← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT ĐƯỜNG THƯ ÁO VẢI, ĐẮC THẮNG VUA TẨN-TƯỚNG SỞ HẠNG YÊN, ĐÁNH BẠI LÝ TÍN----

Quân Tần cho nước lũ làm ngập thành Đại Lương buộc vua Vương Giả của Ngụy phải đầu hàng. Tiếp đó, quân Tần chiếm toàn bộ nước Ngụy. Nước Ngụy diệt vong. Nhưng vẫn còn một miếng đất nho nhỏ của Ngụy chưa bị Tần chiếm. Đó là đất An Lăng (nay thuộc khu vực Tây Bắc huyện Yên Lăng, tỉnh Hà Nam) ở miền Tây Bắc nước Ngụy. An Lăng là một tiểu quốc, vốn là đất phong của Ngụy. Khi nước Ngụy giao chiến với các nước chư hầu, dù là chiến tranh giằng co, luôn luôn tiến thoái và đi qua An Lăng. An Lăng vẫn giữ thái độ trung lập, không tham gia vào cuộc chiến với lý do nước nhỏ yếu. Tướng Vương Bôn của Tần cũng không đánh An Lăng, và để cho nó trở thành một vương quốc độc lập nằm trong lãnh thổ rộng lớn mà nước Tần vừa chinh phục được. Nếu xuất phát từ góc độ mưu lược to lớn của Tần Vương Chính là tiêu diệt sáu nước và dẹp yên toàn thiên hạ, thì đương nhiên không thể cho phép An Lăng tồn tại như vậy. Nhưng nếu dùng vũ lực để chinh phục An Lăng thì quả là “giết gà sao dùng dao mổ bò”, quá đao to búa lớn. Vả lại, Tần Vương Chính cho rằng: các nước Hàn, Triệu, Ngụy, Yên đã bị diệt rồi, ngài đã trở thành vị quân chủ ngồi trên đầu các nước chư hầu, danh tiếng khắp thiên hạ rồi. Nay nếu muốn lấy An Lăng thì chỉ nói một tiếng là vua nước ấy phải đưa hai tay dâng lãnh thổ cho mình thôi mà. Úy Liêu lại có cách nhìn khác. Ông ta nhắc nhở Vương Chính rằng, An Lăng tuy là một tiểu quốc được dùng làm đất phong, nhưng An Lăng Quân (vua An Lăng) lại không phải là một “tiểu nhân vật”. Ông ta chăm lo việc nước, biết giữ kỷ cương, rất được dân chúng yêu mến. Trước đây công tử Vô Kỵ từng ỷ thế mình là em vua An Ly của nước Ngụy để ức hiếp vua An Lăng nhưng ông ta không sợ, cứ dùng lý lẽ để đấu tranh mãi, cuối cùng Vô Kỵ phải xin lỗi ông ta. Cho nên, muốn thắng tiểu quốc này, phải có sách lược, tức là “lấy hư giấu thực”, mới có thể ăn chắc, chứ không thể lấy thế kẻ bề trên để bắt ép hoặc dọa nạt.

Vương Chính nghe theo ý kiến úy Liêu. Ngài sai một sứ giả đến gặp An Lăng Quân, đề nghị ông ta trao đổi đất. Vị sứ giả này nói:

- Vua Tần gửi lời chào ngài, nước Tần chúng tôi bằng lòng đưa năm trăm dặm đất để đổi nước An Lăng của ngài. Chắc là ngài vui vẻ đồng ý chứ?

An Lăng Quân nghĩ thầm: Doanh Chính các người lòng tham vô đáy, dùng vũ lực xâm lược và thôn tính các nước, còn thẳng tay cho nước lũ tràn ngập, để cho dân chúng phải nhịn đói nhịn khát, cuối cùng vua Vương Giả của Ngụy phải xin hàng. Nay cớ sao bỗng trở nên rất nhân từ đến mức đem một vùng đất rộng gấp mười lần để đổi lấy nước An Lăng này? Rõ ràng đây là một trò bịp. Nhưng không thể dùng sức mạnh để đối chọi với ông Vương Chính này được, chỉ có thể dùng lời thật khôn khéo để từ chối. Nghĩ vậy, An Lăng Quân bèn viết cho vua Tần một bức thư bằng lời lẽ rất cung kính ngọt ngào. Thư viết: “Vua Tần bằng lòng đưa một vùng đất rất lớn để đổi lấy nước An Lăng nhỏ bé của tôi, ơn huệ ấy của ngài đối với tôi thật là to lớn, và là một việc quá tốt đẹp. Nhưng mảnh đất An Lăng này là do tổ tiên ngàn đời truyền lại, tôi muốn vĩnh viễn giữ nó lại. Vì vậy không dám trao đổi với ngài”.

Tần Vương Chính xem xong thư, cảm thấy không vui, rất muốn cho quân đi đánh. An Lăng Quân vội cử Đường Thư làm sứ thần sang Hàm Dương xin gặp Vương Chính.

Tần Vương Chính nghe nói An Lăng Quân cử Đường Thư sang, bèn hỏi Lý Tư rằng Đường Thư là ai. Lý Tư phụ trách tư pháp và tình báo, đương nhiên biết rõ con người này, bèn trả lời rằng Đường Thư là lão thần thế hệ thứ ba của nước Ngụy, rất có mưu lược. Lúc nguy nan có thể giúp quân chủ tháo gỡ khó khăn hoặc nêu giải pháp hợp lý. Ví dụ, năm nào Vô Kỵ trộm được “binh phù” để đi cứu nước Triệu, do đó đã đánh bại quân Tần. Vua Triệu thấy Vô Kỵ có công lớn nên đã ra tận ngoại thành để nghênh đón. Vô Kỵ đắc chí tự cao, ngạo mạn. Đường Thư bèn nhắc nhở Vô Kỵ rằng: “Người khác làm ơn cho mình, thì mình phải đời đời ghi nhớ; còn mình làm ơn cho người khác thì phải quên đi. Nay ngài đã giết Tấn Bỉ, cứu được Hàm Đan, đánh bại quân Tần, bảo vệ được nước Triệu. Ơn đức ấy thật là to lớn! Nay vua Triệu ra tận ngoại thành đón ngài, ngài nên gặp ông ta, và mong ngài hãy bỏ quên cái ơn đức mà ngài đã giúp ông ta”. Vô Kỵ nghe lời khuyên ấy bèn không ỷ thế có công để tự cao tự đại nữa. Vì vậy, ông được mọi người kính trọng, rất nhiều người có chí hướng đều theo ông, giúp ông làm nên nghiệp lớn.

Tần Vương Chính nghe Lý Tư nói về Đường Thư như vậy, bèn cảm thấy đây là con người có năng lực, ăn nói được, nhưng dẫu sao thì vẫn là quan lại của một tiểu quốc, làm sao có thể đem tài năng ra thi thố trước mặt Tần Vương Chính này - một đại quân chủ hùng tài đại lược, đã chinh phục các nước chư hầu! Ta nhất định phải lấy cho được mảnh đất An Lăng năm mươi dặm này [i]. Nghĩ vậy, ngài bèn ngồi đàng hoàng vào ghế long kỵ và cho gọi sứ thần vào gặp.

