← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN THU BINH KHÍ, ĐÚC MƯỜI HAI TƯỢNG ĐỒNG-DỐC TIỀN CỦA, XÂY ĐẮP ĐƯỜNG “TRÌ ĐẠO”-----

Tại hội nghị triều chính, Tần Thủy Hoàng đã bác bỏ đề nghị của thừa tướng Vương Oản về việc chia đất phong vương, và thực hiện chế độ quận huyện. Trong quan hệ giữa cơ quan chính quyền trung ương và địa phương, dùng chính sách và pháp lệnh để thực thi quyền lực; quán triệt các chủ trương, biện pháp, như quản lý hộ tịch, trị an, thu thuế, phu dịch... Tất cả các thể chế đó đều được thực hiện thông suốt, nhanh chóng, đạt được kết quả rất tốt, được ca ngợi là rất linh hoạt và có hiệu quả. Những thành tích đó khiến Tần Thủy Hoàng rất mừng. Nhưng không bao lâu sau, các quận huyện phản ánh một số vấn đề nghiêm trọng mà ngài chưa nghĩ tới. Những vấn đề đó cần có đối sách để giải quyết. Trong đó, vấn đề bức bách nhất, và cũng là nguy hiểm và đe dọa nhất là các cuộc bạo loạn vũ trang của các thế lực tàn dư của các chư hầu địa phương, và của cả dân chúng.

Đó là bởi vì, quá trình quân Tần chống quân các nước chư hầu diễn ra rất kịch liệt, tàn khốc, các tướng sĩ của nước bại trận phần lớn bị giết tại trận, một số bị giết hoặc bị chôn sống sau khi bị bắt. Thảm cảnh này gây nên sự khủng khiếp kinh hoàng trong dân chúng. Xét cho cùng, nó giống như một trận cuồng phong, một cơn dông bão, đến rất nhanh và rất dữ dội, tàn phá ghê gớm. Nhưng thời gian rất nhanh, quá trình diễn ra có phần nào lớt phớt. Khi nó đã qua đi, thì một số thế lực nào đó nhờ ẩn náu đằng sau những vật chướng ngại nào đó, may mắn không bị dông bão quét sạch, nên vẫn tồn tại, và dần dần ngóc đầu dậy. Chúng lại dùng vũ khí để trả thù chính quyền mới. Mùa đông năm hai mươi niên hiệu Tần Thủy Hoàng, cuộc nổi loạn vũ trang ở Tân Trịnh, nơi tiếp giáp nước Sở và Ngụuy cũ là một ví dụ điển hình.

Vả lại, trong cuộc chiến tranh mười năm của Tần nhằm tiêu diệt sáu nước, số người chết của các nước lên tới hơn ba triệu; số vũ khí bị phá hủy và bị thu hồi rất nhiều; nhưng vẫn còn một số rất lớn được cất giấu hoặc phân tán trong dân gian. Đó là nguồn khí giới vô tận mà lực lượng chống Tần có thể sử dụng không bao giờ hết. Một số lượng vũ khí lớn như vậy ở trong dân chúng, là mối đe dọa nguy hiểm đối với vương triều nhà Tần mới được thống nhất.

Mặt khác, sáu nước đã bị tiêu diệt, thiên hạ đã thống nhất, nhà Tần chuyển sang xây dựng kinh tế. Đó là công việc rất tốt đối với đất nước, xã hội và dân chúng. Nhưng lúc này, các thứ vũ khí đã cho vào kho, ngựa chiến đã cho về miền Nam chăn thả, hàng loạt tướng sĩ đã giải ngữ về quê, còn một số đơn vị quân chủ lực thì tập trung ở kinh đô Hàm Dương; lực lượng quân sự của các quận huyện rất mỏng, tố chất và năng lực chiến đấu đều yếu kém; rất khó bảo vệ trật tự trị an địa phương. Tất cả những tình hình đó đã tạo thuận lợi cho các thế lực vũ trang chống Tần. Chúng dám gây bạo loạn và ngày càng dữ dội, đến mức có nhiều quan chức quận huyện bị giết, nhiều thành trì bị đánh chiếm; trật tự xã hội bị rối loạn, lòng người hoang mang; tạo thành mối uy hiếp rất lớn đối với vương triều nhà Tần. Đặc biệt, những cuộc nổi loạn ấy đã cung cấp bằng chứng cho các phần tử bảo thủ, bọn chúng nhao nhao nói rằng lẽ ra phải chia đất phong vương, thì có thể kịp thời trấn áp và không để xảy ra bạo động như thế.

