← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI BA NGÔI CAO TỘT ĐỈNH, XƯNG HOÀNG ĐẾ-ĐẤT NƯỚC BAO LA, CHIA QUẬN HUYỆN-----

Năm thứ mười bảy niên hiệu Tần Vương Chính, vua Tần sai quan nội sử Đằng đưa quân diệt nước Hàn. Năm thứ mười chín diệt nước Triệu. Năm thứ hai mươi hai, đánh diệt nước Ngụy. Năm thứ hai mươi ba, bắt sống vua Phụ Sô của Sở. Năm thứ hai mươi tư, đánh chiếm kinh đô mới của Sở, nước Sở diệt vong. Năm thứ hai nhăm, bắt sống vua Vương Hỷ của nước Yên, và vua Vương Gia của nước Đại, toàn bộ nước Yên bị diệt vong. Năm thứ hai mươi sáu, bắt được vua Tề là Tề Vương Kiến, nước Tề bị diệt. Trong vòng mười năm, Tần Vương Doanh Chính hoàn thành sự nghiệp vĩ đại thống nhất thiên hạ. Sau khi Tề Vương Kiến bị bắt, Tần Vương Doanh Chính không đi đến tận kinh đô nước bị đánh bại để nhận đầu hàng như trước, mà giao cho Vương Bôn đưa Tề Vương Kiến về Cộng Thành, bởi vì lúc đó ngài nghĩ rằng việc quân sự đã xong, phải bắt đầu nghĩ đến việc đại sự khác, đó là chính sách cai trị đất nước.

Mùa thu năm hai mươi sáu niên hiệu Tần Vương, vua Tần triệu tập “Hội nghị quốc sự”. Hơn một trăm văn thần võ tướng đã tham gia hội nghị, trong đó có thừa tướng Vương Oản, quốc úy Úy Liêu, đình úy Lý Tư, ngự sử đại phu Phùng Kiếp. Tất cả đưa bản thảo các quyết sách lớn về quản lý đất nước sau khi thống nhất thiên hạ... Tần Vương Doanh Chính ngồi chính giữa điện, mãn nguyện đắc chí, hớn hở mặt mày. Ngài đưa con mắt sắc bén nhìn đám quần thần một lượt rồi ngạo nghễ nói rằng:

- Mười năm trước, nước Yên nộp ấn ngọc và giao đất đai cho nước ta và còn xin làm chư hầu phiên thuộc, nhưng sau đó đã phản bội nước Tần, hợp tung với Triệu và Ngụy để đánh Tần. Vì vậy, ta phải đưa quân diệt Yên và bắt vua Vương An của Yên. Ta đã tưởng có thể chấm dứt chiến tranh. Nhưng sau đó, vua Vương Thiên của Triệu lại cử tả thừa tướng Lý Mục đến ký hòa ước hữu hảo với Tần. Ta đã cho con tin của họ về Hàm Đan. Nhưng không bao lâu sau, nước Triệu lại phản bội hòa ước, chống lại nước Tần ở Thái Nguyên. Vì vậy, ta lại phải tiêu diệt nước Triệu, bắt sống Vương Thiên của Triệu. Công tử Gia của Triệu tự lập làm vương ở quận Đại, đương nhiên ta phải diệt nốt. Vua nước Ngụy vốn đã thần phục nước Tần, nhưng sau lại hợp mưu với Hàn và Triệu đánh vào nước ta, nên ta phải tiêu diệt nước Ngụy. Vua Vương Hỷ của nước Yên u mê hại nước; thái tử Đan của ông ta sai Kinh Kha định ám sát quả nhân, nhưng cuối cùng đã bị ta xử tử. Vua Tề Vương Kiến dùng nịnh thần Hậu Thắng hại nước hại dân, nên ta đã san bằng nước Tề, bắt Tề Vương Kiến. Quả nhân chỉ là một thân một mình nhỏ bé, nhưng đã cầm quân chu diệt bọn nổi loạn trong nước. Nhờ anh linh của tôn miếu tổ tiên, nên ta đã giành được toàn thắng, tiêu diệt sáu nước chư hầu. Nay thiên hạ đã thống nhất và ổn định, đều do trẫm cai trị cả. Vì vậy, cần phải thay đổi cái tên gọi “Tần Vương” cũ cho tương xứng với thắng lợi vĩ đại mà ta đã giành được, để truyền lại sự nghiệp của ta cho hậu thế. Vì vậy, trước hết phải bàn về việc thay đổi tên gọi, phải danh chính ngôn thuận, mới đầu xuôi đuôi lọt.

Sự việc thật trớ trêu Tần Vương Chính là kẻ đi xâm lược lại tự xưng là chúa cứu thế, còn người bị xâm lược lại bị coi là tên đầu sỏ gây ra tội ác. Trong khi thiên hạ đều hiểu rõ rằng nhà Tần từ thời Hiếu Công (năm 361 trước Công nguyên), Mục Công, Huệ Văn Vương, Vũ Vương, Chiêu Vương cho đến Tần Vương, đều có dã tâm xâm lược nhằm tiêu diệt sáu nước, thôn tính thiên hạ. Vì vậy mà nay Tần Vương Chính coi cuộc chiến tranh hủy diệt mười năm “cướp thành chiếm đất, giết người như ngóe, san bằng tôn miếu các nước chư hầu” gây thương vong ba triệu tướng sĩ, gây tang tóc cho hàng chục triệu gia đình, là công lao hiển hách và vinh quang. Mặc dù Tần Vương xuyên tạc quá trình chiến tranh xâm lược vừa qua; trong đó ông ta đổ lỗi cho người khác, vơ công lao vào mình, huênh hoang khoác lác hết chỗ nói, nhưng hơn hai trăm văn võ bá quan triều đình nhà Tần lúc ấy vẫn hết lời ca ngợi vua Tần. Sau một hồi tranh luận sôi nổi, bèn thống nhất đặt tên hiệu nhà vua là “Thái hoàng”. Tại sao lại đặt tên là Thái hoàng? Sự việc diễn ra như sau: Sau khi nhà vua nói xong và mọi người lên tiếng ca tụng nhà vua, thì các trọng thần: thừa tướng Vương Oản, quốc úy Úy Liêu, ngự sử đại phu Phùng Kiếp và đình úy Lý Tư thay mặt toàn thể triều thần tâu với vua Tần rằng, thời kỳ của năm đời vua đầu tiên của nhà Tần, lãnh thổ lúc ấy không đầy nghìn dặm. Vậy mà các vị vua đó cũng không thể chinh phục được các nước chư hầu và bộ lạc man di mọi rợ ở bên ngoài, chẳng biết họ có thật sự thần phục nhà Tần, hay là đang lừa bịp vua Tần. Nay Tần Vương giương cao ngọn cờ chính nghĩa tiêu diệt các nước chư hầu, thống nhất thiên hạ, thâu tóm lãnh thổ tất cả các nước về một mối, phân chia thành quận huyện, thống nhất luật pháp và thể chế, việc này thật là lớn lao vĩ đại chưa từng có trong lịch sử từ thời thượng cổ đến nay; là sự nghiệp sáng tạo mà “ngũ đế”: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế,vua Nghiêu, vua Thuấn không bao giờ có thể làm được. Thừa tướng Vương Oản, quốc úy Úy Liêu và các trọng thần khác tiếp tục nói rằng, thời cổ đại có tam hoàng là thiên hoàng, địa hoàng và thái hoàng là chúa thượng tối cao. Vì thế liều chết xin kiến nghị với nhà vua, nên đổi tên hiệu “Tần Vương”, thành “Thái hoàng”.