Đường Thư bước tới bậc tam cấp, dáng điệu rất tự tin, vái chào ba vái theo đúng nghi lễ vua tôi. Vương Chính hỏi Đường Thư, giọng rất khinh miệt:

- Quả nhân đem năm trăm dặm để đổi lấy An Lăng, tại sao An Lăng Quân lại không chịu? Vả lại nước đại Tần ta đã tiêu diệt nước Hàn và nước Ngụy, nay để cho cái nước nhỏ xíu các ngươi được may mắn sống sót, đó là vì An Lăng Quân là con người đức cao vọng trọng, nên mới không dùng vũ lực để đánh chiếm. Nhưng nay ta đem một diện tích gấp mười lần lãnh thổ các ngươi, để các ngươi có chỗ rộng hơn, sao lại từ chối? Đó chẳng phải là coi thường ta đó sao?

Đường Thư trả lời nghiêm chỉnh rằng:

- Chúng tôi sao lại coi thường đại vương được. Lãnh địa của An Lăng Quân là cơ nghiệp thừa kế của tổ tiên, nên muốn vĩnh viễn giữ lại, dù chỉ có một dặm cũng không dám đổi, mà đây là năm mươi dặm!

Tần Vương Chính bỗng tức giận nói:

- Nhà ngươi đã từng nghe nói thiên tử tức giận thì sẽ như thế nào chưa?

Đường Thư trả lời:

- Thần nghe nói rồi.

Tần Vương Chính nói:

- Thiên tử tức giận thì cả triệu con người phơi thây máu chảy ngàn dặm.

Đường Thư hỏi lại nhà vua một cách nghiêm túc:

- Thế đại vương có nghe nói người chí sĩ mặc áo vải tức giận thì như thế nào không?

Vương Chính rất khinh thường và nói rằng:

- Chí sĩ áo vải tức giận thì chẳng qua vứt mũ xuống đất, đá văng giày dép rồi đập đầu xuống đất mà thôi.

Đường Thư nói:

- Đó là người tầm thường tức giận, chứ không phải thái độ của một dũng sĩ. Còn nhớ năm nào, khi Chuyên Chư đâm Vương Liêu của nước Ngô, sao chổi bay ngang trời sáng rực. Khi Nhiếp Chính đâm gian tướng Hàn Khôi, thì cầu vồng bắc ngang trời, xuyên qua cả mặt trời. Khi Yêu Ly đâm Khánh Kỵ, có hai con nhặng bay đuổi nhau trên điện. Ba người ấy đều là chí sĩ áo vải. Sự căm phẫn chính đáng tích tụ lâu ngày trong lòng họ chưa bột phát ra ngoài, thì ông trời đã giúp họ báo ứng. Nay tôi là dũng sĩ thứ tư. Khi dũng sĩ nổi giận, thì chỉ có hai xác chết, máu cũng chảy dăm bước, nhưng thiên hạ sẽ mặc áo gai để tang họ. Hôm nay là ngày như thế.

Nói xong, Đường Thư rút kiếm ra và xông lên. Lúc này, Vương Chính rất sợ, vội quỳ xuống và tạ tội Đường Thư. Nhà vua nói:

- Xin tiên sinh ngồi xuống, cần gì phải làm như thế! Nay thì ta đã hiểu rõ, nước Hàn và nước Nguy đã bị tiêu diệt, nhưng tiểu quốc An Lăng chỉ có năm mươi dặm mà vẫn tồn tại, đó là nhờ có những dũng sĩ như ông bảo vệ nó.

Việc ra oai lần này của Tần Vương Chính rốt cuộc chẳng thành công. Sau đó, Vương Chính nói với Lý Tư một cách sợ sệt rằng:

- May mà lúc đó ta không khăng khăng đòi năm mươi dặm đất ấy, nếu không, Đường Thư đã cho ta một nhát kiếm chết rồi. Qua ánh mắt và khí thế của ông ấy cho thấy trí tuệ và đảm lược của ông ta vượt xa Kinh Kha.

Sau khi về nước, Đường Thư thông báo tình hình cho An Lăng Quân, An Lăng Quân hết sức cảm kích. Ông ta nói:

- Khanh là đại ân nhân của đất An Lăng này, ta và thần dân sẽ đời đời ghi nhớ.

Nói xong bèn quỳ xuống cảm ơn Đường Thư. Đường Thư cũng vội vàng quỳ xuống đỡ An Lăng Quân cùng đứng dậy, rồi nói rất chân tình:

- Đó là nhờ có công ơn của liệt tổ tiên vương để lại, nhờ có tên tuổi và đức độ cao đẹp của bệ hạ, nên vua Tần không nỡ dùng vũ lực thôn tính. Còn lão thần chỉ lấy lòng trung thành để bảo vệ đất nước, lấy chính nghĩa để chống bạo tàn; chỉ là cái chí khí của người dũng sĩ, chẳng có gì đáng nhắc đến.

An Lăng Quân xúc động nói:

- Vua Vương Giả của Ngụy có đầy đủ văn võ đại thần, lại có mười vạn quân, vẫn không địch nổi quân viễn chinh của tướng Vương Bôn, đến nỗi bị vây chặt trong thành Đại Lương, rồi nước ngập toàn thành, phải hàng quân Tần, cuối cùng mất nước. Khanh chỉ là dũng sĩ áo vải đơn độc dấn thân đến một đất nước lang sói, dùng ba tấc lưỡi như dao sắc, khí thế áp đảo, cuối cùng vua Tần phải hàng phục. Có bầy tôi như khanh, An Lăng này sẽ vĩnh viễn trường tồn!

Đường Thư thận trọng nhắc nhở An Lăng Quân:

- Thần từng nghe Úy Liêu nói về vua Tần, nay thấy ông ta, quả nhiên mũi con ong, mắt dài, giọng nói như sói sủa, ngực như chim dữ, rất ít nhân đức, chỉ có dã tâm như lang sói. Quyết tâm đánh chiếm thiên hạ của ông ta có lẽ không thể thay đổi!

An Lăng Quân rất buồn, ông nói:

- Như vậy thì giờ đây, An Lăng muốn tồn tại đã rất khó, nếu muốn vĩnh viễn tồn tại, lại càng khó!

Đường Thư cũng than rằng:

- Thần xem xét các nhà vua hiện còn, thì chỉ có vua Tần là có đại chí hào hùng, số còn lại thì “uống nước quên nguồn”, phản động, ly tâm. Xem ra sáu nước chư hầu, vận nước của họ đã hết rồi, khó lòng phục hồi được nữa. Rất mong bệ hạ bảo vệ nơi này, không để sinh linh tan nát. Được vậy là đã làm vui lòng tiên vương, vừa đáng mặt với bách tính. Còn sau này ra sao, thì tùy theo số trời, không nên khiên cưỡng.