Tần Thủy Hoàng là con người có tính cách kiên cường và đảm lược phi thường, không bao giờ thèm để ý đến luận điệu của bọn bảo thủ, ngoan cố, coi bọn chúng chẳng là cái gì. Nhưng khi bạo động xảy ra liên tiếp, ngài không thể coi thường được nữa. Ngài sai quốc úy Úy Liêu huy động quân đội đi các nơi có bạo loạn đánh dẹp, bảo vệ chính quyền cơ sở, khôi phục trật tự trị an và ổn định xã hội. Nhưng đó chỉ là đau đâu chữa đấy, chưa phải trị tận gốc. Biện pháp có hiệu quả nhất là phá hủy toàn bộ số vũ khí hiện có trong xã hội. Như vậy dù có gây bạo loạn cũng chỉ tay không và như vậy, chính quyền quận huyện đủ sức để đối phó. Tần Thủy Hoàng bèn ra một bản chiếu thư “thu hồi binh khí trong thiên hạ, tập trung về Hàm Dương, để đúc chuông và nhạc cụ”. Bản chiếu thư ra lệnh cho tất cả mọi người, từ các hậu duệ tôn thất hoàng gia cũ, các quan lại và tướng sĩ các chư hầu cũ, cũng như toàn thể dân chúng đều phải đem nộp cho quan quận huyện tất cả các loại vũ khí mà họ cất giấu được hoặc họ phát hiện, bao gồm dao, kiếm, kích, giáo, rìu, thương, lao, mâu, giáo cán dài, búa... cho đến cả các mũi tên bọc bằng kim loại, và các đồ bằng kim loại như mũ sắt, áo giáp sắt. Sau khi toàn dân đã giao nộp tất cả các thứ nói trên, lại còn tiến hành lục soát trên quy mô lớn, ngay cả các tướng sĩ quân Tần được giải ngũ cũng phải nộp mũ sắt và vũ khí của mình trước khi về nhà. Sau khi lục soát nhiều lần rất kỹ, toàn bộ vũ khí và những thứ có quan hệ với vũ khí phân tán trong dân được thu hồi hết. Sau đó được chất lên xe và thuyền để đưa về Hàm Dương.

Để xử lý số binh khí cũ chất thành núi đó, Tần Thủy Hoàng suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng ngài quyết định sẽ dùng những thứ bằng đồng để đúc mười hai tượng người bằng đồng. Trong đống vũ khí cũ đó, phần lớn là làm bằng đồng. Lúc bấy giờ là thời kỳ cuối Chiến Quốc, chỉ có nước Tần và Sở có kỹ thuật tiên tiến, làm được vũ khí bằng sắt, còn năm nước còn lại, chỉ làm vũ khí bằng đồng. Vì vậy, Tần Thủy Hoàng quyết định đúc tượng đồng. Lại nói tại sao lại đúc mười hai pho tượng? Đó là vì mỗi ngày có mười hai giờ (theo giờ cổ đại Trung Quốc, mỗi giờ có bốn khắc, mỗi giờ tương đương ba giờ hiện nay); theo ý của Tần Thủy Hoàng (mỗi pho tượng cao năm trượng tức là bằng ba trượng hiện nay; mỗi trượng hiện nay bằng 3,33m), mỗi pho tượng canh phòng một canh giờ, mười hai pho tượng canh phòng mười hai canh giờ. Như vậy, cung Hàm Dương, tượng trưng cho nước đại Tần. được canh phòng suốt ngày đêm.

