởng băng tuyết dày như thế thì quân địch khó có thể hành động, và chúng ta sẽ bình an vô sự. Ai ngờ quân Tần lại lợi dụng băng tuyết dày đặc để đưa quân đội sang sông, xâm phạm nước ta. Nay đã có mười vạn quân của chúng tiến sát Đại Lương, khí thế rất hùng hổ, hết sức nguy cấp. Mong các thần nhanh chóng tìm ra đối sách, để đánh lui ngay quân địch, bảo vệ an toàn cho vua tôi chúng ta, đem lại bình an cho xã tắc!

Đô úy Ngụy Thiên Kiều thận trọng nêu lên kế hoạch bảo vệ đô thành như sau:

- Quân ta bị băng tuyết làm cho mất phương hướng, canh phòng không chặt chẽ, mới có tai họa như hôm nay. Nay Đại Lương có thành lũy rất kiên cố, có các đài cao chi chít, lại có hào sâu rất rộng, quân phòng thủ lên tới hơn hai mươi vạn. Theo ý hạ thần, cứ đóng cổng thành cố thủ, lấy nghỉ ngơi chờ kẻ địch mệt mỏi, nhất thiết không nên tùy tiện đưa quân ra nghênh chiến.

Tướng quân Quang Vũ cũng tán thành ý kiến của đô úy Ngụy Thiên Kiều. Quang Vũ nói:

- Quân Tần âm mưu từ lâu, sau khi chuẩn bị đầy đủ rồi mới đến xâm phạm chúng ta. Khí thế của chúng đang rất hung hăng, quyết tâm chiến thắng đang rất lớn. Nếu ta vội vàng ứng chiến, e khó thắng chúng, mà chỉ gây mất tinh thần cho quân ta, khi đã mất tinh thần thì rất khó phục hồi. Chi bằng tạm cố thủ, để làm nhụt nhuệ khí quân địch. Trong lúc đó, chúng ta cho người đi các quận huyện, yêu cầu họ cứu viện. Lúc đó, chúng ta hãy ra quân, nội ngoại cùng đánh giáp công, chắc chắn quân Tần sẽ thất bại và chúng ta sẽ bảo vệ được đô thành.

Vương Giả cũng thấy lúc này thế thủ là hơn, nên cũng đồng ý. Nhưng đại tướng quân Tấn Thăng lại nói rất hăng hái răng:

- Hai vị kia sao lại đề cao chí khí quân địch và hạ thấp uy phong của mình như vậy? Bệ hạ không thấy ư, lúc tiên vương đang tại vị, ngài đã thống lĩnh mười vạn đại quân ra tận biên cương để bảo vệ đất nước, từng đánh nhiều trận anh dũng oai hùng, khiến quân Tần không dám tiến một bước chân sang đất ta. Nay đất nước lâm nguy, Đại Lương đang bị đe dọa, chính là lúc cần phải đưa quân ra nghênh chiến, quét sạch quân Tần tàn bạo. Sao lại co mình lại để chờ chết? Mạt tướng tuy bất tài nhưng xin đưa quân chống địch, thề bảo vệ thành Đại Lương bình yên vô sự, vua quan vẫn ngồi vững ở triều đường như xưa!

Vương Giả nghe nói vậy, tâm lý hiếu thắng của tuổi trẻ lại bùng lên, bèn lập tức quyết đoán, không thèm hỏi ý kiến bất cứ ai:

- Giao cho đại tướng quân Tấn Thăng đưa hai mươi vạn quân, đô úy Ngụy Thiên Kiều làm phó tướng, lập tức đưa quân ra ngoài thành nghênh chiến, phải chặn đứng quân Tần ở cách thành mười dặm, một là để bảo đảm an toàn chắc chắn cho Đại Lương, hai là để cho quân các quận huyện về tăng viện có thể bố trí trận địa ở phía sau.