An Lăng Quân là người thông minh đức độ, nên rất hiểu ý tứ của Đường Thư. Từ đó, càng chăm lo chính sự, yêu dân như con, được dân hết sức tôn kính. Tần Vương Chính cũng để cho An Lăng được duy trì tự trị, không đến đánh chiếm. Cho đến khi An Lăng Quân chết (An Lăng Quân là em vua Tương Vương của nước Ngụy - ND), Đường Thư nghĩ rằng nếu bây giờ đưa An Lăng hàng phục nhà Tần, thì ông ta (Đường Thư) có thể làm nên những công việc đáng gì đó. Nhưng trước mắt, các quan lại của An Lăng chung quanh ông đang đấu đá lẫn nhau rất quyết liệt, ngay cả Hàn Phi cũng phải ngậm oan mà chết, cho nên mình chẳng dại gì mà phải làm cái vật trên đe dưới búa. Nhưng ngẫm nghĩ lại thì thấy Tần Vương Chính tuy có quý trọng nhân tài, nhưng cũng rất ghét nhân tài. Nếu mình không hàng ông ta, sẽ bất hạnh; chẳng thà giữ vững danh tiết đức hạnh, còn hơn là để Tần Vương giết chết. Nghĩ vậy, Đường Thư đi tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, đến cúng vái khóc than trước bài vị trong lăng miếu nước Ngụy và An Lăng, cũng như trước tổ tiên gia đình mình, sau đó đưa kiếm tự vẫn. Triều đình và dân chúng An Lăng hết sức thương xót Đường Thư, tổ chức quốc tang và để tang ông. Nước Tần tiếp quản An Lăng, không dùng đến vũ lực. Mọi người đều nhớ đến công lao to lớn và ơn đức cao đẹp của An Lăng Quân và Đường Thư. Sau khi nghe nói Đường Thư đã tự vẫn một cách hiên ngang đầy khí phách, Tần Vương Chính than rằng: “Ba quân có thể bắt được chủ soái, nhưng kẻ thất phu thì không thể bị đánh gục ý chí. Đúng vậy thay!”

Nước Ngụy đã bị tiêu diệt, mũi nhọn của quân Tần đương nhiên là chĩa vào nước Sở. Trước khi đi đánh dẹp quân nổi loạn ở Tân Trịnh, Vương Bôn từng đưa quân đi càn quét ở vùng biên giới nước Sở, cốt để thăm dò tình hình của Sở. Lúc đó, lực lượng của Sở ở vùng biên giới rất thiếu, lại thiếu cả tướng lĩnh có năng lực để bảo vệ lãnh thổ. Cho nên, bị quân Tần liên tục đánh chiếm mười thành. Sau đó, đại tướng Hạng Yên của Sở đưa quân đến chặn đánh quân Tần, mới tạm ổn định. Vương Bôn đành phải đưa quân về và đánh dẹp nổi loạn ở Tân Trịnh. Sau đó, chuyển sang chiến trường miền Đông và năm sau đó bao vây và cho nước làm ngập Đại Lương của Ngụy. Bây giờ lại khai chiến với Sở, nhiệm vụ chủ công do Lý Tín và Mông Quát đảm nhiệm. Mùa đông năm hai mươi mốt niên hiệu Tần Vương Chính, Doanh Chính họp quần thần để bàn kế hoạch đánh Sở. Ngài nói:

- Vụ nổi loạn ở Tân Trịnh đã dẹp xong, nước Ngụy sắp diệt vong. Nay đến lượt nước Sở. Nhưng không biết cần bao nhiêu tướng sĩ để đánh thắng nước này?

- Nước Sở tuy đất rộng người đông, nhưng chỉ có tiếng, không có thực lực. Lần trước tướng quân Vương Bôn chỉ thử qua gươm giáo mà đã chiếm được mười thành dễ như không. Nay tướng sĩ ta đồng tâm hiệp lực, ra sức tấn công, chỉ cần hai mươi vạn là đủ. - Lý Tín vội đứng lên nói trước.

Năm kia, khi quân Tần đánh diệt nước Yên, Lý Tín chỉ mới là đô úy. Trải qua trận kịch chiến ở Dịch Thủy, đánh chiếm Kế Thành, rồi bao vây Liêu Đông, lại lấy được thủ cấp của thái tử Đan, Lý Tín lập được nhiều chiến công lớn, nên nay đã thăng cấp tướng quân. Vì vậy không khỏi có chút đắc chí tự mãn.

- Đánh chiếm các nước nhỏ như Hàn, Yên, mà phải đưa tới trên hai mươi vạn quân. Nay đưa hai mươi vạn đánh Sở là một nước lớn, có hơi ít không? - Tần Vương Chính có phần nào hơi do dự.

Không để người khác nói, Lý Tín ra vẻ thông thạo nói rằng:

- Vua Phụ Sô của nước Sở không biết dùng binh, cũng không dám dùng tướng, đến nỗi vua tôi chia rẽ nhau, lòng quân dao động, không có tướng soái nào muốn đứng ra giúp vua cứu nước, làm sao chống chọi nổi cái thế bẻ cành khô đẽo gỗ mục của quân ta. Cho nên chỉ cần hai mươi vạn là quá đủ!

Tần Vương Chính muốn cho chắc chắn hơn, bèn hỏi Vương Tiễn:

- Lão tướng quân thấy như thế nào?

- Nước Sở tuy đã căng ra như dây cung hết cỡ rồi, nhưng kẻ làm tướng của họ vẫn còn lo nghĩ đến đất nước, người chí sĩ vẫn mưu tính việc mất còn của đất nước. Một khi chúng ta vào lãnh thổ của họ, muôn dân nước họ sẽ vùng dậy nhất tề chống địch. Cho nên lão thần cho rằng muốn đánh dẹp nước Sở phải có đủ sáu mươi vạn quân! - Vương Tiễn trịnh trọng phát biểu ý kiến.

Tần Vương Chính vẫn có tư tưởng coi thường kẻ mạnh, rất ghét ai nói đến những thế mạnh của nước khác. Vì vậy, ngài nói nhẹ nhàng với Vương Tiễn:

- Con số mà tướng quân nêu lên, sao lại nhiều thế? Phải chăng là do sợ nước Sở?

Vương Tiễn nói nghiêm túc:

- Lão thần chinh chiến đã hơn năm mươi năm, vào sinh ra tử, đánh trận nhiều lần, bài học cũng nhiều không sao kể hết Xét tổng thể các mặt thắng bại được thua, muốn đánh một nước lớn như Sở, nếu không có đủ sáu mươi vạn thì khó đánh thắng.

Tần Vương Chính thấy Vương Tiễn cứ khăng khăng giữ ý kiến của mình, bèn nói chế giễu, làm cụt hứng vị lão tướng:

- Mặc dù Liêm Pha vẫn ăn rất khỏe, nhưng chí khí thì không còn nữa, chả trách mà ông ta sợ địch!

Vương Tiễn nghe vậy cảm thấy mủi lòng, không thể chấp nhận được. Ông muốn nói vài lời để biện minh cho mình, nhưng nhà vua đã vội khoát tay nói rằng:

- Cầm quân phải cổ vũ tinh thần dũng cảm để tiến lên, cần gì phải có số lượng nhiều mới dám đánh! Ý của ta đã quyết không nhiều lời nữa!

