← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI VƯƠNG TIỄN GIẾT HẠNG YÊN, DIỆT NƯỚC SỞ-VUA TỀ TUYỆT THỰC VÌ MẤT NƯỚC-----

Tại Hàm Dương, Tần Vương Chính lúc đầu liên tiếp nhận được tin thắng trận của Lý Tín và Mông Quát. Nào là đã đánh chiếm được thành Bình Dư, Tẩm Thành, Dĩnh Thành, Ngạc Thành và sáu thành nhỏ. Nào là hai cánh quân này đang hành quân như bay về Thành Phụ để gặp nhau ở đó, sau đó phối hợp tấn công Tân Dĩnh (tức Thọ Xuân cũ, nay đổi là Tân Dĩnh)... Những tin thắng trận đó làm cho nhà vua hết sức phấn chấn. Ngài chuẩn bị mặc quân phục chỉnh tề để thân chinh đốc chiến, trực tiếp tham gia chiến dịch đánh chiếm kinh đô nước Sở. Nào ngờ lại có tin cấp báo từ Thành Phụ nói rằng quân Tần đã bị đánh bại, thương vong tám, chín phần mười, chỉ còn mấy nghìn quân sống sót chạy về đóng chốt ở Thượng Sái (đất cũ của Sở, sau bị Tần chiếm, trở thành địa điểm tập trung quân đội và cất giữ lương thực), tám viên đô úy bị giết. Tần Vương Chính nghe tin thua trận, căm phẫn vô cùng. Nói về lý, thì ông ta biết rằng “thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh”, nhưng về tình cảm, thì ngài không thể chấp nhận được đòn trời giáng này. Mặc dù người chịu trách nhiệm trực tiếp là Lý Tín, một kẻ tự phụ kiêu ngạo, nhưng cũng là do ngài, một ông vua coi trời bằng vung, dung túng, chấp nhận, nên mới bị thảm bại như thế. Để cứu vãn tình thế, Tần Vương Chính lập tức lên một cỗ xe đơn giản, với tùy tùng gọn nhẹ, cấp tốc đi về thôn Tần Dương, cách Hàm Dương hai trăm dặm, để hỏi ý kiến lão tướng Vương Tiễn.

Lúc đó vừa đúng giữa mùa xuân, tiếng chim kêu vọng lên từ cánh đồng, gió thổi từng cơn, hoa nở đầy vườn, mạ xanh khắp ruộng. Lúc ấy, Vương Tiễn đang ở dưới cây dâu trước cổng nhà mình, ông ăn mặc như dân thôn quê, đang kiểm lại các nông cụ, chuẩn bị đi ra đồng, bỗng thấy hai ba đứa trẻ đang dẫn hai cỗ xe ngựa chạy về phía nhà mình. Ông vội bỏ chiếc cày ra và đi ra đón. Cỗ xe vừa đến cổng, ông thấy nhà vua từ trên xe nhảy xuống khi xe chưa kịp dừng hẳn lại. Nhà vua đi đến trước mặt Vương Tiễn và nói ngay:

- Vương lão tướng quân! Vương lão tướng quân!

Vương Tiễn vội quỳ xuống và nói:

- Lão thần nghênh đón bệ hạ! Mong tha tội vì ra đón quá chậm.

- Lão tướng quân nói gì thế? Lần này trẫm đến rất đường đột, còn mong lão tướng rộng lòng tha thứ! - Tần Vương Chính vừa cười khúc khích vừa đỡ Vương Tiễn dậy.

- Thánh thượng giá lâm mà lão thần thì quá đơn sơ xềnh xoàng.

Vương Tiễn lại vái lần nữa rồi đứng dậy đưa nhà vua vào ngồi ở phòng chính, rồi hỏi rất thân tình:

- Bệ hạ lo lắng toàn việc quốc sự, hàng ngày có trăm công nghìn việc, sao hôm nay lại bỏ công việc bận rộn để đến tệ xá, có lẽ là vì việc chiến sự ở Sở chăng?

- Lão tướng quân phán đoán như thần, xứng đáng là công thần số một! - Nhà vua khen ngợi Vương Tiễn và nói thật lòng - Trẫm hôm nay đến đây là để tạ tội với tướng quân đấy!

- Bệ hạ anh minh, đức độ như thánh, sao lại nói vậy? - Vương Tiễn sợ hãi, vội quỳ xuống, tinh thần căng thẳng, mắt nhìn nhà vua.

- Xin lão tướng quân mau đứng dậy đi! - Tần Vương Chính vội đỡ ông ta đứng dậy và đưa bức thư báo tin tức chiến sự cho ông ta xem, rồi nói - Xin lão tướng quân xem qua, khắc biết.

Vương Tiễn cầm lấy bức thư báo, xem vội rồi than rằng:

- - Dạo ấy hai tướng Lý và Mông ra trận, lão thần đã dự kiến là “Kiêu binh tất bại”, nhưng không ngờ lại thua thảm bại đến thế!

- Lý Tín kiêu căng là do quả nhân nhẹ dạ cả tin gây nên, cho nên, cái tội ấy là của quả nhân. Mong tướng quân có gì cứ dạy bảo! - Tần Vương Chính chắp tay về phía Vương Tiễn để tự trách mình.

Vương Tiễn vội đáp lại:

- Lão thần tuổi già sức yếu, trí não ngu muội, không còn đủ sức cầm quân ra trận, chỉ mong an phận tuổi già. Thế là đủ lắm rồi!

Tần Vương Chính biết rõ Vương Tiễn vẫn canh cánh bên lòng đối với sự việc được bàn tại hội nghị triều chính lần trước, bèn xin lỗi ông ta một lần nữa:

- Lão tướng rất sáng suốt và đầy mưu trí, quả nhân thật sự khâm phục. Nước Sở đang trỗi dậy, muốn thắng họ, chỉ có tướng quân mới làm được. Đại Tần ta tiêu diệt sáu nước, thôn tính thiên hạ, việc đó chỉ còn tính từng ngày. Lẽ nào tướng quân lại nhẫn tâm ngồi nhìn đại Tần bị nước Sở đánh bại, để cho sự nghiệp của ta bất thành, phụ lòng tiên vương, không làm tròn trọng trách với non sông? Rất mong tướng quân hiểu cho ta và giúp đỡ ta!

Đến đây, Vương Tiễn cũng không cố chấp nữa. Ông nói với nhà vua:

- Nếu bảo lão thần cầm quân đánh Sở, thì nhất thiết phải có sáu mươi vạn quân.

Nhà vua thấy Vương Tiễn đồng ý cầm quân ra trận nên rất mừng. Ngài cười nói:

- Chỉ cần lão tướng quân thân chinh ra trận, thì mọi chuyện đều phục tùng mệnh lệnh của lão tướng quân.

Thế rồi vua tôi bắt chặt tay nhau, nhìn nhau cười ha hả. Để không bỏ lỡ thời cơ, nhà vua từ chối khéo lời mời thịnh tình của cả nhà lão thần Vương Tiễn, vua tôi đưa nhau lên xe ngựa đi nhanh về Hàm Dương, chuẩn bị đánh Sở.