Nhưng Tần Vương vẫn chưa vừa lòng với tên gọi “Thái hoàng”. Ngài nói có thể bỏ chữ “thái”, để lại chữ “hoàng”. Vả lại, ngài cho rằng công lao to lớn thống nhất thiên hạ là điều mà “ngũ đế” không thể làm được, vậy có thể dùng thêm chữ “đế”, gọi là “hoàng đế”, có nghĩa là “Bao hàm đức độ của tam hoàng, gộp cả công lao của ngũ đế”. Như vậy mới tương xứng với danh hiệu của mình hiện nay!

“Bệ hạ anh minh như thánh, hãy dùng danh hiệu hoàng đế mà bệ hạ đã tự mình quyết định; như vậy mới thật sự thể hiện một cách toàn diện sự sáng suốt và vĩ đại chưa từng có và sau này cũng không thể có của bệ hạ.” Toàn thể triều thần đều đồng thanh tán thưởng và ca ngợi Tần Vương sau khi ngài đã tự mình đề cao mình lên tận mây xanh. Đương nhiên, những lời tán thưởng của triều thần chủ yếu cũng là nịnh hót, bợ đỡ để làm vừa lòng tâm lý ngạo mạn của Tần Vương mà thôi.

Lúc này, đình úy Lý Tư, một con người rất giỏi phán đoán và phụ họa theo ý đồ của nhà vua, đã nhún vai rón rén tách ra khỏi hàng, quỳ xuống và tâu với Tần Vương Chính rằng nay danh hiệu “Hoàng đế” đã được xác định, vậy rất nhiều từ ngữ khác cũng phải được quy định theo một khuôn mẫu chuyên dùng, để thích ứng với danh hiệu tôn nghiêm tối cao là “Hoàng đế”.

Nhà vua rất mừng và hỏi Lý Tư nên cần đặt những từ ngữ chuyên dùng nào?

Lý Tư bèn đề nghị từ nay các chỉ thị nói chung của hoàng đế, không gọi là “mệnh” (lệnh) nữa, mà gọi là “chế”; các chỉ thị chuyên môn không gọi là “lệnh” nữa, mà gọi là “chiếu”. Như vậy sẽ quy phạm và tôn nghiêm hơn.

Ngự sử đại phu Phùng Kiếp cũng cẩn thận nêu kiến nghị nói rằng chữ “trẫm” chỉ dành riêng cho hoàng đế, những người khác không được dùng.

Tần Vương mỉm cười và đồng ý với kiến nghị của hai đại thần Lý Tư và Phùng Kiếp, lập tức viết biên bản và yêu cầu các đại thần dự họp hôm đó phải chấp hành nghiêm chỉnh.

Tần Vương Chính rất say sưa với danh hiệu “Hoàng đế” đã được toàn thể triều thần ủng hộ. Ngài nghĩ rằng sở dĩ ngài được như hôm nay, đều là nhờ kế thừa ngôi vị của phụ vương là Trang Tương Vương và nhờ nêu cao cơ nghiệp sáng ngời của tổ tông. Vì vậy, uống nước nhớ nguồn, cần phải truy phong cho phụ vương một danh hiệu cao quý tương xứng. Nghĩ vậy, ngài bèn nói:

- Trẫm đã đổi danh hiệu là hoàng đế, vậy tiên vương cũng cần được truy phong là “Thái thượng hoàng”, các khanh thấy thế nào?

Thừa tướng Vương Oản nói rất cẩn trọng rằng:

- Tâu bệ hạ danh hiệu của tiên vương Trang Tương Vương là ghép hai tên: Trang Vương là tên có từ trước, Tương Vương là “tên thụy”, được đặt sau khi ngài đã mất. Nay nếu gọi là thái thượng hoàng thì bỏ mất hai chữ “Trang Tương” hay sao?

Tần Vương Chính nghiêm sắc mặt nói rằng:

- Trẫm nghe nói từ thời thượng cổ, các đế vương chỉ có hiệu, không có “tên thụy”. Đến thời trung cổ, các đế vương vừa có tên lúc sinh thời, lại còn có danh hiệu được đặt sau khi mất, gọi là “thụy”. Như vậy là để cho con cái bình luận về cha mình, để cho bề tôi bình luận về quân chủ. Như vậy không đúng. Vì thế, ta chủ trương truy phong tiên vương là thái thượng hoàng, để chứng tỏ đó là phụ thân của trẫm, và không thêm vào đó bất cứ bình luận nào của người đời sau nữa.

Quốc úy Úy Liêu và ngự sử đại phu Phùng Kiếp sợ sệt hỏi:

- Tâu bệ hạ, nếu bỏ tên thụy đi thì làm sao phân biệt được đời vua trước và đời vua sau?

Tần Vương Chính cười sảng khoái nói rằng:

- Các khanh cứ nghĩ mà xem, từ thời cổ đại các vị quân chủ hiền minh, nhiều lắm thì cứ 30 - 40 năm lại thay đổi và lại có một tên thụy mới, nghĩa là có một vị vua qua đời là có một tên thụy. Ngay cả các vị vua anh minh như thánh hiền: Nghiêu, Thuấn, Ngu, Thang, Văn, Vũ, đức độ và cơ nghiệp vĩ đại của các ngài truyền lại cho đời sau kế ngôi các ngài, cũng chỉ hai mươi ba mươi đời là cùng. Nhưng sau khi nhà vua mất lại truy phong tên thụy, như là Hiếu, Mục, Chiêu, Tương, Văn, Vũ, v.v... Số chữ rất có hạn, làm cho tên thụy của tổ tiên, cha ông, con cháu, nhiều khi trùng lặp và giống nhau [i]. Nhưng sự nghiệp của trẫm phải truyền đến vạn đời, mà tên gọi không thể trùng lặp...

Úy Liêu và Phùng Kiếp vẫn nói:

- Chữ Hán tổng cộng chỉ có mấy nghìn, vậy thì một vạn đời vẫn không thể không trùng lặp.

- Các ngươi không biết suy nghĩ gì cả - Nhà vua cười đắc chí và nói - Cứ lấy trẫm làm ví dụ, nay lấy con số để gọi là 'Thủy hoàng đế” (thủy là khởi thủy, bắt đầu, cũng có nghĩa là số một) tiếp theo là “nhị thế”, “tam thế”... cho đến “vạn thế”. Như vậy làm gì có trùng lặp.