Tiếp đó, ngài nói đồng ý với đề nghị của Lý Tín, huy động hai mươi vạn quân, Lý Tín làm tướng quân, Mông Quát làm phó, lựa toàn lính tinh nhuệ, tinh thần rất cao, hùng dũng hành quân sang đất Sở.

Vương Tiễn nghĩ rằng tại hội nghị triều đình, mình nói rất trung thực, vậy mà nhà vua không hiểu lại còn bác bỏ. Hơn nữa, còn chế giễu ông, ví ông với lão tướng Liêm Pha của Triệu năm nào, tuy mỗi bữa có thể ăn mười cân gạo mười cân thịt, nhưng lại phải đi đại tiện ba lần, rõ ràng là vô dụng rồi. Từ đó, ông nghĩ rằng hồi ấy Liêm Pha không được vua Triệu là Điệu Tương Vương sử dụng, đành phải chạy sang nước Ngụy, sống tuổi già ở nơi tha hương. Còn Tần Vương Chính mà mình đang phụng sự hiện nay là vị vua rất có triển vọng, không có việc gì vẻ vang hơn là giúp Tần Vương Chính lập công lập nghiệp. Nhưng chỉ nói một câu không vừa ý, là nói người ta sợ địch, sợ đánh nhau. Nói vậy thật là sỉ nhục một lão tướng từng có nhiều chiến công hiển hách, làm sao chịu nổi? Suy đi tính lại, ông thấy nhà vua không còn mặn mà với mình như xưa, thôi thì việc gì mà phải lưu luyến chỗ này nữa. Nghĩ đến đây, ông bỗng thấy lòng mình rất thanh thản, bèn cầm bút viết một bức thư cho nhà vua xin cáo lão về quê. Vua Tần là một người đa nghi, xem xong thư của Vương Tiễn vẫn không vội chấp thuận ngay, mà còn cho gọi ông vào cung, tỏ vẻ ân cần muốn lưu ông ở lại, và hỏi có phải ông giận vì hai người bất đồng ý kiến hôm trước mà ra đi. Vương Tiễn hơi giật mình, cảm thấy quả đúng là “làm bạn với vua như chơi với hổ”, con người này thật là rất khó chung sống. Ông thận trọng nói rõ tâm tư của mình, cốt chứng tỏ rằng mình không hề bất bình với nhà vua, mà quả thật là tuổi già lắm bệnh, không thể cầm quân đánh trận được nữa, nên xin giải giáp về vườn, tìm nơi lá rụng về cội, an dưỡng tuổi già. Lúc này nhà vua mới hết nghi kỵ, chấp nhận cho ông ta về nghỉ ở quê nhà Tần Dương. Trước khi ông ra về, nhà vua còn mở tiệc ở nội cung để tiễn chân. Vua tôi liên tục nâng cốc chúc tụng, cầu yên cầu phúc, cùng mong cho cuộc chinh phục nước Sở được thắng lợi. Để biểu dương công lao to lớn của lão tướng, nhà vua thưởng cho ông một nghìn dật vàng, mười hòm châu báu. Vương Tiễn hết sức cảm ơn hậu đãi của nhà vua, rồi ngâm bài từ sau đây với giọng rắn rỏi chân thực (dịch ý):

Tòng quân từ tuổi trái đào,

Tập tành thao luyện binh đao tháng ngày.

Lớn lên đi khắp đó đây,

Dọc ngang chiến trận, tên bay tung trời.

Tuổi già tóc đã điểm sương,

Mình đầy thương tích, thôi, nhường việc quân.

Cảm ơn thánh thượng anh minh,

Từ nay tiễn biệt, “quốc tình” không quên.

Khi ngâm đến hai câu cuối cùng, lão tướng quân bất giác rơi hai hàng nước mắt, nghẹn ngào không ngâm thành tiếng. Nhà vua cũng xúc động rớm lệ.

Ngày hôm sau, Tần Vương Chính dẫn đầu một đám triều thần tiễn chân Vương Tiễn. Ngài và Vương Tiễn ngồi cùng một xe, dọc đường cầm tay nhau chuyện trò thân tình vui vẻ, mãi đến khi cách cửa đông Hàm Dương mười dặm mới dừng bước. Vương Tiễn xuống xe một lần nữa bái chào nhà vua, rồi lên xe song mã có mui uốn lượn của mình, từ từ đi về quê hương Tần Dương ở miền Đông nước Tần.

Tần Vương Chính trở về cung Hàm Dương, cảm thấy không vui vì thiếu vắng một lão tướng đã phụng sự triều đình lâu năm, mãi mấy hôm sau ngài mới bình tâm lại. Ngài nghĩ lại cuộc họp triều chính hôm nọ, không hiểu tại sao cách đánh giá của tướng trẻ Lý Tín và của lão tướng Vương Tiễn lại cách xa nhau đến thế? Ngài cho rằng đó là do hai người nhìn nhận khác nhau về tầng lớp thống trị hiện nay của nước Sở và về thực lực quân sự của họ. Lý Tín thì cho rằng vua Phụ Sô của Sở bất tài bất lực, không biết trị quốc cầm quân, chỉ giáng một đòn là xong ngay. Còn Vương Tiễn thì cho rằng nước Sở còn có các tướng lĩnh và chí sĩ quan tâm đến vận mệnh đất nước, muốn ra sức bảo vệ giang sơn của mình, vì vậy không nên khinh địch. Xét cho cùng thì đó là do mỗi người cố chấp ý kiến của mình, hay đó chính là sự phản ánh khách quan mặt chính diện và mặt phản diện của sự vật? Tần Vương Chính vừa qua cái tuổi “tam thập nhi lập”, chưa hiểu rõ lắm lịch sử phát triển và tình hình gần đây của nước khác; thường có thái độ lảng tránh đối với một số sự kiện quan trọng và nhân vật quan trọng nào đó. Điều này cũng cản trở ngài trong việc nhận thức và hiểu biết các nước khác và những người lãnh đạo của họ, như đối với nước Sở chẳng hạn, do đó, không thể đưa ra những phán đoán chính xác.