Chính sách quân sự của Tần là “đền binh ư dân, kết hợp thời bình thời chiến” (gửi quân trong dân, quân và dân rất hợp, thời bình và thời chiến kết hợp). Vì vậy, sáu mươi vạn binh mã được huy động rất nhanh chóng. Vương Tiễn chỉ huy đại quân đó tấn công nước Sở. Đó là năm thứ hai mươi niên hiệu Tần Vương Chính. Nhà vua dẫn đầu các đại thần ra tiễn chân Vương Tiễn tận Bái Thượng. Lúc sắp chia tay, Vương Tiễn đưa cho nhà vua một bản liệt kê, xin nhà vua ban cho ông ta một số tài sản. Trong đó ghi rõ khá nhiều ruộng tốt, nhà cửa, vườn cây, hồ nước, vườn hoa. Nhà vua cười rồi nói:

- Lão tướng quân xin cứ khởi hành đi, chẳng lẽ ông lại lo nghèo ư?

Vương Tiễn nói rất nghiêm túc:

- Đi đánh trận cho bệ hạ, dù có công lớn đến đâu chăng nữa cũng không được ban tước phong hầu nữa. Nay đại vương còn dùng đến lão thần, lão thần muốn nhân dịp này xin đại vương ban cho một ít tài sản để lại cho con cháu đời sau.

Nhà vua cười lớn, nói rằng:

- Lão tướng quân cứ yên tâm đi, trẫm đồng ý.

Lúc này Vương Tiễn mới thúc quân xuất phát. Khi đến Hàm Cốc Quan, lại còn liên tiếp năm lần sai người đại diện của mình trở về Hàm Dương để nhắc lại với vua Tần về việc xin ngài ban ruộng tốt, nhà đẹp, vườn hoa, công viên, hồ nước. Các tướng sĩ dưới quyền ông nói rằng ông chưa đánh chác gì mà dã đòi hỏi như vậy, liệu có quá đáng không. Vương Tiễn nói rằng đó có gì mà quá đáng. Đối với vua Tần, mọi người đều biết rất rõ, ông ấy rất đa nghi không tin ai cả, nhất là không tin những tướng lĩnh đang nắm rất nhiều quân đội trong tay. Nay sáu mươi vạn quân sĩ cùng cả nước đều giao cho một mình Vương Tiễn, nếu Vương Tiễn không tỏ ra là chỉ lo cho con cháu và chỉ biết tính toán tiền của và gia sản thôi, thì nhà vua chẳng sẽ nghi ngờ Vương Tiễn có dã tâm gì đây. Các tướng sĩ đều gật đầu khen lão tướng suy nghĩ thật chu đáo.

Chiến dịch này của Vương Tiễn chia làm hai cánh quân. Một cánh do ông ta chỉ huy, xuất phát từ Hàm Cốc Quan. Một cánh do Mông Vũ chỉ huy, xuất phát từ Vũ Quan. Hình thành thế trận hai cánh quân cùng tấn công từ hai hướng. Quân của Vương Tiễn sau khi vào đất Sở, bèn bố trí trận địa tại khu vực Bình Dư, và cho thám báo đi sâu vào nội địa để nắm tình hình. Kết quả nhanh chóng cho thấy: năm mươi vạn quân do Hạng Yên chỉ huy đã bố trí trận địa ở phía trước nhưng xa quân Tần, sẵn sàng quyết chiến. Khi nghe tin này, các tướng sĩ dưới quyền đều đến gặp Vương Tiễn xin được ra đánh, để báo thù cho trận đại bại ở Thành Phụ của Lý Tín. Vương Tiễn bình tĩnh nói:

- Quân Sở đang dùng kế “lấy an nhàn đánh quân đã mệt mỏi”, lấy “tĩnh kiềm chế động”, chúng ta không thể đi theo vết xe đổ của Lý Tín, mà trước hết phải giữ vững trận địa đã, để chờ thời cơ.

Sau đó ông ra lệnh cho toàn quân: Nhất quyết không được xuất kích, phải gia cố công sự, tăng cường vật chướng ngại, luôn luôn tuần tra canh gác, chú ý theo dõi chặt chẽ mọi động tĩnh của quân địch. Dù quân địch có khiêu khích như thế nào cũng không được phản ứng gì. Ai trái lệnh phải chém.

Vương Tiễn là vị tướng nổi tiếng về giữ nghiêm kỷ luật quân đội và tính toán chiến lược chiến thuật rất chắc chắn và chính xác, các tướng sĩ đều nghiêm chỉnh tuân lệnh, suốt ngày ở lỳ trong lô cốt, ăn no rồi chơi đùa, mặc kệ cho quân Sở ở bên ngoài chửi bới ầm ĩ. Có khi quân Sở đưa từng tốp nhỏ lính bộ binh và kỵ binh đến khiêu khích nhưng quân Tần cứ im lặng, không hề có phản ứng gì. Cứ thế, hai lực lượng quân sự rất hùng hậu, mỗi bên một trận địa, nhưng bên này thì rất nôn nóng, liên tục khiêu chiến, còn bên kia thì án binh bất động, lặng lẽ như tờ, có cái vẻ vững chãi như bàn thạch. Điều này tỏ rõ tâm trạng tư tưởng và ý đồ chiến lược của tướng lĩnh hai bên.

Thượng trụ quốc của Sở, tướng Hạng Yên có trong tay năm mươi vạn quân, đều dũng cảm thiện chiến. Phó tướng Cảnh Kỳ cũng là một tay không vừa, lại đang ở thế thủ, lẽ ra Hạng Yên phải bình tĩnh chờ địch. Nhưng ông ta rất lo cho Tân Dĩnh (tức Thọ Xuân); vì ở đấy nhà vua Phụ Sô đang đích thân chỉ huy một lực lượng rất lớn để bảo vệ kinh thành, nhưng lại ít mưu trí, thiếu can đảm, nhỡ ra bị quân Tần tập kích, thì khó mà giữ được thành. Vì vậy, Hạng Yên chủ động khiêu chiến quân Tần, muốn tốc chiến tốc thắng, để đưa quân về bảo vệ Tân Dĩnh. Nhưng quân của Vương Tiễn lại giữ thế thủ, nhất quyết không xuất kích, nhẫn nhục chờ đợi. Chiến thuật của Vương Tiễn lúc này là chờ cho cánh quân của Mông Vũ lọt vào nước Sở (xuất phát từ Vũ Quan), và hành quân đến một khu vực trung tâm nước Sở, khi đó mới phối hợp hành động; ông tránh hành động khi chưa có thời cơ.

Tướng sĩ quân Tần thì rất khó chịu, họ nhiều lần xin chủ tướng cho đánh, nhưng Vương Tiễn đều gạt phắt đi. Ông kiên trì giữ đúng chiến thuật: lấy tĩnh kiềm chế động, chờ đợi thời cơ. Vương Tiễn rất lo các tướng sĩ không kiên nhẫn; ông bèn đi đến tận các doanh trại để nắm tình hình, trao đổi chuyện trò thân thiết với các tướng sĩ, dạy cho họ các động tác chiến thuật, để họ sẵn sàng đánh lớn, đánh những trận ác liệt và chiến thắng. Ông nhắc nhở các tướng sĩ phải ăn tốt, ngủ tốt, chơi tốt; giữ cho sức khỏe dồi dào và tinh thần chiến đấu cao, khi đã xông trận thì chiến đấu dũng cảm vô địch và phải toàn thắng. Các tướng sĩ đều rất cảm kích và yêu mến vị chỉ huy cao tuổi nhưng rất bình dị, gần gũi, thân mật. Mọi người không ai tỏ ra nôn nóng, mà cố thủ trong công sự của mình. Bằng cách đó, quân Tần đã làm tiêu tan và suy sụp nhuệ khí của quân Sở.