Sau khi định đoạt như trên, tướng quân Quang Vũ cho kỵ binh hỏa tốc đi các quận huyện truyền lệnh cho họ phải cấp tốc đưa quân đến cứu viện kinh đô Đại Lương. Đại tướng quân Tấn Thăng và phó tướng Ngụy Thiên Kiều đưa mười hai vạn quân ra ngoài thành nghênh chiến. Vua Vương Giả lúc này thấy một số đại thần còn muốn đứng ra giúp vua cứu nước, bèn cảm thấy yên tâm. Ngài ra lệnh cho quân dân toàn thành tích cực chuẩn bị tác chiến, nhưng phải chờ các quận huyện đưa quân tăng viện tới, nhằm bảo đảm an toàn vững chắc cho thành Đại Lương. Nếu đại tướng quân Tấn Thăng ở bên ngoài thành đánh bại quân Tần, thì ngài sẽ đích thân chủ trì lễ đón tướng sĩ quân Ngụy chiến thắng trở về.

Tướng Vương Bôn của Tần bố trí trận địa vây thành ở cách Đại Lương mười dặm, nhưng chưa dám mạo hiểm tấn công. Vì chưa biết Ngụy còn những tướng lĩnh nào cầm quân, nhỡ ra không may gặp phải trường hợp như tướng Hoàn Kỳ năm nào đã quá vội vàng tấn công Hàm Đan, rồi bị đánh từ hai phía: phía trước mặt thì quân địch rất mạnh chặn lại, phía sau lưng cũng bị quân địch đánh tới, cuối cùng bị thua rất đau. Cho nên, nay Vương Bôn cứ theo dõi tình hình Đại Lương ngày này qua ngày khác, không quyết đoán gì cả. Nhưng hôm nay, bỗng thấy quân Nguy ồ ạt kéo ra và đóng doanh trại tại những vị trí cách quân Tần một cự ly nhất định với tư thế chuẩn bị giao chiến. Trước tình hình đó, Vương Bôn hơi lo ngại. Khi lính thám báo về nói rằng cờ soái của quân Nguy có chữ “Tấn”, lúc này Vương Bôn mới yên tâm, và nghĩ ra một mưu kế nhằm đánh bại quân Ngụy mà không đổ xương máu.

Khoảng giờ Thìn (từ bảy đến chín giờ sáng) hôm sau, quân Tần đưa một bộ phận binh mã đến đóng chốt tại phía trước trận địa quân Ngụy, kéo cờ lên. Quân Ngụy cũng vội vàng bố trí một thế trận tương ứng, sẵn sàng ứng chiến. Nhưng quân Tần không khiêu chiến, chỉ nói vọng sang phía quân Ngụy rằng, mời chủ soái quân Ngụy ra phía trước hàng quân để đối đáp. Tấn Thăng đứng ở phía sau cờ trận quan sát, thấy quân Tần không mang khí giới, có vẻ như không chuẩn bị đánh nhau, bèn đưa theo một kỵ binh rồi cưỡi ngựa đi ra trước hàng quân. Tướng quân Vương Bôn của Tần cũng cưỡi ngựa từ phía đối diện đi lại. Khi chỉ cách nhau khoảng hai trượng (khoảng 6,66m), Tấn Thăng vội kéo dây cương và dừng ngựa, chờ đối phương nói trước. Nào ngờ Vương Bôn không dừng bước, cứ tiếp tục tiến lên. Tấn Thăng vội hỏi:

- Tướng quân muốn nói gì xin nói ở đây, sao lại đi vào trận địa của ta?

Tấn Thăng chưa nói dứt lời, Vương Bôn đã vụt tung ra một dây thòng lọng, vòng ngang cổ Tấn Thăng. Tấn Thăng cố gỡ ra nhưng Vương Bôn giật mạnh, kéo Tấn Thăng ngã nhào xuống đất. Lúc này tướng sĩ quân Ngụy bị bất ngờ, không kịp trở tay, nên rất hoang mang. Khi đã trấn tĩnh lại, thì không kịp nữa, tuy có đuổi theo quân Tần, nhưng Vương Bôn đã chạy về trận địa quân Tần, rồi cung tên của quân Tần bắn ra như mưa. Quân Ngụy đành phải rút về.