Lúc bấy giờ, Phụ Sô sở dĩ được lên làm vua nước Sở là do bối cảnh và điều kiện lịch sử đặc biệt. Đó là khoảng ba mươi năm trước, vua Khảo Liệt Vương nước Sở, người đã cử “Xuân Thân Quân” Hoàng Yết đưa quân đánh quân Tần để giải vây cho thành Hàm Đan - bị bệnh không sinh con, ngài bèn tuyển rất nhiều phụ nữ mắn đẻ, nhưng vẫn không thể sinh con cho ngài. Lúc ấy có một người nước Triệu, gọi là Lý Viên, muốn đưa em gái mình là Lý Đệ hiến cho Khảo Liệt Vương. Nhưng sau khi nghe tin Khảo Liệt Vương bị bệnh không thể sinh con, nên sợ rằng em gái mình về đó, mãi không sinh con, thì sẽ bị thất sủng. Do đó, không gả em gái về đó nữa. Nhưng Lý Viên nghe nói thừa tướng của nước Sở là Hoàng Yết (Xuân Thân Quân) rất đam mê hiếu sắc, bèn đến nhà Hoàng Yết xin làm môn khách. Dần dần, Lý Viên được Hoàng Yết rất tin tưởng. Một hôm, Hoàng Yết có việc cần, gọi Lý Viên đến gấp, nhưng Lý Viên cố tình đến chậm. Hoàng Yết rất bực, hỏi Lý Viên tại sao đến chậm. Lý Viên nói rằng có một sứ thần nước Tề đến xin cầu thân với em gái mình, phải ngồi nhậu nhẹt để nói chuyện với ông khách đi hỏi vợ đó quá lâu nên đến chậm. Hoàng Yết vội hỏi rằng chuyện gả bán đó đã xong chưa, Lý Viên nói chưa xong. Hoàng Yết bèn bảo Lý Viên đưa em gái đến cho ông ta xem mặt. Lý Viên đã đem em gái mình cho Hoàng Yết. Khi Lý Đệ có thai, hai anh em Lý Viên và Lý Đệ bàn với nhau, để Lý Đệ nhân cơ hội nào đó, nói với Hoàng Yết rằng: “Vua Khảo Liệt Vương rất quý trọng ngài (Hoàng Yết), quan hệ giữa ngài và nhà vua thân mật như anh em ruột. Ngài làm thừa tướng nước Sở đã hơn hai mươi năm rồi, nhưng nhà vua vẫn chưa có con, ông ta sẽ lập anh em của mình làm vua. Nhà vua mới sẽ ban phát vinh hoa phú quý cho người cũ và thân thích của mình. Lúc ấy, liệu ngài còn được tin dùng lâu dài nữa không? Như vậy công sức của ngài trong bao nhiêu năm hóa ra uổng phí hết. Ngài đã làm thừa tướng lâu năm, nhưng quan hệ của ngài với anh em của Khảo Liệt Vương không tốt, có nhiều điều thất lễ. Nếu anh em của nhà vua lên ngôi, thì ngài sẽ nguy, làm sao có thể giữ được cái ghế thừa tướng của ngài? Đất phong hai mươi mấy huyện của ngài ở Giang Đông, chẳng phải là mất toi không? Nay thiếp đã có thai, nhưng chưa ai biết. Thiếp lấy ngài chưa được bao lâu, nếu ngài đem thiếp hiến cho vua Khảo Liệt Vương, nhà vua nhất định sẽ chiều chuộng thiếp. Nếu ông trời phù hộ thiếp sinh con trai, vậy thì nhà vua sau này sẽ là giọt máu của ngài, cha con ngài sẽ chiếm được toàn bộ nước Sở này, chẳng phải là sung sướng hơn rất nhiều so với tình trạng không rõ ràng, tương lai họa hay phúc hiện nay đó sao?”. Hoàng Yết tán thành ý kiến của Lý Đệ và đem hiến nàng cho vua. Nhà vua cho Lý Đệ vào cung, coi là phi. Không lâu sau, Lý Đệ sinh con trai, được lập làm thái tử. Lý Đệ được phong làm hoàng hậu. Cũng vì vậy, nhà vua trọng dụng Lý Viên. Lý Viên dựa có em gái làm hoàng hậu, nên nắm lấy các quyền lực quan trọng trong triều, làm bộ làm tịch, thế lực rất lớn.

Thực ra Lý Viên hiểu rất rõ câu chuyện em gái ông ta được lập làm hoàng hậu và con trai được lập làm thái tử. Vì vậy, rất sợ Hoàng Yết biết và tiết lộ, rồi lấy cái thế “cha của thái tử” để bắt ép ông ta (Lý Viên). Từ đó, Lý Viên ngấm ngầm tập hợp một số người ủng hộ mình và tìm cách giết Hoàng Yết để bịt đầu mối. Nhưng có người biết được mưu đồ này của Lý Viên. Tức là năm thứ hai mươi nhăm sau khi Hoàng Yết làm thừa tướng, Khảo Liệt Vương bị bệnh nặng; một môn khách tên là Chu Anh nói với Hoàng Yết rằng:

- Trên đời này có cái phúc đến bất ngờ, cũng có cái họa đến bất ngờ. Nay ngài đang ở trong cái bất ngờ đó, ngài đang phụng sự một nhà vua “bất ngờ đến”, vậy sẽ có con người “bất ngờ đến”!

Hoàng Yết nghe nói vậy, cảm thấy quái lạ, chẳng hiểu ra sao cả, vội hỏi:

- Phúc đến bất ngờ là như thế nào?

Chu Anh nói:

- Ngài làm thừa tướng hơn hai mươi năm ở nước Sở, danh nghĩa là thừa tướng, thực tế là vua Sở. Nay vua Sở bệnh nặng sắp chết, ngài phò tá nhà vua mới còn nhỏ; có nghĩa là ngài thay mặt nhà vua nắm mọi quyền hành, giống như Y Doãn giúp vua Thành Thang, Chu Công giúp Vũ Vương. Đến khi vua mới lớn lên, mới trao quyền lại cho ông ta. Đó chẳng phải như xưng vương và nắm trong tay nước Sở đó sao? Đó là cái phúc đến bất ngờ đấy!

Hoàng Yết lại hỏi:

- Vậy cái họa đến bất ngờ là sao?

Chu Anh nói:

- Lý Viên không có quyền trị quốc, nên ngài là tử thù của ông ta. Ông ta không quản việc quân sự, nhưng lại nuôi trong nhà rất nhiều môn đồ sẵn sàng phụng sự ông ta. Việc này đã lâu rồi. Đến khi vua Sở chết, Lý Viên nhất định sẽ cướp lấy chính quyền và giết ngài để bịt đầu mối. Đó là họa đến bất ngờ.

Hoàng Yết lại hỏi:

- Người đến bất ngờ là ai?

Chu Anh nói:

- Ngài xếp tôi vào làm trong phủ “lang trung”, khi vua Sở chết, Lý Viên nhất định sẽ đến đó trước tiên, tôi sẽ giúp ngài giết quách ông ta. Đó là người đến bất ngờ.

Hoàng Yết nghĩ bụng, sự việc không thể như thế. Bèn nói với Chu Anh:

- Ông không nên nói vậy. Lý Viên là một người không có năng lực, không có tài cán gì, tôi xưa nay đối xử với ông ta rất tốt, sao ông ta lại dám giết tôi?