Cục diện giằng co giữa hai bên kéo dài tới mấy tháng. Vương Tiễn họp các đô úy để nắm tình hình quân đội. Các đô úy cho biết, hiện nay binh sĩ đã nghỉ ngơi đủ, tinh thần rất hăng hái sẵn sàng, chưa có dịp để thử sức nên đua nhau đấu vật, vật tay, lại thi ném đá nữa. Vương Tiễn gật đầu nói rằng như vậy thì có thể coi như tinh thần quân sĩ đã được nâng cao, có thể xuất phát giao chiến bất cứ lúc nào, nhưng ông còn đang không rõ đội quân của Mông Vũ hiện giờ ra sao. Mọi người bỗng im lặng, họ đã quen rồi, chờ đợi thêm ít lâu cũng chẳng hề gì. Các đô úy đành phải trở về đơn vị mình và thuyết phục binh sĩ cứ yên tâm tiếp tục chờ đợi.

Lại mười ngày nữa trôi qua. Mông Vũ cho kỵ binh đến cấp báo: Sau gần mười trận đánh lớn nhỏ, quân của ông đã chiếm được trọng trấn An Dương ở miền trung Tây nước Sở. Sau khi nghỉ ngơi chút ít, sẽ tấn công kinh đô Tân Dĩnh của Sở. Đề nghị Vương Tiễn đưa quân phối hợp. Vương Tiễn thấy vậy rất mừng, ra lệnh cho các trạm gác chú ý theo dõi chặt tình hình địch, còn tướng sĩ toàn quân phải luôn mặc áo giáp, lắp yên ngựa sẵn sàng xuất kích.

Chỉ ít lâu sau, có thám báo chạy về nói rằng quân Sở ở phía đối diện bắt đầu tháo dỡ doanh trại, có vẻ như chuẩn bị di chuyển. Toàn quân Tần nghe tin này rất mừng. Đến chiều, quân Sở bắt đầu rút lui. Trong đó, đơn vị ở gần quân Tần nhất chia làm bốn bộ phận và mai phục tại chỗ, để bảo vệ phía sau. Tất cả còn lại gồm các binh chủng: bộ binh, kỵ binh, chiến xa đi theo đơn vị của mình, người nào cũng ngậm que ở miệng (để khỏi bật thành tiếng, cốt giữ bí mật), ngựa thì đi rất nhanh. Tất cả hành quân hối hả về hướng An Dương. Tình hình này, quân Tần đã nắm rất rõ từ lâu. Lão tướng Vương Tiễn ngồi trong lán của mình ra lệnh cho mấy vạn phiêu kỵ binh áo giáp đen, mũ sắt đen, ngựa đen phi như bay qua đường tắt, đường vòng, nhanh chóng xuất hiện trước mặt quân Sở như trên trời giáng xuống. Một đơn vị khác của quân Tần, gồm các chiến xa thì đốt đuốc, nổi trống rầm trời, đến bao vây tiêu diệt đoàn xe chở lương thảo của quân Sở. Khi đến gần quân Sở, quân Tần ném các bó đuốc vào xe quân Sở, lửa cháy bùng lên, người cũng bị thiêu đốt, chạy tán loạn, ngựa cũng lồng lộn lên vì cháy. Xe cộ lật nhào ngổn ngang trên đường. Quân Sở ở phía sau phải len lỏi chạy qua từng đống xe cộ và người ngựa đang cháy trên đường, cứ thế giẫm đạp lên nhau, hoàn toàn hỗn loạn. Quân Tần ở mé ngoài xông vào, ra sức chém giết, đốt phá, bắn tên. Quân Sở thương vong quá lớn, kêu khóc thảm thiết; xác người và ngựa, các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh ngổn ngang trên một quãng đường dài mấy chục dặm.

Khi đội quân đi giữa của quân Sở đã bị bộ binh và chiến xa của quân Tần đánh giáp công như vậy, Vương Tiễn mới đưa đại bộ phận quân Tần còn lại xông lên từ phía sau, nhằm quét sạch quân Sở còn mai phục ở hai bên đường. Bộ phận tàn quân của quân Sở đi sau, vừa đánh vừa lui, định đuổi theo bộ phận phía trước của họ, nhưng cũng vấp phải những vật chướng ngại trên đường như bộ phận phía trước nên họ hành quân rất chậm chạp, không còn tinh thần chiến đấu, chỉ ai lo phận nấy, chạy tán loạn khắp nơi. Quân Tần tản ra hai bên đường làm thành bề đáy của mạng lưới; hai cánh còn lại triển khai lên phía trên, rồi dần khép lại, nhốt quân Sở vào trong lưới. Quân Sở chạy theo hướng nào cũng bị chặn lại.

Lúc ấy, tướng Hạng Yên của quân Sở đang đưa một đội quân hành quân về hướng An Dương, cốt để chặn đánh cuộc tấn công của Mông Vũ vào thành Tân Dĩnh. Nhưng vài hôm nay, ông ta toàn nhận được tin bại trận, tổn thất rất lớn. Ông ta nghĩ rằng, nếu vận dụng chiến thuật thường lệ, cứ cho quân dừng lại, bố trí trận địa để đánh “trận địa chiến” với quân Tần sắp đuổi tới; như vậy, quân Sở có thể dựa vào địa thế mà mình quen thuộc, dễ dàng ẩn nấp, có thể chặn đứng cuộc tấn công của quân Tần, thậm chí có thể đánh thắng, xoay chuyển được cục diện thất bại vừa rồi và thu hồi được đất đai đã mất. Nghĩ vậy, ông liền ra lệnh dừng chân, chiếm lĩnh các vị trí lợi thế, đóng doanh trại, đào công sự, xây thành lũy nhằm khôi phục sĩ khí của binh lính, chuẩn bị tử chiến với quân Tần.