Triều thần nghe nhà vua nói vậy, lại tung hô một loạt những lời tán thưởng xu nịnh:

- Thánh thượng thật sáng suốt thông minh, dùng con số để ghi chép sự tiếp nối liên tục của các đời và các triều đại. Thật là đơn giản hết sức, vừa tiện cho các quan chép sử, mà dân chúng cũng dễ hiểu dễ nhớ!

Nghe những lời ca tụng ấy, nhà vua càng đắc chí, ngài cảm thấy thỏa mãn, vì hôm nay toàn bộ triều thần đều rất nhất trí với những danh hiệu cao quý do ngài nêu ra. Do đó, có thể thấy địa vị có quyền uy tuyệt đối của ngài đã được củng cố. Hơn nữa, cũng cho thấy cái đế quốc đại Tần thống nhất do ngài sáng lập, bắt đầu từ nay do ngài làm hoàng đế đầu tiên, sau đó truyền đến nhị thế, tam thế... vạn thế. Do vậy ngài xuất phát từ chữ “thủy” để triển khai tư duy. Ngài nghĩ rằng sự nghiệp vĩ đại của mình là “không tiền khoáng hậu”, là “bao hàm đức độ của tam hoàng, gộp cả công lao của ngũ đế”. Vậy thì, về các mặt khác như thể chế quốc gia, luật pháp lễ nghĩa, quan hệ giữa trung ương và địa phương, cơ chế quản lý từ trên xuống... đều phải khác hẳn các triều đại trước, khác hẳn với truyền thống. Như vậy mới thể hiện được rằng: Mọi cái đều bắt đầu từ ta đây! Thủy Hoàng! Thủy Hoàng! Thủy Hoàng! Thật là vạn sự khởi đầu nan! Nhưng đó chỉ mới là suy nghĩ sơ bộ của mình, chưa có một cái khung và quy phạm rõ ràng; còn cần phải suy nghĩ cụ thể hơn, quy định chi tiết hơn, mới có thể thực thi được. Nghĩ đến đây, ngài bèn vui vẻ nói với mọi người:

- Buổi thiết triều hôm nay đã giúp trẫm định danh hiệu tôn kính là “Hoàng đế”, đặt ra các chuyên ngữ: “chế”, “chiếu”, làm rõ mối quan hệ giữa ngôi chính và ngôi phụ, giữa địa vị cao thấp... Đặc biệt là chúng ta đã xóa bỏ các “tên thụy” và dùng con số để ghi chép các triều đại. Tất cả đều chứng tỏ rằng mọi việc đều bắt đầu từ trẫm. Điều này cho thấy sự tôn sùng và ủng hộ của các khanh đối với trẫm, làm cho trẫm cảm thấy rất vui, còn việc thay cũ đổi mới thể chế quốc gia và lễ nghi, pháp luật, trẫm đang còn suy nghĩ thêm, mong các khanh cũng xuất phát từ cục diện “đại nhất thống” để suy nghĩ lần thiết triều sau sẽ bàn tiếp, hôm nay đến đây bãi triều.

Quần thần lại tung hô: “Chúng thần tuân chỉ! Quân chủ vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”.

Nhà vua cũng trở về cung của mình với tâm trạng rất thoải mái, tự mãn, tự đắc. Ngài tiếp tục suy nghĩ rất nhiều để có thể đi sâu cải cách hơn nữa. Ngài nghĩ rằng mình đã có danh hiệu tôn quý là “Hoàng đế” rồi, vậy phải làm sao cho cái quốc gia đại thống nhất này cũng bắt đầu một “Kỷ nguyên hoàn toàn mới, hết thảy đều đổi mới”. Kể từ hôm nay trở đi, khi bắt đầu thực thi những tên gọi mới, ngài cảm thấy chế độ và quan niệm cũ đã trói buộc con người như thế nào. Ngài quyết tâm phấn đấu đến cùng để phá bỏ sự ràng buộc đó. Ròng rã trải qua mười năm trời mới tiêu diệt được sáu nước, thống nhất thiên hạ, nhưng đó chỉ mới là bước đầu tiên. Tiếp theo đây, phải xây dựng một quốc gia hoàn toàn mới như thế nào trên đống tro tàn của chiến tranh đầy máu và lửa. Đó thực là một vấn đề rất nan giải. Nay nhất quyết không thể bước theo vết xe đổ của thời kỳ chiến tranh liên miên nhận chìm dân chúng trong nước sôi lửa bỏng trong hàng trăm năm, từ triều đại nhà Chu cho đến Xuân Thu Chiến Quốc như trước đây nữa! Nhưng thể chế và bộ mặt của cái nhà nước mới này, phải như thế nào? Cái quyền uy tuyệt đối của mình sẽ được thể hiện ra sao trong thể chế mới và trong các quy định, chế độ mới? Ngài suy nghĩ nhiều lắm, nhưng vẫn chưa tìm ra lời đáp. Hôm ấy nhà vua còn tư lự trong phòng riêng ở cung Hàm Dương, thì Triệu Cao đưa hai vị lão thần đến. Ngài ngước mắt nhìn, liền vội vàng vui vẻ đứng dậy nghênh đón. Đó là Vương Tiễn và Mông Vũ.

- Lão thần Vương Tiễn, Mông Vũ khấu kiến hoàng đế vạn tuế! - Hai vị lão thần quỳ xuống vái lạy Tần Thủy Hoàng.

- Các lão ái khanh, hãy mau đứng dậy đi! - Thủy Hoàng vội đến đỡ hai lão tướng đứng dậy.

- Nghe tin hôm trước thiết triều, quần thần đã nhất trí ủng hộ tôn vinh thánh thượng danh hiệu “Thủy Hoàng”. Đó thực là nơi quy tụ của muôn dân, là cái phúc của trăm họ, nên hạ thần vội đến chúc mừng! - Mông Vũ chắp tay cung kính chúc mừng nhà vua.

- Quả nhân chỉ một mình một thân nhỏ bé nhưng nhờ có các khanh, nên trong mười năm chinh chiến, đã đem lại hòa bình, bốn biển đồng tâm, muôn dân hưởng phúc. Hai vị lão tướng quân cầm quân nơi chiến trường, luôn luôn chiến thắng, bình định giang sơn, công lao vĩ đại, trẫm và triều đình nức lòng khen ngợi. - Thủy Hoàng cảm ơn và khen ngợi hai vị lão tướng.

Vương Tiễn nói rất xúc động và khiêm tốn:

- Hạ thần chỉ là một vũ phu, chen chân vào hàng ngũ phụng sự tiên vương và bệ hạ trong mấy chục năm, chẳng mấy công lao, đức độ rất mỏng, nhưng được sủng ái. Nay vì già yếu, không thể theo hầu bệ hạ, xin được ân chuẩn, về quê dưỡng lão. Trước khi tạm biệt, đến chào bệ hạ, ơn sâu nghĩa nặng, muôn đời ghi nhớ!