Chu Anh biết là Hoàng Yết không tin mình, nhưng nếu để cho người khác biết việc này, thì bản thân mình sẽ gặp tai họa. Vì vậy, ông ta trốn sang nước khác, để bảo toàn tính mạng. Mười bảy hôm sau khi Chu Anh bỏ trốn, vua Khảo Liệt Vương trút hơi thở cuối cùng. Lý Viên là người đầu tiên đi vào cung, sai tay chân mà mình nuôi dưỡng lâu nay, mai phục tại các cửa trong cung. Hoàng Yết nghe tin vua chết, vội vào cung, khi đi qua cửa thì bị người của Lý Viên giết chết, đầu của ông bị vứt ra ngoài cửa. Lý Viên còn sai võ sĩ vào lục soát trong phủ của Hoàng Yết, giết tất cả hơn năm nghìn người gồm gia quyến, môn khách, người làm, ca kỹ, đầy tớ, bất chấp nam nữ trẻ già; chỉ còn không đầy một trăm người còn sống sót do liều chết chống lại. Họ đều là võ sĩ, hiệp khách của Xuân Thân Quân (Hoàng Yết). Thảm cảnh của phủ Hoàng Yết thật không thế tưởng tượng nổi.

Điều phải suy ngẫm là thừa tướng Hoàng Yết đem người thiếp đã có thai của mình hiến cho vua Sở, để sau đó cướp đoạt ngôi vua, việc này rất giống với Lã Bất Vi ở nước Tần. Nhưng một trọng thần đã làm thừa tướng hai mươi nhăm năm như Xuân Thân Quân, lại bị giết hại bởi một tiểu thị dân vô lại như Lý Viên, thì bi kịch hơn cả Lã Bất Vi. Khi Hoàng Yết bị giết ở cửa cung và cả nhà bị giết, thì ở nước Tần cũng đang diễn ra việc bình dẹp cuộc nổi loạn của Lao Ái ở cung Kỳ Niên, và Lao Ái bị phanh thây, Lã Bất Vi bị bãi chức, tức là năm thứ chín niên hiệu Tần Vương Chính. Hai sự việc ở hai nước khớp nhau làm sao! Hơn nữa, những mưu mô ấy đều được thực hiện bằng cách hiến người phụ nữ đã mang thai. Điều này cho thấy cuộc sống xa xỉ hoang dâm, đồi bại bỉ ổi trong các cung đình và vương triều các nước chư hầu nghiêm trọng đến chừng mực nào.

Tài năng xuất chúng của Tần Vương Chính là ở chỗ ông ta có thể dựa vào sự quyết đoán cương nghị, khí khái siêu nhân và đảm lược phi thường của mình để dẹp yên phản loạn, lấy lại kỷ cương phép nước, bảo vệ ổn định của xã tắc. Còn nước Sở, tuy cũng có tình hình tương tự, nhưng kết cục lại trái ngược. Sau khi vua Khảo Liệt Vương chết, con của Lý Đệ là Hùng Hãn nối ngôi vua, gọi là Sở U Vương. U Vương ở ngôi được mười năm rồi bị bệnh chết đột ngột. Lý Đệ lại đưa con thứ hai của mình là Hùng Do lên nối ngôi, lấy tên là Ai Vương. Ai Vương chỉ ở ngôi được hai tháng thì bị lật đổ bởi Phụ Sô, con cả của Khảo Liệt Vương, nhưng khác mẹ với U Vương và Ai Vương. Lúc ấy, Phụ Sô nhờ có đại tướng quân Hạng Yên (“thượng trụ quốc”) giúp sức nên lật đổ được mẹ con Ai Vương. Ai Vương và mẹ là Lý Đệ bị giết. Trước khi bị xử tử, Lý Đệ còn bị các tướng sĩ của Hạng Yên thay phiên nhau đấm đạp, giày vò. Toàn bộ số người trong nhà của Lý Viên, gồm gia tộc, gia quyến, môn khách, người làm... tất cả hơn hai vạn người, bị giết hết. Đó là năm hai mươi niên hiệu Tần Vương Chính, cũng tức là năm mà Kinh Kha đâm hụt vua Tần. Trước đó, Tần Vương Chính đã thân chinh đốc chiến và tiêu diệt nước Hàn, nước Triệu, sau đó về Hàm Dương làm tang cho thái hậu Triệu Cơ. Tiếp đó là bị Kinh Kha suýt nữa hành thích, rất khiếp sợ và bị kích động rất mạnh, trở thành trái tính trái nết.

Khi Úy Liêu và Lý Tư bẩm báo cho Tần Vương Chính tất cả tình hình đồi bại và rối loạn trong cung đình nước Sở, ngài lại nhạy cảm liên tưởng đến thái hậu Triệu Cơ, Lã Bất Vi và Lao Ái của nước Tần, ngài nghi ngờ rằng hai người này (Úy Liêu và Lý Tư) cố tình nói cạnh nói khóe để châm chọc mình. Vì vậy ngài lảng tránh, không muốn nghe nhiều những chuyện của tầng lớp thống trị nước Sở nữa. Lúc này, tư tưởng tốc chiến tốc thắng và khinh địch đang ngư trị trong đầu óc ngài - do thắng lợi quân sự to lớn và liên tục, vì vậy, ngài chấp nhận ý kiến của Lý Tư, chỉ huy động hai mươi vạn binh mã tiêu diệt nước Sở. Nhưng sự thật lại ngược lại, kết quả trái với ý muốn ban đầu.

Lý Tín và Mông Quát đưa hai mươi vạn quân, chia làm hai cánh. Cánh thứ nhất do Lý Tín chỉ huy, đánh Bình Dư. Cánh thứ hai do Mông Quát chỉ huy, đánh Tẩm Thành. Chiến sự diễn ra rất thuận lợi. Sau khi đánh chiếm được Bình Dư, Lý Tín thừa thắng tiếp tục đánh chiếm Dĩnh Thành và Ngạc Thành, khí thế rất mạnh. Vì vậy, Lý Tín sinh ra kiêu ngạo. Ông ta sai kỵ binh hỏa tốc thông báo cho Mông Quát tăng cường tấn công, cố gắng giữ được tiến độ như ông ta, để hình thành thế hai gọng kìm, đánh cả phía trước phía sau và đến gặp nhau tại Thành Phụ, sau đó hợp lực cùng tấn công Thọ Xuân (nay thuộc khu vực Tây Nam huyện Thọ, tỉnh An Huy), kinh đô của Sở. Mặt khác, Lý Tín nhồi nhét tư tưởng tốc chiến tốc thắng cho tướng sĩ của mình. Ông ta nói rằng năm ngoái, việc đánh chiếm nước Yên, tấn công Kế Thành, vượt qua sông Diễn Thủy, rồi lấy thủ cấp của thái tử Đan, đều là nhờ liên tục tác chiến, đánh liền một mạch không nghỉ, vì nếu chỉ nghỉ một lúc thôi, cũng tạo cơ hội cho kẻ địch kịp thở, và như vậy sẽ không có thành quả thần tốc và huy hoàng như thế.

Có một vị đô úy nhắc nhở Lý Tín:

- Nước Yên nhỏ yếu, vua Yên nhu nhược, lại bất hòa với thái tử Đan, nội tình lục đục, nên chúng ta mới thắng dễ dàng thế. Nay nước Sở mới có vua mới là Phụ Sô, đang có nhuệ khí. Vả lại tướng quân Hạng Yên là thượng trụ quốc của Sở, lại là một hổ tướng... Những điều này, nước Yên không thể sánh kịp, mong tướng quân chú ý.