Nhà vua Phụ Sô cứ hy vọng vào mấy chục vạn tướng sĩ sẽ chiến đấu hy sinh vì ông ta, còn bản thân nhà vua thì tham sống sợ chết, hưởng lạc cầu an. Vì vậy, khi thấy tướng Hạng Yên đưa một lực lượng lớn quân đội đóng tại Bình Dư, đối diện với trận địa quân Tần của đại tướng quân Vương Tiễn, nhưng đã mấy tháng rồi, chẳng có động tĩnh gì, nhà vua bắt đầu sinh nghi. Bởi vì ngài nhờ có vị “Thượng trụ quốc” Hạng Yên này dùng vũ lực ủng hộ nên mới thực hiện được âm mưu đảo chính, giết được em là Ai Vương Hùng Do, cướp được ngôi vua. Vì vậy, nhà vua thấy được tầm quan trọng và sự nguy hiểm của binh quyền. Ngài lên ngôi đã hai năm nay, rất yên tâm với quyền lực mà mình đang nắm, không chú ý đến việc chỉnh đốn triều đình và cung điện. Tình trạng đồi bại, dâm ô không những không bị ngăn chặn, mà còn tăng lên mạnh mẽ. Về việc này, “Thượng trụ quốc” Hạng Yên đã can gián rất quyết liệt, nhưng Phụ Sô không những không kịp thời tỉnh ngộ; ngược lại, nhà vua còn cho rằng Hạng Yên ỷ thế có quyền nên sinh ra ngạo mạn, phạm thượng, thậm chí có dã tâm muốn chiếm ngôi vua. Từ đó, nhà vua có ý đề phòng Hạng Yên, muốn tìm một cơ hội nào đó để tước binh quyền của ông ta. Vừa lúc ấy, Lý Tín và Mông Quát đưa hai mươi vạn quân Tần đến xâm phạm, tình hình nguy cấp. Ngài bèn sai Hạng Yên cầm quân xuất kích; bản thân ngài ngự giá thân chinh đối phó với Mông Quát. Mặc dù bị Mông Quát đánh bại phải tháo chạy, nhưng Hạng Yên nhờ vào tài trí và dũng cảm của mình, đã đánh thắng quân Tần ở Thành Phụ và thu hồi được đất đai. Nhờ vậy, nước Sở được yên ổn một thời gian. Ngài cũng thấy Hạng Yên quả xứng đáng là cột trụ của nước Sở, là vị tướng bảo vệ nhà vua tốt nhất. Bây giờ Vương Tiễn và Mông Vũ lại đưa quân đến, ngài vẫn cử Hạng Yên làm soái, đưa năm mươi vạn quân ra biên giới phía Tây chống quân Tần. Ngài nghĩ rằng “Thượng trụ quốc” sẽ phát huy cái uy lực của chiến thắng lần trước, nhanh chóng đánh bại quân Tần, như vậy, cái ngai vàng của ngài sẽ bình an vô sự. Nào ngờ đã mấy tháng trôi qua, mặc dù đã nhiều lần cho người ra trận tuyến để hỏi cho rõ nhưng Hạng Yên vẫn án binh bất động. Ngài rất nghi ngờ. Ngài nghĩ rằng Hạng Yên và Vương Tiễn đều là các tướng tài, anh dũng thiện chiến; vả lại hai bên đã dàn binh bố trận cả rồi, mỗi người cầm đầu mỗi bên, vậy tại sao không khởi sự? Rất có khả năng là Vương Tiễn thấy Hạng Yên có tài nên dụ hàng, theo kiểu “Anh hùng tương ngộ, người khôn lại quý người khôn”. Nếu Hạng Yên cho rằng mình không còn cách nào để tự cứu thoát nữa, cũng có thể đầu hàng quân Tần theo tinh thần “Người khôn phải tìm minh chủ”. Trong gần một trăm năm nay, hiện tượng quay mũi giáo ở chiến trường như thế, xảy ra rất nhiều, chẳng có gì lạ. Nếu đúng như vậy, thì ngôi báu của ngài, giang sơn của ngài sẽ lọt vào tay kẻ khác, không đáng tiếc sao...?

Vua Phụ Sô càng nghĩ càng nghi ngờ. Cuối cùng ngài quyết định tự mình đưa hai mươi vạn quân, cử Khuất Định làm phó tướng, ra mặt trận để “thăm hỏi” quân đội. Nếu thấy có hiện tượng không bình thường, sẽ lập tức tước đoạt binh quyền của Hạng Yên, cử Khuất Định làm soái để đánh quân Tần. Khi ngài và Khuất Định đang cấp tốc hành quân, thì Vương Tiễn sai mấy vạn kỵ binh “đen” từ phía trước xông tới. Đây là đơn vị kỵ binh hùng mạnh thiện chiến của quân Tần. Mục tiêu của họ là đuổi theo quân của Hạng Yên. Họ hành quân nhanh như bay, nên vượt qua cả đối thủ lúc nào không biết, cứ tưởng là quân của Hạng Yên đang ở phía trước; tưởng rằng mình chưa đuổi kịp Hạng Yên. Họ không biết là Hạng Yên đã dừng chân và bố trí trận địa ở dọc đường. Nay bất ngờ gặp quân của Sở mang cờ có chữ “Sở Vương”, họ mừng quá, liền thổi kèn liên hồi, dốc toàn lực xông vào quân của “Sở Vương”.

Sở Vương Phụ Sô thấy quân Tần xông tới, liền nghĩ rằng Hạng Yên đã đầu hàng quân Tần rồi. Nếu không, cho dù Hạng Yên có bị thua đi nữa, thì Hạng Yên phải đến trước, cớ sao quân Tần lại đến trước. Nhưng quân Tần xuất hiện quá đột ngột, ngài không kịp ra lệnh cho quân đi sau chuyển lên phía trước, nên bảo phó tướng Khuất Định dừng ngay quân và triển khai trận địa, lấy chiến xa ngăn phía trước, tổ chức lại bộ binh và kỵ binh để sẵn sàng đánh giáp lá cà kiểu “tao ngộ chiến” (gặp nhau, phải đánh) với quân Tần. Quân hai bên đâm chém lẫn nhau đẫm máu, không bên nào chịu thua.

Quân Sở nhờ có trận địa ổn định, nên triển khai thế trận dài ra, chặn được mũi xung kích của quân Tần. Hơn nữa, quân số của Sở gấp ba lần của quân Tần, nên có ưu thế hơn. Phó tướng Khuất Định cũng rất giỏi, tự mình nổi trống trận, chỉ huy quân Sở quyết chiến. Còn quân kỵ binh của Tần, do phải hành quân ngày đêm, người và ngựa đều mệt. Vả lại, chỉ có một bộ binh đơn thuần, rất dễ bị đối phương chặn đứng. Cho nên, sau một hồi kịch chiến, quân Tần dần dần đuối sức, không chống đỡ nổi. Vua Phụ Sô thấy tình hình có lợi, bèn chủ quan khinh địch, liều lĩnh thúc ngựa cầm kiếm xông lên đánh quân Tần, bất chấp lời khuyên của Khuất Định. Lúc ấy quân Tần đang cố sức chống đỡ bỗng thấy một vị tướng xông tới, đằng sau lại có một đội kỵ binh đi theo hộ vệ, họ cứ tưởng rằng đây là chủ soái của quân Sở. Còn đang không rõ thực hư thế nào, họ cứ dàn ra xung quanh, dành ra một khoảnh trống ở giữa, chuẩn bị ứng chiến. Phó tướng Khuất Định thấy đây là cơ hội tốt, vội thúc ngựa vung giáo, theo sát phía sau vua Phụ Sô và xông lên. Trong lúc quân Sở đang thắng thế như vậy, thì bỗng một toán quân Tần từ hướng Tây Bắc xông tới. Đó là đội quân do Mông Vũ chỉ huy, xuất phát từ An Dương tới. Quân kỵ binh của Tần thấy quân tiếp viện đến, tất nhiên là rất vui mừng, vội chuyển từ thế thủ sang thế công.

Trong khi đó, nhà vua Phụ Sô, người đã bị Mông Quát đánh cho thua tơi bời lần trước, nay thấy chữ “Mông” to tướng, liền sợ hãi kinh hoàng, vội cho quay ngựa tháo chạy. Quân của Mông Vũ thừa thế tấn công mãnh liệt. Quân Sở bị bất ngờ nên không kịp đề phòng, thế trận tan rã, phải rút chạy. Quân Mông Vũ đuổi theo. Nhờ có các tướng lĩnh do Khuất Định cầm đầu bảo vệ, vua Phụ Sô cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, khi về đến kinh đô Tân Dĩnh, bèn đóng chặt cổng thành, rút cầu treo, không dám ra ứng chiến nữa.