Là một đại tướng quân của quân Ngụy, Tấn Thăng bị quân địch thòng dây vào cổ rồi lôi xềnh xệch như lôi súc vật, thật là vừa tức giận vừa xấu hổ, bèn chửi mắng Vương Bôn tại sao không giao chiến để phân thắng bại, lại dùng cách lừa bịp và bắt cóc như vậy, thật quá bỉ ổi! Vương Bôn không trả lời, chỉ cười khoái trá và mời Tấn Thăng uống rượu, đoạn nói:

- Dùng binh phải dùng mẹo để lừa, xưa nay vẫn thế. Bản soái không đánh nhau mà dùng mưu kế, đó là vì không muốn gây thương vong. Nếu phải đánh nhau, thì quân Ngụy của ông sẽ bị quân Tần tiêu diệt sạch! Nhưng như vậy quân Tần cũng bị thương vong nhiều. Là chủ soái quân đội một bên giao chiến, trừ trường hợp vạn bất đắc dĩ, nếu không, ta không muốn hy sinh nhiều như vậy.

Tấn Thăng bác lại nói rằng:

- Quân Ngụy đang bảo vệ kinh đô của mình, sẽ kiên trì chiến đấu dù cho chủ soái bị bắt.

Vương Bôn cười khinh bỉ và nói rằng:

- Muốn bắn người, trước hết phải bắn ngựa, muốn bắt giặc trước hết phải bắt vua giặc. Nước Ngụy các ông không còn tướng tài nên đưa ông làm chủ soái, nay bị ta trói gô kéo về như con gà, các tướng sĩ còn lại đó có cố gắng bao nhiêu cũng sẽ bị quân ta chặn đứng dễ như trở bàn tay. Dù có chống trả cũng chẳng qua chỉ là rắn mất đầu, quân hồi vô phòng, chẳng ai bảo được ai, không đánh mà tan; đó là điều chắc chắn. Sở dĩ ta dùng mưu kế lừa ông và bắt ông, đó là cốt để đánh một đòn làm tan rã sĩ khí quân Ngụy. Tiếp đó, dù quân của ông đánh hay hàng, thì cũng đã ở thế thua rồi. Cho nên tôi khuyên ông làm một người đầu hàng đầu tiên, và ra lời kêu gọi quân lính của ông hạ vũ khí để bảo toàn tính mạng. Như vậy, ông sẽ để lại cái “đức”.

Lúc này, tinh thần Tấn Thăng đã bắt đầu lung lay dao động, nhưng vẫn do dự, cảm thấy mình là chủ soái của một nước mà đầu hàng quân địch là rất nhục nhã. Vương Bôn thừa cơ tiếp tục tấn công về tâm lý (tâm công). Ông ta nói:

- Hiện nay chiến tranh giữa các nước diễn ra liên miên, thắng bại là thường tình, nên tùy cơ ứng biến chứ không nên cứng nhắc chỉ theo một bên nào, như vậy mới bảo vệ được tiền đồ cá nhân, như cha của ông trước đây một lòng theo Ngụy, không chịu đưa “binh phù” cho Vô Kỵ nên đã bị Vô Kỵ giết. Nay vua Ngụy còn là con trẻ, chẳng biết trị quốc, chểnh mảng việc nước, bề tôi thì không có kế sách gì giúp vua, chẳng còn hơi sức nào để xoay chuyển tình thế. Làm một đại tướng như ông, việc gì mà phải cứng nhắc khổ sở tận trung tận hiếu với một đất nước sắp diệt vong ấy cơ chứ! Tôi nói rất thật lòng, mong ông xem xét lại.