Lý Tín ngẩng đầu lên trời cười ha hả rồi chế nhạo viên đô úy ấy rằng:

- Ông đi theo cờ chỉ huy của tôi, đánh mấy trận thắng mới lên được cái chức đô úy, tại sao lại không có cái nhuệ khí như ta đây, mà lại cứ lo ngay ngáy như lão già Vương Tiễn? Chắc là sợ địch mạnh, ngại đánh nhau lắm rồi à? Ông không nhìn thấy quân ta kể từ khi vào Sở đến nay liên tục tác chiến và liên tục đánh thắng hay sao?

Một tràng dài những lời chỉ trích gay gắt của cấp trên làm cho viên đô úy cũng tối sầm mặt mũi, rồi cũng phải lên tiếng tự trách mình và tự nguyện xung phong đi trước hàng quân để thể hiện quyết tâm “làm gương cho binh sĩ”. Tướng sĩ của Lý Tín đều thấm nhuần tư tưởng hiếu chiến hiếu thắng của chủ tướng, nên ai cũng tranh lên hàng đầu, cấp tốc hành quân theo hướng Thành Phụ.

Khi tin quân Tần tấn công cấp báo về Thọ Xuân, và Phụ Sô lập tức gọi tướng Hạng Yên vào cung bàn đối sách. Phụ Sô nói với Hạng Yên:

- Năm ngoái Vương Bôn đưa quân Tần quấy phá vùng biên giới phía Đông nước ta, may nhờ thượng trụ quốc đưa quân đánh chặn mới bảo vệ được lãnh thổ và giữ yên được xã tắc. Nay bọn bạo tàn nước Tần lại đến, ta phải đánh cho chúng thật nặng, để chúng không dám đánh chiếm dù một tấc đất của nước Sở này. Nếu không, bọn chúng lòng tham vô đáy, được đằng chân lân đằng đầu, rất khó đối phó!

- Đại vương nói rất phải, quân Tần tuy dũng cảm gan dạ, nhưng chúng ta cũng không thể tỏ ra yếu đuối. Huống hồ nay chúng ta có mười vạn quân đội, lại tác chiến trên đất của mình, tướng sĩ toàn quân đồng tâm nhất trí, nhất định có thể đánh thắng quân Tần. Chủ trương của bệ hạ là thượng sách! - Hạng Yên tán thành ý kiến,của vua Phụ Sô, tích cực chủ trương đưa quân Sở ra ứng chiến quân Tần.

- Vậy thì rất tốt, khanh thống lĩnh hai mươi vạn đón đánh Lý Tín. Ta đưa hai mươi vạn chặn đánh Mông Quát. Bất chấp bọn chúng đến tấn công chúng ta trong thế thắng, nhưng nhất định chúng phải thua chạy rút về! - Vua Phụ Sô lập tức quyết đoán.

- Đại vương là vua cả nước, nên ngồi ở triều đường để chờ tin chiến thắng, không nên ngư giá thân chinh, vì việc giết giặc ở chốn sa trường đã có thần lo liệu.

Hạng Yên biết rõ nhà vua Phụ Sô võ nghệ cũng bình thường, làm sao có thể đối phó được cuộc chiến quyết liệt và quy mô lớn như thế này. Nhưng Phụ Sô rất tự tin, ông ta nói:

- Tiên vương Khảo Liệt và thừa tướng Hoàng Yết đã nhiều lần giữ chức đứng đầu lực lượng hợp tung, thống soái các nước chư hầu đánh nước Tần. Nay ta mới lên nối ngôi, đương nhiên cần phải nêu cao uy lực của tiên vương, đánh bại quân Tần, làm cho nhà Tần hiểu rằng nước Sở của ta ngày nay vẫn không thua kém nước Sở năm xưa, để chúng không dám dòm ngó nước ta nữa. Cuộc kháng chiến chống Tần lần này giành được thắng lợi, sẽ làm nức lòng cả nước, ngôi báu của ta sẽ vững vàng như núi Thái Sơn.

- Bệ hạ đã có chí lớn như vậy, hạ thần đương nhiên phải phụng mệnh.

Hạng Yên thấy nhà vua rất tự tin, nên không muốn làm phật ý ngài nữa. Để bảo vệ an toàn cho nhà vua, Hạng Yên cho một viên phó tướng đi theo hộ giá. Hạng Yên cẩn thận nhắc viên phó tướng ấy rằng:

- Này tướng Cảnh Kỳ, lần này ông ra ứng chiến quân Tần, nếu thắng thì tùy ông tiếp tục hành động. Nếu không thắng, thì không nên tham công tiếc việc, mà phải hết sức bảo vệ thánh thượng trở về bình an, đó coi như tướng quân đã lập công lớn rồi!

Tướng Cảnh Kỳ cứ vâng dạ liên tục. Tiếp đó, điểm đủ quân số mười hai vạn binh mã, rồi cùng vua Sở Phụ Sô đi về thành Thọ Xuân nghênh chiến quân Tần.

Nhà vua Phụ Sô cưỡi ngựa tiến nhanh lên phía trước trong hàng rào hộ vệ bởi hơn mười viên tướng của Cảnh Kỳ. Ngài nhìn quanh mình, thấy có nhiều tướng sĩ bảo vệ mình; trước và sau chân ngựa của mình, lính bộ binh chạy theo tốc độ của ngựa. Ngài nghĩ rằng đi đánh nhau với thế trận như thế này quả là quá an toàn. Ngài bất giác cười “thượng trụ quốc” Hạng Yên quá cẩn thận, tại sao lại cứ không yên tâm về việc mình thân chinh ra trận cơ chứ? Vậy thì lần này ta nhất định đánh thắng cho ông ấy biết tay, để chứng tỏ rằng ta thay Ai Vương lên ngôi là rất xứng đáng! Đang nghĩ vậy thì bỗng có lệnh ở trên truyền xuống nói phải dừng bước. Khi ngựa bị dây cương kéo lại và dừng ở giữa, và thấy cờ trận đang phất phới bay. Té ra đó là phía trước thấy quân Tần đang đến gần và phó tướng Cảnh Kỳ ra lệnh tất cả sẵn sàng nghênh chiến quân địch.

Quân Tần ở phía trước do Mông Quát chỉ huy. Khi được Lý Tín thông báo, đội quân của Mông Quát cũng tăng tốc hành quân, cố gắng đến Thành Phụ thật sớm để gặp quân Lý Tín ở đó; không ngờ lại gặp quân Sở ở trên con đường phía Bắc huyện Cố Thủy này. Mông Quát ra lệnh cho quân lính dừng lại, vừa quan sát đối phương, thấy lá cờ chiến lớn nhất trong hàng cờ quân Sở có hai chữ “Sở Vương”. Mông Quát liền nghĩ: Chủ tướng Lý Tín yêu cầu ta tấn công hướng này, lại vừa vặn gặp vua Sở, thật là đang buồn ngủ lại có gối kê, vận của mình đang may. Nghĩ vậy, Mông Quát ra lệnh cho tướng sĩ phải xông lên ngay khi quân Sở chưa kịp ổn định, bắt sống vua Sở Phụ Sô. Trống trận quân Tần nổi lên, nhuệ khí rất cao, sát khí đằng đằng, cả bộ binh, kỵ binh và chiến xa đều ùn ùn xông lên như trào dâng thác đổ.