Lúc ấy, Hạng Yên bố trí trận địa tại Hoài Dương cốt để chặn quân Tần. Theo thói quen, Hạng Yên bố trí trận địa theo kiểu có nhiều tầng, gồm chiến xa, bộ binh, kỵ binh. Còn lợi dụng địa hình để chiếm các điểm cao, có thể giám sát quân Tần đang xông tới. Vương Tiễn thấy quân Sở đã ngừng lại để ứng chiến. chứng tỏ quân kỵ binh của Tần đã ở phía trước quân Sở rồi, nên không đánh vào quân Sở nữa. Nhưng họ lại không hiểu rõ quân của Mông Vũ triển khai như thế nào, nếu quân Sở tăng viện cho Hạng Yên thì bản thân Vương Tiễn khó có thể tiến được. Để tranh thủ thời gian, Vương Tiễn chia đôi đội quân của mình thành nhiều đợt và nhiều hướng để thay phiên nhau đánh mạnh vào quân Sở. Quân của Hạng Yên đóng quân trên các điểm cao. giữ vững được trận địa, bố trí chiến xa ở phía trước, kỵ binh ở giữa, bộ binh ở sau cùng; trước sau đều liên hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp tác chiến. Khi quân hai bên tiếp cận rất gần nhau, bộ binh sẽ dùng kiếm và giáo liều chết quyết chiến. Vì quân Sở biết rõ, nếu phòng tuyến này không giữ được, thì nước Sở sẽ khó mà giữ được. Vì vậy tất cả đều liều chết hy sinh, kiên trì chiến đấu. Mỗi lần giao chiến, hai bên đều thương vong rất nhiều. Cứ sau mỗi lúc ngừng lại để chấn chỉnh, họ lại lao vào nhau, lại chết chóc, bất phân thắng bại.

Nhưng quân Sở có điểm yếu đó là lương thảo và đồ quân nhu đã bị quân Tần đốt rất nhiều ở dọc đường. Những thứ còn mang theo được đã dùng hết sạch. Để tiếp tục tác chiến, cần phải có thêm lương thảo. Nhưng việc tiếp tế ngày càng giảm, thể lực quân sĩ ngày càng không thể trụ nổi. Mặc dù đã liên tục cho người đến các quận huyện ở gần đó trưng thu, nhưng lại bị quân Tần cắt đứt đường giao thông. Tình hình rất nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của quân lính. Nhất là đến ngày thứ tư, sau khi đã kiên trì tác chiến trong tình trạng đó, lại có tin cấp báo từ Tân Dĩnh tới: quân Tần của Mông Vũ đang đuổi theo vua Phụ Sô, Tân Dĩnh đang lâm nguy. Hạng Yên tuy rất bất bình với nhà vua Phụ Sô, nhưng vẫn là một tướng lĩnh giàu lòng yêu nước, trong khi quân lính hết lương thực đã lâu, không thể chống cự quân Tần được nữa, Hạng Yên phải gạt nước mắt rút quân. Quân Sở vừa đói vừa mệt, khi rút lui cũng chẳng còn đội hình gì nữa, liền bị quân Tần đuổi đánh rất mạnh, nên thương vong khá lớn. Để giảm bớt thương vong, Hạng Yên tự mình đi sau cùng, vừa đánh vừa lui. Sau một ngày đêm rút lui trong hoảng loạn, quân Sở phải chật vật lắm mới về đến Tân Dĩnh. Cầu treo từ trên thành cao được hạ xuống, cổng thành được mở rộng, tàn binh bại tướng lần lượt vào thành. Hạng Yên đi sau, sắp sửa đi ngựa qua cầu treo, thì bỗng từ trên tường thành có nhiều mũi tên bắn vào ông ta, tướng Khuất Định đứng trên cao lớn tiếng chửi mắng Hạng Yên đã phản bội và đầu hàng. Hạng Yên kinh ngạc vô cùng, định thanh minh nhưng suýt bị trúng tên, đành phải vội vàng quay ngựa, đưa theo hơn một vạn tàn quân chạy nhanh về phía Nam sông Noài, tìm một nơi trú chân khác.

Trong cuộc chiến tranh lớn, kéo dài nửa năm ấy, năm mươi vạn quân Sở bị tiêu diệt hơn một nửa, chỉ còn hai mươi vạn, rút về đóng ở Tân Dĩnh. Sau đó, bị năm mươi vạn quân của Vương Tiễn và Mông Vũ phối hợp bao vây và tấn công trong ba tháng, cuối cùng bị thất bại, hai phó thống soái bị chết, vua Phụ Sô bị bắt; chỉ còn lại Hạng Yên và tàn quân của ông ở vùng phía Nam sông Noài. Ở đây, Hạng Yên lập Xương Bình Quân (từng làm tả thừa tướng của Tần Vương Chính ở Hàm Dương) làm vua Sở, để tiếp tục giãy giụa.

Hạng Yên là hậu duệ của danh tướng nước Sở, anh dũng thiện chiến, túc trí đa mưu, nhưng ở vào cuối thời kỳ Chiến Quốc, các nước chư hầu lúc hòa lúc chiến, tình hình ngày càng xấu, tài năng của ông không thể phát huy. Nhất là, ông thấy nước Sở của ông xảy ra không biết bao nhiêu là chuyện đổ máu trong cung đình, tranh giành cướp đoạt quyền binh; đó thật là điều rất đau lòng. Trong tình hình đó, ông đặt hy vọng vào Phụ Sô nên đã giúp Phụ Sô lên ngôi; nhờ vậy, bản thân ông cũng được phong làm “Thượng trụ quốc”. Ông cứ tưởng rằng từ nay có thể phò tá minh chủ, cố gắng trị nước yên dân, chấn hưng khí thế oai hùng của nước Sở. Nhưng Phụ Sô lên ngôi không được bao lâu, thì bỏ bê việc triều chính, lao vào vui chơi hưởng lạc, nghe lời gian nịnh, đả kích người tốt. May nhờ trong cuộc chiến chống Tần lần trước, ông đánh bại Lý Tín, mới không bị hãm hại. Lần này, Vương Tiễn, Mông Vũ đưa một lực lượng lớn quân đội sang xâm lấn, ông chỉ huy năm mươi vạn quân vào sinh ra tử vậy mà bị vu cáo là phản tặc, đầu hàng. Ông căm phẫn vô cùng. Ông biết rằng Phụ Sô hủ bại và bất lực, nước Sở đang lâm nguy, ông cũng muốn tự lên ngôi vua, nhưng vì đã từng giúp Phụ Sô làm đảo chính cướp quyền, nên tôn thất hoàng gia nhiều người khiển trách ông ta. Nay nếu tự lập làm vua, thì cái tội phản tặc không thể chối cãi vào đâu được. Vì vậy, chỉ có thể làm bề tôi để đưa Xương Bình Quân làm vua Sở. Nhưng cũng không ngờ rằng việc này cũng là một sai lầm, khiến ông hối hận mãi. Bởi vì Xương Bình Quân tuy là công tử hoàng gia nước Sở, nhưng chỉ có cái hư danh, không có thực tài. Do tầng lớp thống trị trong nước đấu đá lẫn nhau, nên Xương Bình Quân bị tẩy chay, chạy sang nước Tần và được giữ chức “Khách khanh” của Tần. Tại Tần, nhờ biết tùy cơ ứng biến, giỏi ứng xử thích hợp với mọi trường hợp biến động xung quanh, nên có công trạng trong việc dẹp loạn Lao Ái. Nhân lúc Lã Bất Vi bị bãi chức vì liên quan với vụ Lao Ái, Xương Bình Quân lại được phong chức tả thừa tướng, thật là diều gặp gió, được ưu ái nhiều bề. Sau đó, nhà Tần trục xuất người nước ngoài, Xương Bình Quân cũng bị đuổi. Nhưng nhờ có sự can gián của Lý Tư nên lại trở về Hàm Dương. Tuy vậy, ông ta không tự cảnh giác, lại đố kỵ với người hiền tài, tham gia vào việc hãm hại Hàn Phi. Sau đó việc này đã bị Tần Vương phát hiện; Xương Bình Quân bị bãi chức tả thừa tướng và đưa đi Tân Trịnh làm “quân” của đất phong ở đó. Mùa đông năm ấy, tức năm hai mươi mốt niên hiệu Tần Vương Chính, Vương Bôn đến Tân Trịnh dẹp loạn, Xương Bình Quân vội bỏ Tân Trịnh trở về nước Sở, quê hương đã cách biệt lâu ngày, rồi xuất hiện bên cạnh vua mới Phụ Sô và tướng Hạng Yên đang nắm binh quyền. Xương Bình Quân có con mắt của một chính khách, nên dự đoán rằng Phụ Sô nhất định để mất nước. Vì vậy, ông ta hợp tác với danh nghĩa công tử nước Sở.