Đây là một công trình đồ sộ, có nhiều loại công việc khác nhau, quy mô lớn, liên quan đến một diện rất rộng, nên Tần Thủy Hoàng giao cho quốc úy, ngự sử đại phu, nội sử và thiếu phủ cùng phối hợp chủ trì và điều hành công việc. Sau một thời gian chuẩn bị và vạch kế hoạch, công việc đúc bắt đầu triển khai.

Công trường đúc trước đây là mấy nghìn mẫu đất tốt ở ngoại thành Hàm Dương. Công trường rộng hai mươi dặm vuông, có hơn ba nghìn thợ đúc và gần một trăm lò luyện đồng. Những người thợ cứ liên tục chở đồ binh khí cũ bằng đồng đổ vào các lò luyện. Chẳng mấy chốc đồng vụn ấy nóng chảy, sôi lên từng đợt sóng, phát sáng một màu hồng rất chói mắt, rực đỏ cả một vùng trời, ở cách xa hai mươi dặm vẫn nhìn thấy. Thật là một cảnh tượng tráng lệ hùng vĩ.

Vì tượng cao năm trượng, nên khuôn đúc phải dài sáu trượng, rộng tám thước, cao một trượng (bề dày). Đáy khuôn phải dày và kín hoàn toàn. Khuôn có hai bộ phận: đáy và nắp. Đáy và nắp phải ăn khớp với nhau hoàn toàn. Riêng nắp cũng đã nặng tới mấy vạn cân. Để đưa nắp vào đặt lên đáy để đổ đồng vào, hoặc lấy nắp ra để lấy tượng đồng ở trong khuôn ra, người ta buộc mấy chục dây xích sắt vào mép nắp và các móc trên vỏ nắp, một đầu của dây xích được buộc vào “con lăn”. Các con lăn to lớn này được lắp trên một giá gỗ rất cao, mỗi con lăn buộc một dây xích, và mỗi con lăn có mười “tay cầm”. Mỗi khi chuyển động, mấy chục con lăn (ròng rọc) khổng lồ đồng thời xoay chuyển, dần dần nhấc nắp khuôn lên cao một cách từ từ nhưng rất chắc chắn, ổn định. Lúc hạ xuống cũng vậy. Đây thực sự giống như điều khiển một trận đánh: Một viên đô úy chỉ huy việc thao tác bằng các khẩu lệnh như khi tác chiến, nhằm làm cho mấy chục con lăn đều chuyển động cùng lúc, cùng một tốc độ, cùng nhấc lên hoặc đặt xuống cùng một thời điểm, tất cả đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối.

Trên đây chỉ mới là cảnh tượng những công việc sản xuất chủ yếu, còn có rất nhiều những công việc phụ khác, số thợ làm việc ở các nơi này cũng rất đông, quang cảnh cũng rất nhộn nhịp. Ví dụ có mấy chục “máy” quạt gió để thổi gió vào lò, đốt nóng các lò luyện. Mỗi quạt gió có đường kính tám thước (gần 3m), có tám người lực lưỡng thao táo. Từ quạt gió đến lò luyện, có một ống dẫn dài hai trượng, đường kính bằng một cái bát. Mấy chục quạt gió này chuyển động suốt ngày, phát ra tiếng động như dông bão gầm rú, thật là kinh thiên động địa.

Lại còn những đống than (than củi, dùng để đốt lò) và đống cát mịn (cát để lót phía trong khuôn) chất cao như núi, đen nháy và trắng xóa, lại luôn luôn nhấp nháy bởi ánh sáng của các lò luyện ở cạnh đó chiếu vào. Những đống than và cát khổng lồ ấy cũng do mấy chục hầm lò ngày đêm đốt củi tạo thành (đốt củi thành than. Còn cát mịn lót khuôn, cũng phải qua chế biến). Sau đó, hàng chục xe thùng chở liên tục đến đổ thành đống ở hiện trường.

Công trường đúc đồng nhộn nhịp tráng lệ ấy thể hiện sinh động nền kinh tế phát triển và tiến bộ kỹ thuật lúc bấy giờ của nhà Tần.