Lúc bình thường, võ nghệ của Phụ Sô chỉ là đi săn bắn, nhắm trúng mấy con chim diều hâu hay con thỏ, thì còn được. Năm ngoái, khi ông ta cùng với tướng Hạng Yên dựa vào lực lượng đa số tuyệt đối, lật đổ Ai Vương, em cùng cha khác mẹ, cướp được ngôi vị, ông ta cứ tưởng là võ nghệ của mình cao cường lắm. Nhưng nay gặp dũng tướng Mông Quát của quân Tần, trước khí thế dũng mãnh của đối phương, Phụ Sô bỗng nhiên sợ hãi, không dám giục quân nghênh chiến, chỉ chống đỡ miễn cưỡng. Phó tướng Cảnh Kỳ ở bên cạnh, cố bảo vệ nhà vua, nên cũng không dám xông lên phía trước, nên không thể triển khai thế trận phân công có hiệu lực. Chẳng bao lâu sau, quân Tần phá được thế trận của quân Sở, quân Sở tản ra hai bên, quân Tần thọc sâu vào đội ngũ quân Sở, tranh nhau xông đến bắt vua Sở. Phụ Sô sợ khiếp vía, quay ngựa chạy dài. Cảnh Kỳ và các tướng khác vừa bảo vệ Phụ Sô, vừa chống đỡ vừa rút lui. Mông Quát đang trong thế thắng nên không thể buông tha, thúc ngựa và ba quân đuổi theo thật nhanh. Rất may là quân Sở có hai mươi vạn quân, cho nên, mặc dù tinh thần sa sút không cố gắng tác chiến, nhưng vì đông người, nên rốt cuộc cũng xông xáo bên này bên kia và ngăn cản được cuộc tấn công của quân Tần. Mông Quát rất sốt ruột, vội ra lệnh đốt lửa bắn tên (hỏa tiễn), xe lương thực của quân Sở lập tức bốc cháy, khói lửa mịt mù cả một góc trời. Quân Sở bị lửa đốt nóng nên chạy tán loạn, tan rã. Phụ Sô quá khiếp sợ nên từ lưng ngựa rơi xuống đất, may mà Cảnh kỳ đến cứu được, ông ta giành lấy một cỗ xe ngựa đưa nhà vua đang kinh hồn bạt vía chạy nhanh về Thọ Xuân. Trận này, quân Sở thương vong hơn mười ba vạn, quân Tần chỉ mất một vài vạn. Quân Mông Quát chỉ nghỉ ngơi ít lâu rồi hành quân đến Thành Phụ để gặp quân của chủ tướng Lý Tín ở đó.

Sau khi đánh chiếm được Yên Thành và Dĩnh Thành, quân Lý Tín lại đánh chiếm được sáu thành nhỏ (thành đất, thổ thành) khác của Sở. Quân Sở cứ tháo chạy như vịt, khiến Lý Tín lúc nào cũng mặt mày hớn hở, luôn luôn cười đắc thắng. Ông ta để lại ba vạn binh mã để bảo vệ các thành đã chiếm được đưa bảy vạn tinh binh tiếp tục hành quân. Hôm ấy bỗng có tin cấp báo rằng “thượng trụ quốc” của Sở là Hạng Yên dẫn hai mươi vạn quân đang chờ nghênh chiến ở cách đó năm mươi dặm. Lý Tín vội ra lệnh đóng quân và theo dõi chặt chẽ mọi động tĩnh. Sau khi đóng quân, lại có tin cấp báo: hai vạn tiền quân của quân Sở đang xông tới, còn “hậu quân” của họ thì vẫn không có động tĩnh gì. Lý Tín cười lớn, nói với Mông Nghị rằng: “Chỉ có “tiền quân” mà không có “hậu quân” theo sau, thì đó chỉ là lên thăm dò thực lực của ta mà thôi”. Nói xong bèn sai Mông Nghị đem hai vạn kỵ binh lên nghênh chiến.

Quân hai bên gặp nhau và giao chiến tại một địa điểm cách Nam Tân của sông Hoài hai mươi dặm. Nhưng chưa đánh nhau thì quân Sở đã bỏ chạy về phía Đông Nam. Mông Nghị đuổi theo không kịp, bèn thổi còi lui quân. Ông ta nghi quân Sở cố dụ địch, nhưng Lý Tín thì cho rằng quân Sở sợ quân Tần, nên đốc quân mạnh bạo tiến lên, cố gắng đuổi đến Thành Phụ, rồi Thọ Xuân.

Ai ngờ khi quân Tần vừa khởi hành ít lâu, thì đơn vị quân Sở rút lui theo hướng Đông Nam đã quay lại, lợi dụng địa hình địa thế mà họ rất quen thuộc, để bí mật theo sau quân của Lý Tín, cứ đi theo như thế trong ba ngày ba đêm mà quân Lý Tín chẳng hay biết gì; sau đó, bất ngờ xông lên đánh chớp nhoáng và với thế mạnh áp đảo, tiêu diệt hoàn toàn hơn hai vạn quân phía sau của Lý Tín. Lý Tín hay tin, bèn đưa quân quay lại ứng cứu chỉ thấy trước mặt có khoảng mười vạn quân Sở đang xông tới, ông ta vội tránh sang phía Đông, chuẩn bị đến bố trí trận địa trong nội thành của Thành Phụ để chống lại quân Sở. Khi quân Tần cấp tốc hành quân về Thành Phụ thì chẳng gặp trở ngại gì. Nhưng đi được một nửa quãng đường, thì quân Sở mai phục hai bên đường xông lên, cắt quân Tần ra làm đôi. Bộ phận phía trước chỉ lo đánh chiếm Thành Phụ, nhưng khi đến nơi thì thành đã bỏ trống. Chưa kịp xây công sự, thì Hạng Yên đã đưa hai mươi vạn quân lao tới, quân Tần bị bao vây chặt bốn phía. Lý Tín muốn sai người đi gặp Mông Quát để cứu viện, nhưng Mông Quát đang bị quân mai phục của Sở đánh cho tơi tả khi ông ta đưa quân truy đuổi để bắt vua Sở và hành quân về Thành Phụ. Hai cánh quân Tần (Lý Tín và Mông Quát) bị thương vong ba phần tư, chỉ còn lại tám vạn, phải chạy về Thượng Tế, chắp vá đủ số tám vạn, lại quay lại đánh quân Sở. Nhưng lại mắc mưu Hạng Yên, bị đánh bại nặng, tám viên đô úy tử trận, chỉ còn lại mấy nghìn tàn quân chạy về nước Tần.

Chú thích:

[i] Nếu tính một dặm dài bằng 1/4km, thì 50 dặm vuông lúc ấy chỉ hơn 3km2.