Nếu Xương Bình Quân biết dẹp bớt tham vọng, chăm lo việc nước việc dân, thì có lẽ cũng được yên ổn một nơi để sống hết ngày tàn như An Lăng Quân. Nhưng ông ta lại không như thế. Ông ta sợ thiên hạ chưa biết mình đã làm vua nước Sở nên ra sức huênh hoang, rêu rao rằng Tần Vương Chính bội tín thất nghĩa, quên mất ông ta (Xương Bình Quân) là một đại ân nhân. Đặc biệt, ông ta nói rất nhiều và rất hùng hồn về những chuyện xấu xa ở nhà Tần như việc thái hậu dâm ô với Lã Bất Vi và Lao Ái, việc Tần Doanh Chính rất tàn bạo như xé xác cha dượng, ban chết “Trọng phụ”, hãm hại Hàn Phi, giết chết hai mươi bảy người can gián, v.v.... ông ta xoáy vào những chuyện đó, cốt để kích động tâm lý chống Tần. Nhưng lúc ấy, đại bộ phận các nước chư hầu đã bị Tần tiêu diệt, không thể hình thành lực lượng vũ trang liên hợp chống Tần nữa. Vả lại, sau khi Tần Vương biết được luận điệu nói trên của Xương Bình Quân, ông ta tức giận điên người, bèn sai Vương Tiễn cấp tốc tấn công tiêu diệt lực lượng tàn quân ấy của nước Sở.

Năm hai mươi tư niên hiệu Tần Vương Chính (năm 223 trước Công nguyên), Vương Tiễn và Mông Vũ đưa bơn mươi vạn quân đến khu vực phía Nam sông Noài, thuộc địa bàn của Xương Bình Quân. Xương Bình Quân và Hạng Yên dốc toàn lực ra chỉ có hai mươi vạn quân. Mỗi bên đóng quân tại mỗi bờ sông Noài. Quân Tần ở bờ Bắc, quân Sở ở bờ Nam. Hai bên đánh nhau nhiều lần, cả dưới nước lẫn trên bộ, bên nào cũng có thương vong. Sau một thời gian giằng co cầm cự, Vương Tiễn ra lệnh cho Mông Vũ đưa mười ba vạn quân tinh nhuệ vượt sông Noài tại một địa điểm ở cách Xương Bình (một đô thành mới xây của Sở trên bờ sông Noài, mười dặm về phía Bắc, tạo nên thế trận chủ công, thu hút sự chú ý của Hạng Yên, khiến ông ta phải rút quân về bảo vệ Xương Bình. Trong khi đó, Vương Tiễn chỉ huy hai mươi nhăm vạn quân đang đêm vượt sông tại Thạch Kỳ, Mông Quát đưa hai vạn kỵ binh vượt sông tại một bến khác. Ba đơn vị quân Tần đều vượt sông và tạo thành các mũi tấn công quân Sở, chỉ chờ cơ hội đánh chiếm Xương Bình, là nơi mới xây dựng của nước Sở. Quân số của Sở chỉ bằng một phần hai của Tần. Trong đó, Xương Bình Quân chỉ huy một phần ít hơn để bảo vệ Xương Bình; Hạng Yên chỉ huy mười lăm vạn thủy lục quân; chống trả quân Tần tại tuyến bờ Nam sông Noài, tuyến sông này vừa dài vừa hẹp. Do chênh lệch về quân số, nên quân của Hạng Yên yếu dần và cuối cùng tan rã trên toàn tuyến. Quân của Vương Tiễn và Mông Vũ vượt sông phối hợp bao vây thành Xương Bình. Xương Bình Quân tổ chức và chỉ huy việc bảo vệ thành, bị giết chết trong cuộc hỗn chiến. Hạng Yên đưa quân về cứu thành Xương Bình, nhưng dọc đường cũng bị quân Tần bao vây. Ông đã dũng cảm chiến đấu, rất nhiều quân Tần bị thương vong, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát, ông căm phẫn vô cùng, rút kiếm ngửa mặt lên trời, rơi hai hàng nước mắt, kêu than: “Lẽ ra ta không nên giúp Phụ Sô, một kẻ hại nước hại dân, vô dụng bất lực, ta thật là hổ thẹn với tiên vương!”. Nói xong đưa kiếm cứa vào cổ tự vẫn.

Đến đây, nước Sở của Xương Bình Quân bị tiêu diệt. Năm sau, tức năm 25 niên hiệu Tần Vương Chính (năm 222 trước Công nguyên); Vương Bôn chỉ huy quân Tần đánh Liêu Đông của nước Yên, bắt vua Vương Hỷ. Sau đó, đưa quân về miền Bắc, diệt nước Đại, bắt Vương Gia của Đại. Cùng lúc đó, Vương Tiễn, Mông Vũ đưa quân bình dẹp nước Sở; thay đổi thể chế quận Cối Kê. Toàn bộ lãnh thổ nước Sở đều được đưa vào bản đồ nước Tần. Mùa hè năm ấy, để phát huy uy thế đánh thắng năm nước Hàn, Triệu, Yên, Ngụy, Sở, Tần Vương Chính sai Vương Bôn đưa ba mươi vạn quân tấn công nước Tề, nước chư hầu cuối cùng.