Thủy Hoàng cũng rất xúc động, ngài nói rất thân tình:

- Trẫm từ nhỏ đã nắm triều chính, chú trọng võ công. Nhờ các tướng lĩnh cầm quân ra trận, chinh phục chư hầu, dẹp bằng sáu nước, mở rộng lãnh thổ, thêm nghìn vạn dặm. Nhưng binh đao khói lửa cũng làm chết hàng vạn sinh linh, gây bao thảm khốc đau thương. Mỗi khi nhìn thấy tình cảnh ấy, thì ngay dù say mê đao kiếm như trẫm cũng không cam lòng.

- Bệ hạ nói rất phải. Ngay cả lăn lộn nơi chiến trường lâu năm như hạ thần và Vương tướng quân đây, cũng đâu có phải vì say máu chiến tranh. Nhưng các nước chư hầu luôn luôn thôn tính lẫn nhau, phản bội đồng minh, gây sự khiêu khích, đất nước không một ngày bình an, dân chúng không một ngày yên ổn. Cho nên hạ thần phải tham gia chiến tranh, là muốn bình dẹp gươm đao, tự coi mình có trách nhiệm phải loại trừ tội ác; chứ không phải là vì hiếu chiến và muốn làm hại dân chúng. - Mông Vũ cũng nói lên quan niệm của mình đối với chiến tranh.

- Lão thần trước đã xin nghỉ về quê rồi, nhưng vì Lý Tín đánh thua, nên vinh dự được bệ hạ đích thân đến gọi, lại mang giáp cầm giáo, phụng mệnh ra chiến trường. May mà không phụ lòng bệ hạ, đã chiếm được Yên, diệt được Tề, hoàn thành việc thống nhất thiên hạ. Hôm nay đến chào bệ hạ để về quê. Nhưng mong rằng từ nay sẽ có thể cởi bỏ áo giáp để yên hưởng thái bình. Được vậy lão thần sung sướng vô cùng, muôn dân hạnh phúc vô cùng. - Một lần nữa, Vương Tiễn bày tỏ với nhà vua nguyện vọng hòa bình của mình và của mọi người.

- Sáu nước đã được dẹp yên, thiên hạ đã thống nhất, võ công đã hoàn tất. Trẫm cũng chuyển sang chính sách trị quốc, để dân được sống sung túc và xã tắc được bình an. Hai vị lão tướng cứ vinh quy bái tổ, từ nay cứ yên tâm thừa hưởng cái luân thường đạo lý của vợ chồng con cái anh em, mãi mãi thái bình.

Qua những lời nói của hai lão tướng, Thủy Hoàng cảm nhận sâu sắc rằng họ khao khát hòa bình. Ngài càng cho rằng từ nay không thể tái diễn cái bi kịch của các cuộc chiến giữa các nước chư hầu. Vì vậy, ngài hứa rất trịnh trọng với hai vị nguyên lão.

- Nhà vua nói vậy có thật không? - Hai vị lão tướng lại hỏi ngài rất nghiêm túc.

- Vua không nói đùa. Trẫm thề sẽ bỏ cũ đổi mới, cố gắng trị nước yên dân, nhất quyết không phụ lòng hai vị lão tướng đã gửi gắm biết bao hy vọng. - Thủy Hoàng bày tỏ quyết tâm và lòng tin đối với việc cai trị đất nước thật tốt.

- Được thiên tử hứa hẹn bằng lời vàng ý ngọc như vậy, lão thần yên tâm lắm thay. - Hai vị lão tướng cáo từ. Trước lúc ra về còn cao giọng ngâm nga rất rắn rỏi, nhưng thân tình:

Thờ vua hai đời, chinh chiến quanh năm,

Cởi giáp, khó quên gươm đao lẻng xẻng.

Nay đem kích kiếm đúc rèn lưỡi cày,

Thủy Hoàng ban phúc, từ nay thái bình.

Thủy Hoàng cũng rất xúc động. Ngài cũng ngâm một bài theo đúng luật âm tiết:

Ta nên uy vũ, công tại tướng quân,

Thiên hạ nhất thông, muôn dân hưởng phúc.

Vua tôi xa biệt, lưu luyến muôn tình,

Từ nay xoay chuyển, “văn trị” phồn vinh.

Hai vị lão tướng nước mắt lã chã, một lần nữa cáo biệt ra Thủy Hoàng tiễn chân hai vị lão tướng ra tận cửa ngóng nhìn theo khá lâu cho đến khỉ khuất hẳn. Ngài về phòng, đi đi lại lại trầm ngâm suy nghĩ, thấy thấm thía những lời nói của hai lão tướng, cảm nhận được nỗi đau thương tang tóc mà chiến tranh đã gây ra cho nhân dân và đất nước. Đến nỗi, ngay cả những người anh hùng hảo hán được tôi luyện mấy chục năm trong khói lửa mà cũng khao khát hòa bình, cầu mong yên ổn như vậy. Ngài thấy mình cần phải nắm vững quyền lực trong tay, nhất quyết không để cho quyền lực bị phân tán hoặc biến thành những cuộc tranh giành quyền binh để rồi gây ra những bi kịch binh đao máu lửa, làm nguy hại đến việc củng cố chính quyền, ổn định xã tắc và phồn vinh kinh tế. Nghĩ vậy, nhà vua bèn sai Triệu Cao mời Lý Tư và Phùng Kiếp vào bàn thảo cụ thể. Ngài nói với Lý Tư và Phùng Kiếp tất cả những điều mà Vương Tiễn và Mông Vũ vừa nói. Ngài nói rất trịnh trọng:

- Thiên hạ đã thống nhất, muôn dân đều mong hưởng thái bình thịnh trị. Nhưng không rõ những điều đã được bàn định hôm trước, dư luận trong ngoài có gì mới, mong hai khanh nói cho trẫm biết.

Lý Tư nói:

- Từ khi có chiếu dụ của hoàng đế, bỏ tên gọi “Tần Vương” dùng danh hiệu “Thủy Hoàng Đế”, tất cả hoàng gia và triều thần đều chân tình ủng hộ. Ai ai cũng chúc mừng, ca tụng công lao vĩ đại không tiền khoáng hậu của bệ hạ. Thật là, ngay cả “tam hoàng”, “ngũ đế” cũng không theo kịp. Điều này đủ để chứng tỏ đức độ của tổ tiên đại Tần và công lao hiển hách của các bậc tiên vương, đều tập trung vào một mình bệ hạ. Như vậy nhất định có thể mang lại phúc đức cho đương đại.