Vương Bôn không chỉ cầm quân như thần, mà còn rất giỏi uốn ba tấc lưỡi, thuyết phục được Tấn Thăng đầu hàng; lại còn viết một bức thư theo như yêu cầu của Vương Bôn. Trong đó, ra sức nói rằng việc nước Tần thống nhất thiên hạ là xu thế tất yếu, nước Ngụy thì vua non nớt không có chí khí, bầy tôi bất lực tầm thường, hà cớ gì phải hy sinh cho một đất nước như vậy! Tấn Thăng khuyên quân Nguy đầu hàng, nếu không hàng thì tự động ra ngũ, không nên bán mình cho nước Ngụy nữa. Vương Bôn cho sao bức thư ấy thành hàng nghìn bản, tán phát vào quân Ngụy. Quả nhiên, quân Ngụy tan rã, người thì đầu hàng, kẻ thì chạy trốn, mất mấy vạn. Phó tướng Ngụy Thiên Kiều vội tập hợp số còn lại và đưa vào thành, không dám ra ứng chiến nữa. Quân Tần thừa thế bám sát đuổi theo. Sau mấy trận giao chiến, quân Tần xiết chặt vòng vây Đại Lương, vây chặt đến mức con ruồi cũng không thể lọt qua. Tướng quân Quang Vũ và phó tướng Ngụy Thiên Kiều đưa quân ra ngoài thành liều chết đánh quân Tần. Nhưng lúc ấy quân Tần đã bịt kín các cổng thành, dù có bị đánh lui, thì đã có bộ phận khác đến tiếp viện. Còn quân tăng viện của các quận huyện của Ngụy thì không thể tiếp cận được thành, vì chưa đến nơi đã bị quân Tần đánh lui. Thành ra nội ngoại quân Ngụy chẳng tiếp ứng cho nhau được, không thể triển khai được thế trận, dù có liều chết cũng vô ích, cuối cùng bị vây chặt trong nội thành, còn bên ngoài thành bị quân Tần hoàn toàn làm chủ, thành Đại Lương rất kiên cố, quân Tần không thể đột nhập vào được. Tình thế giằng co này kéo dài ba tháng. Vương Bôn rất sốt ruột.

Đến mùa hè, trời mưa liên miên, nước sông dâng lên, ngập kín xung quanh thành Đại Lương. Lúc này, Vương Bôn liền nghĩ ngay tới biện pháp trước đây, quân Triệu và Sở từng dùng để đánh bại quân Ngụy, đó là cho nước tràn vào thành dìm chết quân Ngụy. Nghĩ vậy, Vương Bôn bèn ra lệnh cho quân Tần đào chân thành rồi cho nước lũ từ ngoài đê chảy vào nội thành. Tám vạn tướng sĩ quân Tần tay cầm cuốc xẻng, ngày đêm thay phiên nhau đào bới, chỉ mấy ngày là đào được đường hầm xuyên qua chân thành Đại Lương, nước lũ từ sông Hoàng Hà ào ào chảy qua đường hầm, làm ngập nội thành Đại Lương khoảng một trượng (hơn 3m). Mọi người trong nội thành phải trèo lên mái nhà, chẳng thể nấu nướng gì được, ngày đêm kêu trời kêu đất vì đói và rét, thảm hại vô cùng. Ngay cả mười vạn quân bảo vệ thành cũng bó tay chịu chết. Vua Ngụy Vương Giả đành phải mở rộng cổng thành xin hàng quân Nguy. Đến đây, nước Ngụy bị tiêu diệt. Đó là mùa mưa năm hai mươi hai niên hiệu Tần Vương Chính.

Chú thích

[i] Nguyên văn: "Ngu trung ngu hiếu”, tức là trung và hiếu một cách mù quáng. Đó là lễ giáo phong kiến, dùng để bảo vệ ngôi vua, bảo vệ chế độ chuyên chế phong kiến - ND.