Tề vốn là một cường quốc trong “Thất Hùng”. Khi Quân Trạng giúp Tề Hoàn Công là thời kỳ cực thịnh của nước Tề. Lúc này, Tề Hoàn Công và Tấn Văn Công của nước Tấn đều xưng bá chủ các nước chư hầu. Sau đó còn có Mạnh Thường Quân (Điền Văn) người nước Tề, làm thừa tướng của vua Chiêu Vương nhà Tần, sau vì nhớ quê hương tổ quốc nên trốn về Tề, làm thừa tướng nước Tề, phò tá Tề Mẫn Công trị nước, đạt được nhiều công lao to lớn. Đặc biệt có người niên khánh của Mạnh Thường Quân là Bằng Noãn, giúp ông ta thi hành chính sách “đốt khế ước để miễn thuế”, rất được lòng dân, đã nói lên vua tôi nước Tề lúc bấy giờ rất quan tâm đến nỗi khổ của dân, và thi hành chính sách thương dân trị quốc; vì vậy, nước mạnh dân giàu. Nhưng đến thời kỳ Tề Vương Kiến thì vua suy đồi, chính sách sai lầm, quân đội bạc nhược, đất nước yếu kém. Từ đó, không ngóc đầu lên được nữa. Đứng trước sự xâm lược của nước Tần, Tề Vương Kiến không dám chống lại, chỉ một mực nhân nhượng, rồi đưa rất nhiều vàng bạc châu báu để biếu xén, mong được giảng hòa để tiếp tục cầu an hưởng lạc. Khi thấy nước láng giềng bị Tần xâm lược, Tề Vương Kiến không hề giúp đỡ; thấy nước láng giềng bị mất đất mất quân, cũng mặc kệ không cứu giúp. Thừa tướng Hậu Thắng của ông ta là một gian thần, bán nước cầu vinh, lòng tham vô đáy. Hậu Thắng nhận rất nhiều vàng bạc hối lộ của Tần, nên tích cực khuyên Tề Vương nên hòa hữu với Tần, chắc chắn rằng nước Tần không có tham vọng xâm chiếm lãnh thổ của Tề. Tề cố nhiên tin lời Hậu Thắng, suốt mấy chục năm không chăm lo việc quân, không chuẩn bị chiến tranh, sống an nhàn vô sự, thật chẳng khác nào tự lừa mình dối người.

Tần Vương Chính nghĩ rằng Tề Vương có thể làm nhân vật trung gian giữa các nước chư hầu, có thể dùng vật chất để sử dụng ông ta. Vì vậy, ngài thường xuyên sai người đút lót vàng bạc châu báu cho Hậu Thắng, nhằm thông qua Hậu Thắng để khen ngợi chính sách trung lập của người nước Tề; đồng thời, cũng để lôi kéo Hậu Thắng. Tề Vương rất cảm kích trước thái độ đó của Tần Vương, tuy được Tần Vương nể trọng nhưng cũng sợ hãi ông vua tàn bạo này; vì vậy, luôn luôn làm theo ý muốn của nước Tần trong quan hệ với các nước chư hầu, coi mình như cái đuôi của Tần Vương Chính chỉ đâu đánh đó. Năm thứ sáu niên hiệu Hạng Yên (năm 241 trước Công nguyên), vua nước Sở là An Ly Vương cầm đầu hợp tung các nước chư hầu đánh Tần, các nước Hàn, Nguy, Triệu, Vệ đều tham gia, riêng Tề thì không. May mà năm ấy, Tần đánh bại liên quân. Hậu Thắng khua môi múa mép trước mặt Vương Kiến rằng, nước Tần là đương kim bá chủ, chỉ có thể khuất phục và cầu hòa với Tần, không thể chống lại nước này được; may mà nước Tề không tham gia; nếu không, hậu quả rất khó lường. Tề Vương gật đầu lia lịa nói phải, phải, nước cờ của họ đã đi đúng, dựa vào nước Tần là vững chắc. Về sau, Tề Vương rút ra một quy luật: ăn cây nào rào cây ấy, không đếm xỉa gì đến bất cứ ai khác, dù cho người khác có tan cửa nát nhà như thế nào, chỉ cần bản thân mình yên hưởng phúc lộc là được. Vua tôi nói với nhau như vậy rồi cùng cười ha hả, rất đắc chí.

Sau đó, nước Tần diệt Hàn, Triệu; Tề Vương cũng không hề rút ra bài học để cảnh giác; ngược lại còn cử sứ giả đến Hàm Dương chúc mừng. Tần Vương mời sứ giả của Tề ở lại tham gia lễ mừng công ban thưởng rất long trọng. Lại còn nhờ vị sứ giả này mang về rất nhiều châu báu và báu vật để cảm ơn Tề Vương, thận trọng nhắc lại quan hệ hòa hữu giữa hai nước. Những điều đó làm cho Tề Vương càng thêm yên tâm, chẳng phải lo nghĩ gì đến mọi chuyện, cứ việc hưởng lạc cầu vinh. Năm kia, Vương Tiễn và Lý Tín của Tần đưa quân đánh nước Yên ở Liêu Đông. Hai viên tướng này đưa quân đi qua biên giới của Tề. Tề Vương và Hậu Thắng đích thân đến tận nơi tiếp giáp biên giới để thăm hỏi quân Tần, bày tỏ tình thân thiện. Quân Tần nhiều lần qua lại vùng biên giới phía Bắc của Tề, đều không quấy nhiễu dân Tề, làm cho Tề Vương càng tin lời của nước Tần về quan hệ hòa hữu giữa hai nước.

Nhưng khi nước Sở bị nước Tần tiêu diệt, mà Sở là một nước lớn ở ngay sát nách nước Tề; rồi tiếp ngay đó, Vương Bôn đưa ba mươi vạn quân Tần đột nhập vào Tây Bắc nước Tề. Lúc này, Tề Vương mới giật mình, vội hỏi thừa tướng Hậu Thắng xem cuộc đàm phán giữa ông ta và thừa tướng Vương Oản của nước Tần có kết quả ra sao? Hậu Thắng trả lời rất gian manh rằng thái độ đàm phán của Vương Oản rất thành thật, nước Tần vẫn cam kết hữu hảo với nước Tề. Nhưng, Hậu Thắng cũng nói rằng, vua tôi nhà Tần đều rất xảo quyệt. Nay họ bội tín thất nghĩa, đem quân sang đánh nước Tề, làm cho cả nước Tề ai ai cũng căm giận, tiếp đó còn khuyên Tề Vương cử một sứ giả sang Tần hỏi xem sao. Tề Vương chỉ còn biết thở dài mà nói rằng một khi quân Tần đã sang đánh thì hỏi còn có cái gì nữa! Chỉ còn cách là đưa quân đội ra mà chặn họ lại, đừng để cho họ thấy mình quá yếu hèn mà thôi. Tiếp đó, Tề Vương Kiến và Hậu Thắng đưa hai mươi vạn quân đến bến sông Tề Thủy nghênh chiến quân Tần. Khi họ đến bờ Bắc sông Tề Thủy, thì quân Tần đã bố trí xong trận địa và dựng lều trại ở bên kia sông. Quân Tề cũng tìm vị trí có lợi để dựng lều trại và xây đắp công sự. Vua tôi của Tề vừa mới dựng xong lều trại, thì lính gác đã đưa một viên sứ giả vào, nói rằng có thư của chủ soái Vương Bôn. Thư viết:

Kính gửi bệ hạ Tề Vương Kiến

Mạt tướng là Vương Bôn, phụng chỉ vua Tần đưa quân vào Tề, ý đồ của vua Tần đã rất rõ. Vua Tần nêu cao uy phong của các triều đại nhà Tần, quyết chí tiêu diệt các chư hầu, bình thiên hạ, sáu nước đã diệt được năm. Nay đưa quân đội đến đây là muốn xin bệ hạ dâng nước Tề cho nước Tần, đê dân chúng khỏi bị lầm than, biến gươm đao thành ngọc bội. Sự nghiệp vĩ đại của đại vương nước Tần ta đã định hình, xin phong quý đại vương tước “Tam công” để hưởng vinh hoa hậu lộc.