Tần Thủy Hoàng nghe vậy, rất vui và bằng lòng lắm. Ngài gật đầu và nhân tiện cũng khen hai người:

- Sở dĩ trẫm có ngày hôm nay, là nhờ có cơ nghiệp của tổ tông và bản thân trẫm cố gắng, nhưng cũng nhờ có sự phụ tá của quần thần văn võ. Hai khanh cũng có công đấy chứ!

- Được phụng sự thời thế cường thịnh, giúp được việc cho minh quân, thực là cái may mắn “ba dời ba kiếp” của hạ thần. Nay được thánh ngôn ban khen, cảm thấy hết sức vinh hạnh. Nhưng gần đây, qua nghe ngóng dư luận trong ngoài cung đình, từ trên xuống dưới đều có hiện tượng chúc mừng lẫn nhau, ai ai cũng trông ngóng và đinh ninh rằng sẽ được bệ hạ ban thưởng ân sủng rất nhiều. - Phùng Kiếp nói.

- À việc bình công ban thưởng là chuẩn mực mà các đời đều làm. Trẫm cũng sẽ làm. Nhưng tại sao mọi người lại nôn nóng chờ đợi, trông mong cấp thiết như thế? - Nhà vua mỉm cười nói.

- Những người nôn nóng muốn được hưởng lợi vì có lập công. Họ suy nghĩ như vậy, kể cũng có tình trạng đó, có thể hiểu được. Nhưng có người kỳ vọng quá cao, phần nào không đánh giá đúng chính mình. - Phùng Kiếp vội bổ sung.

Thủy Hoàng nghe ông ta nói có dư luận như vậy, bèn hỏi tiếp:

- Ồ! Có sự việc như vậy hả? Mau nói cho trẫm nghe!

Phùng Kiếp bèn kể thật mọi chuyện:

- Hôm trước, có nhiều người thuộc vào bậc cha chú và anh em tôn thất của bệ hạ đã đến phủ nha của vi thần, hỏi vi thần về chuyện bàn định ở buổi thiết triều trước. Vi thần đã nói rõ đầy đủ cho các vị ấy, và còn đem sổ ghi biên bản cho họ xem nữa.

Tần Thủy Hoàng vội ngăn lại, hỏi:

- Nói cho họ biết những việc đó, còn được. Sổ ghi biên bản, việc gì phải đưa cho họ xem?

Phùng Kiếp chẳng biết làm thế nào nữa, chỉ ngửa hai tay nói rằng:

- Đấy là hoàng thúc, là bậc bề trên của bệ hạ, tự mình đến tận nơi để xem xét, vi thần sao dám trái lời.

Tần Thủy Hoàng cười cay đắng:

- Như nhà ngươi nói, thì không đáng trách nữa. Nhưng không biết những người ấy xem xong rồi, họ nói những gì?

Phùng Kiếp sợ hãi nói:

- Các vị trong hoàng thân vương thất xem xong sổ ghi sự việc, lập tức cười ha hả, họ chúc mừng lẫn nhau và nói rằng trong thời gian qua, bệ hạ chỉ chuyên tâm vào chiến công, để chểnh mảng việc nội chính, đến nỗi các hoàng thân tôn thất bị coi rẻ rúng, lạnh nhạt, nhưng họ cũng không dám lên tiếng. Nay sáu nước đã bị diệt vong, giang sơn đã thống nhất, bệ hạ đã được tôn vinh là “Thủy Hoàng đế”; khắp thiên hạ không nơi nào là không phải thần dân của nhà vua, khắp bốn biển không nơi nào là không phải đất đai của nhà vua (“phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thần; soái thổ chi tân, mạc phi vương thổ”) [ii]. Bệ hạ muốn cai trị đất nước nghìn vạn dặm này, thì lãnh thổ của sáu nước cũ kia, phải giao cho các “quân” đứng đầu tự trị. Đã là hoàng thân, đương nhiên phải gánh vác trách nhiệm. Nói xong, họ liền phân công nhau, người này đến nước Hàn nước Triệu, người kia đến nước Tề nước Sở, người nọ đến nước Ngụy nước Yên, người nào cũng rất thông thuộc các nước này. Họ bàn định xong, chỉ chờ đến phiên thiết triều lần sau là họ sẽ đề nghị bệ hạ sắc phong...

Phùng Kiếp nói chưa dứt lời, nhà vua đã trách Phùng Kiếp:

- Họ dám tự phân công như vậy, thật là quá phạm thượng. Người là trọng thần của trẫm, sao cứ giấu giếm không báo, để họ làm càn?

- Họ đều là hoàng thân tôn thất của bệ hạ, đều nắm vững con người nội chính cung đình, vi thần chỉ là bầy tôi mang họ khác, sao dám can dự vào việc của họ. Huống hồ chế độ phong đất cho chư hầu đã được thực hành từ lâu đời, vi thần nghĩ rằng đây là việc làm muôn thuở, chẳng có gì mới lạ, nên mới không tấu trình, để khỏi làm nhàm tai bệ hạ. - Phùng Kiếp trả lời như có vẻ bị oan.

- Nói cái gì là việc làm muôn thuở? Đó là gây rối chính trị, cướp đoạt chính quyền! - Nhà vua bỗng đập mạnh tay xuống rồi đứng phắt dậy.

Lý Tư ngồi bên cạnh nghe suốt từ đầu, vội tiếp lời:

- Bệ hạ nói rất phải. Các vị hoàng thân quốc thích ấy, ngày thường thì ngồi mát ăn bát vàng, chẳng phải lo nghĩ gì. Trước đây họ đã nói gièm pha để huyễn hoặc bệ hạ, đến mức có lệnh đuổi người nước ngoài, hầu như làm tổn thương đến nhiều người hiền tài, phá hoại triều chính. Nay họ lại tham lam quá đáng, tùy tiện sắc phong, thật là rắp tâm làm bậy, làm nguy hại đến kỷ cương triều đình. Theo vi thần, trong các khanh tướng văn võ cũng có không ít người vẫn muốn phong đất theo chế độ từ thời nhà Chu, mong bệ hạ sớm trừng trị. Nếu để cho những người ấy nắm được quyền thế, thì rất khó xoay chuyển.

Nhà vua nghiêm sắc mặt nói:

- Không ngờ phương lược của trẫm chưa thành mà bọn họ đã nhao nhao hạch sách, đòi hỏi, ép người ta quá đáng. May mà trẫm đã có suy nghĩ về việc thay đổi cũ mới, các khanh chuẩn bị tham gia ý kiến, để cho nó được hoàn thiện. Hôm nay bàn thảo thật kỹ, thì sau này mới vận hành thuận lợi, có kết quả.

Tối hôm đó, nhà vua giữ Lý Tư và Phùng Kiếp ở lại cung Hàm Dương để nghiên cứu rất kỹ về những ý tưởng của ngài về thể chế quốc gia, chuẩn bị đưa ra hội nghị triều chính lần sau.