Tần tướng quân Vương Bôn cúi đầu kính chào.

Tề Vương Kiến xem xong thư, tức giận nói với viên sứ giả: “Nước Tần các ngươi luôn luôn xảo trá giảo quyệt, xé bỏ thỏa ước, phản bội đồng minh, ỷ thế nước lớn, ức hiếp nước nhỏ. Nước ta trước đây đã bị lừa rồi, nay nhất quyết không cam chịu yếu hèn nữa. Quả nhân tuy là vua một nước nhỏ, nhưng cũng không thể dâng xã tắc nghiệp tổ cho kẻ khác được, càng không thể hạ mình làm kẻ bầy tôi. Nước các ngươi dám đến xâm phạm, ta sẽ quyết đánh đến cùng”. Nói xong xé tan bức thư của Vương Bôn.

Vương Bôn cũng đã đoán biết từ trước, vua Tề Vương sẽ không đầu hàng nhà Tần, nên sau khi sai sứ giả đi, đã lập tức tổ chức một đội quân tiên phong gồm thuyền và bè gỗ, chuẩn bị vượt sông tại ba bến thượng, trung và hạ. Bản thân ông ta ngồi ở lán của quân sĩ đi giữa để chỉ huy. Quân Tề cho kỵ binh đi tuần tra ven sông để đề phòng quân Tần vượt sông. Giờ Thìn hôm sau, quân sĩ hai bên đã ăn sáng xong, đều kéo quân ra bờ sông để giao chiến. Quân Tần nghĩ rằng đây là trận đánh lớn cuối cùng trong công việc chinh phục sáu nước, nên họ tỏ ra hết sức anh dũng hăng hái. Còn quân Tề tuy số lượng không ít, vả lại đây là trận đánh quyết định vận mệnh đất nước, cho nên cũng quyết tâm tử chiến. Đáng tiếc là vua tôi của Tề lâu ngày an nhàn hưởng lạc, không hề chuẩn bị chiến tranh, cho nên, về mặt tâm lý, tinh thần và chiến thuật đều kém xa quân Tần. Lúc này, Tề Vương ngồi ở đơn vị trung tâm để đốc chiến nhưng trong lòng luôn cảm thấy rất hối hận và hổ thẹn, vì lực lượng và địa thế của nước Tề vốn mạnh hơn nước Yên rất nhiều. Nước Yên tuy đã bị tiêu diệt, nhưng còn để lại những hình ảnh yêu nước tiêu biểu, oanh liệt anh hùng như Kinh Kha, thái tử Đan, được muôn đời ca ngợi. Còn bản thân ngài là vua nước Tề, nhưng lại bị nước Tần lang sói lừa bịp, bị kẻ bầy tôi thỏ đế huyễn hoặc, đến nỗi làm cho giang sơn đất nước do các vua sáng tôi hiền như Tề Hoàn Công, Mạnh Thường Quân để lại, bị hủy hoại đến mức như vậy, thật là hổ thẹn không muốn sống nữa. Nghĩ vậy, Tề Vương Kiến đem cờ lệnh trao cho Hậu Thắng, rồi tự mình thúc ngựa chạy lên phía trước quân lính, ra sức liều mình chém giết quân địch. Các tướng sĩ quân Tề thấy nhà vua làm gương dũng cảm diệt giặc cũng hăng hái xung phong tử chiến với quân thù. Nhờ vậy, tình hình trận địa quân Tề được giữ vững, quân Tần cũng phải chật vật lắm mới chống trả dược quân Tề.

Nhưng lúc ấy Hậu Thắng đã là nội gián của quân Tần, ông ta nhận được cờ chỉ huy từ tay vua Tề, biết rằng do sự cổ vũ của nhà vua, nên quân Tề đã hăng hái xông lên, tình hình quân Tề sẽ tốt hơn; do đó, ông ta vội ra lệnh thổi kèn thu quân, cốt lập công với quân Tần. Lúc ấy quân Tề cũng đã đến mức khó duy trì tiếp tục giao chiến, nên khi nghe kèn lui quân, bèn lập tức quay đằng sau để rút lui. Tề Vương Kiến vội đứng thẳng người trên yên ngựa, giơ tay kêu gọi mọi người liều chết chiến đấu đến cùng, nhưng đã quá muộn. Ngài cũng thúc ngựa phi nhanh về Lâm Truy. Tại đây, ngài tập hợp một số tàn binh bại tướng, và tuyển mộ được hai vạn dũng sĩ, thành lập đội quân chiến đấu, tiếp tục bảo vệ đất nước. Ngài hỏi Hậu Thắng tại sao thổi kèn thu quân. Hậu Thắng nói rằng vì do thấy có nguy cơ thất bại, nên rút lui sớm, để khỏi bị tiêu diệt toàn quân. Ngài cũng không khiển trách Hậu Thắng nữa. Mặc dù Tề Vương Kiến kiên định giữ vững trận địa, nhưng đã kiệt sức, không thể chống cự nổi sức mạnh to lớn của quân Tần nữa, nên cuối cùng đã phải mở cửa thành đầu hàng quân Tần. Đó là tháng 6 năm 26 niên hiệu Tần Vương Chính.

Vương Bôn và Mông Quát đưa quân Tần hành quân hùng dũng vào kinh đô Lâm Truy của Tề. Vì Tề là nước cuối cùng trong sáu nước bị thu phục, nên vua Tần Vương Chính tiếp thu ý kiến của Úy Liêu, ra lệnh cho tướng sĩ quân Tần khi vào thành Lâm Truy của Tề, phải hết sức giảm bớt việc giết chóc. Các quan lại của Tề đã đầu hàng, đều giúp quân Tần tiếp quản cung đình và các cơ quan triều đình, ra thông cáo cho dân chúng an cư lạc nghiệp, ủng hộ chính quyền đại Tần. Vua Tần sau khi nhận được tin đại thắng của Vương Tiễn và Mông Nghị, liền ra lệnh cho quân Tần đưa Tề Vương Kiến đến sinh sống ở Cộng Thành, một nơi cách không xa Lâm Truy; giao cho địa phương giám sát, đồng thời, cung cấp các thứ cần thiết cho cuộc sống của ông ta. Tần Vương Chính cho rằng Hậu Thắng là một nịnh thần, làm nội gián cho Tần, đóng góp không ít cho Tần; nhưng không trung thành với đất nước mình, là một con người rất nguy hại, nên đã chém đầu. Đến đây, Tề Vương Kiến mới biết rằng mình đã u mê, để cho gian thần lừa bịp đến mức coi kẻ gian nịnh là trung thành; ngài hối hận vô cùng. Không lâu sau ngài tuyệt thực và chết tại một căn nhà lá trong rừng cây tùng bách.

Những người dân trước đây của nước Tề vừa giận vừa thương nhà vua cũ của mình, họ hát rằng:

Tùng bách kia ơi, có thấu chăng,

Có khách Cộng Thành, đấn trú chân.

Họ muốn chế giễu rằng nhà vua cũ của họ u mê vô đạo, đưa nội gián của nước Tần làm trọng thần, kết cục là làm mất nước, bản thân cũng chết thảm tại Cộng Thành.