Ba hôm sau, nhà vua lại chủ trì cuộc họp triều chính tại điện lớn trong cung Hàm Dương. Ngoài các đại thần văn võ lần trước, nay có thêm mười mấy vị thuộc bậc bề trên của nhà vua, gồm hoàng thúc Tử Khang, v.v... Nhà vua phát biểu để trưng cầu ý kiến:

- Lần trước, mọi người đã bàn bạc và thống nhất về danh hiệu của trẫm, về việc bỏ tên thụy và truy phong danh hiệu thái thượng hoàng. Như vậy là kể từ đời trẫm trở đi, tất cả các đời vua sau sẽ gọi bằng con số, cho đến nghìn vạn đời. Điều đó cho thấy vua tôi chúng ta đồng tâm nhất trí, chấn hưng kỷ cương, trẫm rất mừng vì được dùng danh hiệu “Thủy Hoàng đế” để bao quát toàn thiên hạ. Nay việc dùng võ đã xong, phải chuyển sang văn trị. Nhưng “văn trị” như thế nào và làm thế nào để chính sách thông suốt từ trong triều ra ngoài xã tắc, thực hiện được việc yên dân? Trẫm mong các khanh bàn bạc thật kỹ.

Thừa tướng Vương Oản nói đầu tiên:

- Bệ hạ đại lược hùng tài, nhất thống thiên hạ, tiêu diệt sáu nước, triệt hạ chư hầu. Bản đồ đại Tần ta nay đã mở rộng. Nơi gần như Hàn, Triệu cũng đã lớn gấp bội nước Tần cũ; nơi xa như Yên, Tề, Sở đất vừa rộng, vừa xa, e rằng từ kinh kỳ đến đó quá xa xôi, không với tới. Nếu không phong vương sẽ khó quản lý. Vậy xin lập các con của bệ hạ làm vương, thay hoàng đế quản lý các nơi đó. Một nước lớn, cần phải làm như thế. Xin bệ hạ chấp nhận.

Kiến nghị này vừa được nêu ra, liền được một số người tán thành. Trong đó, có người nói.

- Thừa tướng ngồi trên ghế cao có tầm nhìn bao quát, lại ở gần triều đường, nhìn xa trông rộng; quan tâm đương thế, lo chuyện nghìn năm. Xin phong cho các hoàng tử đứng đầu các nước chư hầu cũ. Làm như vậy nhất định quốc vững nước bền, dân giàu nước mạnh. Thừa tướng thật là cao kiến, trù tính trường cửu, xứng đáng là bậc đại tài.

Vương Oản thấy nhiều người tán thành ý kiến của mình như vậy, cảm thấy rất mừng. Ông ta tự cho rằng mình giúp vua nắm quyền triều chính ngày đêm lo nghĩ, không có việc gì là không xuất phát từ lợi ích của nhà vua và xã tắc. Nay được đa số đồng liêu đều tán thành kiến nghị của mình, chắc là nhà vua cũng chấp nhận. Bởi vì phong cho các con của ngài đứng đầu sáu nước cũ chẳng phải là phù hợp với ý muốn của nhà vua là phải củng cố chính quyền của mình đó sao? Nghĩ đến đây, ông ta cố nén bộ mặt tự đắc của mình, đưa mắt nhìn thẳng vào nhà vua, những tưởng rằng nhà vua sẽ vui mừng khẳng định chủ trương của mình. Nhưng ông ta thấy nhà vua lại nhìn ông ta bằng con mắt sáng quắc khác thường. Ông bất giác giật mình. Nhà vua đưa mắt nhìn qua Vương Oản, nhưng không có biểu hiện gì rõ rệt. Ngài nói:

- Vừa rồi thừa tướng Vương Oản đã nói, các khanh có ý kiến gì không?

- Hạ thần Phùng Kiếp khởi tấu bệ hạ. - Phùng Kiếp bước ra khỏi hàng, vái lễ nhà vua, rồi tiếp tục nói cung kính - Vi thần cho rằng đại Tần ta sở dĩ cố công gắng sức suốt mười năm, trải qua trăm nghìn trận đánh, mới diệt được sáu nước, bình định được thiên hạ, đó là do các nước chư hầu xưa nay cứ xâm chiếm lẫn nhau, binh đao liên miên, dìm dân trong nước sôi lửa bỏng, sinh linh điêu tàn. May mà chúa thượng ta uy phong như thần thánh, quét sạch bọn ác nghiệt, mới có thiên hạ thái bình hôm nay. Nếu lại khôi phục việc phong vương, e rằng tình trạng tranh giành quyền binh và đánh chiếm đất đai lại tái phát, kết quả trái ngược với chủ trương phong vương cho con để phân hưởng, phân trị. Cúi xin bệ hạ xem xét kỹ.

Nhà vua nghĩ rằng may mà mấy hôm nay ngài có nắm được tình hình của những kẻ đang khư khư giữ lấy cơ chế cũ nên đã có sự chuẩn bị đối phó. Vì vậy mới có ý kiến phản bác của ngự sử đại phu Phùng Kiếp. Nếu không, bản thân ngài sẽ rơi vào thế bị động.

- Đại phu nói sai rồi! - Hoàng thân Tử Khang, chú vua đột ngột đứng dậy và trách mắng rất to, tiếp đó vừa thở vừa nói - Phong vương dựng nước, chia đất chư hầu, là chế độ từ thời Chu Công - Vũ Vương, ngài chia đất phong “hầu” cho mười tám người con và công thần danh tướng, cứ thế truyền từ đời này sang đời khác, phồn vinh phát dạt. Sự cường thịnh của các chư hầu là truyền thống của nhà Chu tồn tại 800 năm qua, huy hoàng biết bao! Nay Thủy Hoàng đế của chúng ta có trong tay bốn biển thiên hạ. Vậy thì các hoàng tử phải được phong vương, các hoàng thân tôn thất như ta phải được ban đất phong “hầu”, phân chia các phiên trấn, để bảo vệ cơ nghiệp của đại Tần ta được trường tồn vĩnh cửu, bền vững nghìn năm. - Nói xong ngẩng đầu vuốt râu, ra cái vẻ đắc thắng.

Nhà vua nhìn ông chú Tử Khang bằng con mắt lạnh lùng, ngài thầm nghĩ rằng, chính ông chú này năm nào đã xúi giục ngài đuổi khách khanh, hầu hết những người hiền tài đều bị oan uổng, gây rối loạn triều chính. Nếu không có Lý Tư can gián, kịp mời các khách khanh quay lại, thì hậu quả không tài nào giải quyết tết được. Nay lại xằng bậy đòi chia đất phong vương, chẳng qua đó chỉ là phân chia quyền lực, tự lập làm vương, rồi đứng ra kình địch với ta để cho họ đạt được ý đồ của họ. Như vậy thì cái giang sơn phải mất bao xương máu mới được thống nhất này, lại nhanh chóng bị chia năm xẻ bảy, rồi lại tranh giành chém giết lẫn nhau. Nghĩ vậy, ngài muốn khuyến khích để Lý Tư nói tiếp. Nhưng ngài vẫn tỏ ra rất bình thường. Ngài hỏi:

- Các khanh còn có ý kiến gì nữa không?

Lý Tư lập tức tiếp lời nói ngay:

- Xin bệ hạ cho phép. - Rồi ông ta nói một mạch, đâu vào đấy - Những gì hoàng thúc vừa nói, thật là sai lầm. Trước đây, vua Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu tôn trọng tôn thất, tin cậy các trọng thần, đem đất đai của thiên hạ ban phát cho các thái tử họ Cơ và các công khanh văn võ. Mặc dù các hoàng thân quốc thích đã có phần của mình, nhưng cục diện cũng chỉ ổn định trong một thời gian rất ngắn. Sau một thời gian thực thi, các tôn thất dần dần chia rẽ, mâu thuẫn và xung đột lẫn nhau giữa những người ruột thịt; những người có quyền hành (ở các địa phương) thì ngạo mạn, chiếm cứ một phương để chống lại quân chủ. Họ sẵn sàng gây chiến tranh để bảo vệ lãnh thổ của mình. Do sự phân chia đất dai như vậy, nên cuối cùng chia thành 800 chư hầu, nước lớn xâm chiếm nước nhỏ, nước nhỏ bị nước lớn xâu xé, không có một ngày nào được yên ổn. Sau đó là đến thời kỳ “Ngũ Bá” của Xuân Thu, Thất Hùng của Chiến Quốc, đều chiến tranh liên miên, binh đao hỗn chiến, rồi Đông Chu và Tây Chu liên tiếp bị diệt vong. Lịch sử của cả một thời đại đó, đáng để rút ra bài học lắm thay. Nay thánh thượng của chúng ta nêu cao tấm gương oanh liệt của các đời tiên vương nhà Tần, nhìn xa trông rộng để làm chủ nội tình. Mười năm chinh chiến dẹp bình sáu nước, thiên hạ hôm nay được thống nhất, thật là không dễ dàng chút nào. Nếu bây giờ lại chia đất phong vương, chẳng phải là lại bước theo vết xe đổ của thảm trạng chiến tranh liên miên giữa các chư hầu đó sao?

Thừa tướng Vương Oản và hoàng thúc Tử Khang tức giận oán trách rằng:

- Nếu không chia đất phong vương, thì đất nước vạn dặm, trăm nghìn thành ấp này, làm sao có thể điều hành để thống nhất thành một thể được? Như vậy sẽ còn khó khăn hơn nhiều so với việc chia đất phong vương. Chẳng hiểu đình úy Lý Tư có hiểu không?

Lý Tư còn định bác bỏ lại họ, nhưng nhà vua đã khoát tay rất mạnh và nói sang sảng:

- Những điều đình úy nói, rất hợp ý trẫm. Nhà Chu kể từ khi chia đất phong vương, nước lớn ức hiếp nước nhỏ, kẻ mạnh xâm chiếm kẻ yếu; người nào cũng có quyền binh trong tay, thiên tử chẳng quản được họ nữa. Tám trăm năm máu chảy đầu rơi, người dân khổ sở biết bao. Quả nhân nhờ có được phúc lộc của tổ tông, kế thừa cơ nghiệp, cũng đã từng chia đất phong hầu, nhưng rồi Lao Ái làm phản ở cung Kỳ Niên, Lã thừa tướng mưu phản ở Lạc Dương. Chẳng phải là do việc chia đất phong hầu mà gây ra tai họa đó sao? Hôm nay mới bắt đầu chuyển sang “văn trị” để chấn hưng đất nước, chẳng lẽ lại tái diễn cái bi kịch chia đất phong chư hầu thời nhà Chu để rồi đống than hồng của ngọn lửa chiến tranh chưa thật nguội lạnh lại được thổi bùng lên, và sẽ hủy diệt cung đình và đất nước này hay sao? Những điều mà thừa tướng và hoàng thúc đề nghị, là ý muốn ngông cuồng muốn khư khư giữ lại những cái đã cũ rích; là chủ tướng phục cổ bài kim; nhất quyết không thể chấp nhận. Không cần lặp lại nhiều lời. Còn về thể chế quốc gia, có thể dựa theo đề nghị của đình úy Lý Tư, căn cứ vào lãnh thổ to nhỏ khác nhau trong phạm vi cả nước để đặt quận huyện, chịu sự quản hạt và chỉ huy của cơ quan trung ương do thiên tử đứng đầu. Các quan chức của quận huyện, đều do triều đình bổ nhiệm, người nào tốt thì thăng cấp và khen thưởng; người nào xấu thì giáng chức và trừng phạt. Quan không có đất (lãnh địa) và binh tướng. Như vậy, mọi người đều phải lo làm tốt chức trách của mình, làm gì có chuyện ăn ở hai lòng với đức vua. Do đó, xã tắc sẽ an bình, dân sống sung túc, thái bình thịnh thế, các hoàng thân tôn thất và quần thần cũng như muôn dân đều được phụ hưởng.

Sau khi nhà vua nói vậy, các đại thần đều ủng hộ. Thừa tướng Vương Oản, một nhân vật rất bảo thủ, cố chấp, vẫn có những điều không thể tiếp thu, nhưng cuối cùng cũng phải phục tùng. Còn hoàng thúc Tử Khang và một số hoàng thân tôn thất khác, những người nhất quyết đòi phục hồi chế độ chia đất phong vương, chỉ mưu tính việc tranh quyền đoạt lợi cho mình, nhưng không đạt được mục đích, lại còn bị nhà vua và Lý Tư bác bỏ và nói cho cứng họng, đành phải hổ thẹn cúi đầu rụt cổ rồi lẳng lặng ra về. Mặc dù họ không dám nói nữa, nhưng trong lòng thì vẫn rất ấm ức, vừa đi vừa nghiến răng chửi rủa: “Đồ phản kinh phản đạo, đồ mất gốc!”

Tại cuộc hội nghị triều chính này, nhà vua sai Lý Tư và ngự sử đại phu Phùng Kiếp công bố ba mươi sáu quận và tên gọi các quận đã được vạch trên bản đổ cả nước sau khi đã thống nhất ý kiến. Danh sách như sau:

Tam Xuyên. Hà Đông. Nam Dương. Nam Quận. Cửu Giang. Chương Quận. Cối Kê. Dĩnh Xuyên. Đãng Quận. Tứ Thủy. Tiết Quận. Đông Quận. Lang Nha. Tề Quận. Thượng Cốc. Ngư Dương. Hữu Bắc Bình. Liêu Tây. Liêu Đông. Đại Quận. Cự Lộc. Hàm Đan. Thượng Đảng. Thái Nguyên. Vân Trung. Cửu Nguyên. Nhạn Môn. Thượng Quận. Lũng Tây, Bắc Địa. Hán Trung. Ba Quận. Thục Quận. Kiềm Trung. Trường Sa. Nội Sử.

Trong các quận trên, riêng quận Nội Sử là nơi đặt kinh đô nước Tần, tức Hàm Dương. Sau đó, còn chinh phục được đất Bách Việt, nên tăng thêm bốn quận: Mãn Trung, Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Tổng cộng có bốn mươi quận. Mỗi quận có một số huyện. Thái thú quận và huyện lệnh đều do triều đình bổ nhiệm, có thể điều động bất cứ lúc nào tùy theo yêu cầu.

Đồng thời công bố các quan chức sau:

Ở trung ương:

Tả hữu thừa tướng: phò tá hoàng đế xử lý việc triều chính.

Ngự sử đại phu: phò tá thừa tướng.

Thái úy: nắm quân sự chính trị toàn quốc.

Tướng quân: nắm việc chinh phạt.

Đình úy: nắm luật pháp.

Trị túc nội sử: nắm tài chính kinh tế.

Thiếu phủ: nắm việc thu thuế rừng núi, biển, ao hồ, cung cấp chị dùng của bản thân hoàng đế.

Học sĩ: cố vấn

Quan chức địa phương:

Thái thú quận (quận thủ): nắm chính quyền quận.

Quận úy: giúp việc quận thủ, chủ quản quân sự.

Giám ngự sử: giám sát quận thủ.

Huyện lệnh (trưởng): nắm chính quyền huyện. Lúc ấy, một huyện rộng khoảng 100 dặm vùng; trên một vạn hộ, thì gọi là huyện lệnh; dưới một vạn hộ thì gọi là huyện trưởng.

Dưới huyện có xã. Xã có các quan chức: tam lão, sắc phu, du kiếu.

Mỗi xã có mười đình. “Tam lão” nắm việc giáo dục (giáo hóa), “Sắc phu” lo việc bắt trộm cướp.

Các đình có đình trưởng, lo việc bắt trộm cướp. Mỗi đình có mười lý.

Các quan chức của huyện, xã, đình trưởng, phần lớn là những người nhà giàu. Đó là tổ chức chính quyền cơ sở. Đó là bộ máy chính quyền vương triều phong kiến thống nhất, chuyên chế, trung ương lập quyền, lấy dân tộc Hán làm chủ thể, do Thủy Hoàng sáng lập. Trải qua hơn hai nghìn năm, khu vực hành chính quận huyện ngày nay, tuy có một số tăng giảm và thay đổi nào đó, nhưng về cơ bản vẫn còn giữ nguyên. Điều này cho thấy tính hợp lý và ý nghĩa lịch sử của thể chế đó.

Tần Thủy Hoàng còn căn cứ vào “thuyết ngũ đức chung thủy” (trước sau giữ vững năm đạo đức), do Trâu Diễm sáng lập (Trâu Diễm, nhà triết học nước Tề cuối thời Chiến Quốc) để vận dụng nguyên lý “tương sinh tương khắc” (bổ sung cho nhau, tiêu diệt lẫn nhau) của thuyết ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (kim loại, gỗ, nước, lửa, đất); dùng nguyên lý này để giải thích sự đổi thay của các vương triều. Từ đó suy ra rằng nhà Chu có cái “đức” của “lửa”, nên nhà Tần thay thế nhà Chu, đó tức là “nước” diệt “lửa” (thủy “khắc” hỏa) trong “ngũ hành”; và như vậy, nhà Tần có cái “đức” của “nước” (thủy).

Sau còn dựa vào thuyết “phương bắc nhâm quý thủy” (đức “thủy” của can “nhâm”, can “quý”, tức can thứ chín, thứ mười trong mười can), để suy luận rằng tháng mười là mở đầu của đức “thuỷ”. Do đó, bãi bỏ lịch cũ, chuyển sang dùng lịch Chuyên Húc (tên vị vua trong thần thoại Trung Quốc), bắt đầu bằng “Ất Mão” (Ất: can thứ hai trong mười can; mão: chi thứ tư trong mười hai chi). Như vậy, ngày “đông chí” của lịch nhà Tần nằm ở vị trí “độ số sáu” của sao Ngưu trong chùm sao. Vì vậy, tháng đầu tiên của một năm là tháng mười.

Tần Thủy Hoàng còn quy định: tháng Giêng (chính nguyệt) phải đọc dấu nhẹ, hoặc không dấu, để khỏi trùng với tên của ngài (Doanh Chính) [iii].

Vì ngài cho rằng nhà Tần có đức “thủy” (nước), nên gọi sông Hoàng Hà là sông “Đức Thủy”. Lại thấy nước sông có màu xanh thẫm (vì sông sâu), nên nước Tần tôn sùng màu đen. Tất cả mọi áo quần, cờ quạt đều lấy màu đen làm nền.

Tần Thủy Hoàng còn liên hệ phương vị (phương hướng), ngũ hành và con số với nhau để suy ra “phương bắc nhâm quý thủy”; con số sáu (lục) là một “Kỷ” (một đơn vị để tính). Từ đó, đặt ra một số quy định như mũ đội của quan văn phải cao sáu tấc (khoảng 20cm), đường kính bánh xe khoảng sáu thước (1 thước Trung Quốc bằng 1/3m); xe của vua đi phải do sáu ngựa kéo... Những quy định tương tự có rất nhiều, không kể hết. Đáng chú ý là phương pháp suy luận và cách tư duy đó của Tần Thủy Hoàng, cuối cùng đưa ông ta đến chỗ tin theo và tôn sùng chuyện bói toán của các thầy cúng (phương sĩ), cố tìm thuật trường sinh bất lão, để lại sự chê cười cho hậu thế.

Chú thích:

[i] Nếu xem danh mục tên hiệu các nhà vua của một nước, trong thời gian khoảng mấy trăm năm, thời Xuân Thu - Chiến Quốc; có hiện tượng trùng lặp tên hiệu rất nhiều. Giữa các nước cũng trùng lặp như vậy; vì ở Trung Quốc, từ thời thượng cổ, tuy có rất nhiều nước khác nhau, nhưng văn tự thì chỉ có một, đó là chữ Hán - ND.

[ii] Người Trung Quốc cổ đại tưởng rằng lãnh thổ rộng lớn của họ bao bọc bởi bốn biển, nên gọi là bốn biển, tứ hải - ND.

[iii] Ở đây thuần túy là chữ Hán. Trong tiếng Hán, tháng Giêng gọi là "chính nguyệt”. Chính cũng là tên của nhà vua. Vì vậy để tránh trùng với tên mình (húy), Tần Thủy Hoàng quy định "chính nguyệt phải gọi là "chinh nguyệt", không có dấu, phiên âm sang tiếng Việt thì "chính nguyệt" đọc là “trầng duê", "chinh nguyệt” đọc là "trâng duê", chữ "Chính", tên vua, cũng đọc là "trầng" - ND.