Hơn ba nghìn thợ lao động liên tục ngày đêm trong hơn nửa năm, mười hai tượng đồng lớn đã được đúc xong. Mỗi bức tượng cao năm trượng (nay là ba trượng), nặng hai mươi tư vạn cân (nay là 37.500 kg). Mỗi bức tượng đều mặc áo giáp vàng và đội mũ giáp vàng, mắt to, lông mày rậm, tư thế oai phong, dáng đứng lẫm liệt. Trong thời gian hơn nửa năm ấy, Thủy Hoàng luôn luôn hỏi thăm các đại thần chủ trì công việc đó về tình hình tiến độ. Ngoài ra, ngài còn cải trang thành những viên chức bình thường, chen vào trong đám quan chức tùy tòng của các đại thần để đến hiện trường quan sát. Đứng trước khung cảnh náo nhiệt và quy mô to lớn của công trường đúc luyện, ngài cảm thấy những thứ đang nung chảy trong các lò luyện không phải là đồng vụn của binh khí cũ, mà chính là hậu duệ của hoàng gia các chư hầu cũ; là lực lượng chống Tần, phản Tần của bọn hậu duệ này, của bọn tàn binh bại tướng và của một số bình dân. Ngài cảm thấy vui mừng lắm. Bởi vì sau các lò luyện này, trong dân chúng sẽ không còn vũ khí nữa, thế lực tàn dư hậu duệ các chư hầu cũ không thể làm phản được nữa. Ha! Ha! Ha! Khi ngài đến bên cạnh một khuôn tượng, ngài ngắm nhìn bức tượng có thân hình vạm vỡ, uy nghi như thiên thần. Ngài có cảm giác như đó là hình ảnh các đại tướng quân đã giúp ngài chinh phục sáu nước, mở rộng biên cương, bình định thiên hạ: Vương Hột, Mông Ngao, Hoàn Kỳ, Vương Tiễn, Mông Vũ, Dương Đoàn và các tướng lĩnh trẻ tuổi hơn Mông Nghị, Mông Quát, Lý Tín... Mười hai bức tượng đồng đó chính là hiện thân của những tướng lĩnh trụ cột đó. Nay đặt các tượng đó trước cung Hàm Dương, mỗi ngày mười hai giờ (mỗi giờ bằng ba giờ hiện nay) liên tục bảo vệ cung Hàm Dương, tượng trưng cho đất nước đại Tần. Như thế cũng có nghĩa, vương triều đại Tần thống nhất do ngài sáng lập, nhất định phải vững như bàn thạch, vĩnh viễn tồn tại, phồn vinh mãi mãi, sinh sôi nảy nở, phát triển không ngừng, truyền đến nhị thế (đời thứ hai), rồi đến tam thế (đời thứ ba)... cho đến vạn thế. Nghĩ đến đây, ngài cao hứng quá đến nỗi rất nôn nóng, muốn cho công việc xong ngay.

Sau khi về cung, ngài liền bảo “trung xa phủ lệnh” Triệu Cao gọi các đại thần “quốc úy”, ngự sử đại phu, nội sử và thiếu phủ vào cung. Khi mọi người đến đông đủ, ngài nói rằng ngài rất bằng lòng với công việc ở công trường, và có lời khen ngợi mọi người ở đấy. Sau đó, ngài nói cần phải đẩy nhanh tiến độ hơn nữa, phải đôn đốc và thúc đẩy mọi người làm nhanh hơn, cố gắng hoàn thành sớm kiệt tác chưa từng có do ngài thiết kế.

Phải khó khăn vất vả lắm mới đúc xong mười hai pho tượng khổng lồ ấy. Đó là vào cuối xuân năm hai mươi bảy niên hiệu Tần Thủy Hoàng. Các pho tượng đều được đánh bóng sáng loáng, trông rất hoành tráng, rực rỡ. Mặc dù công trường đúc luyện ở cách thành Hàm Dương dăm ba dặm, nhưng việc vận chuyển những pho tượng khổng lồ ấy về quảng trường trước cung Hàm Dương hoàn toàn không phải là công việc dễ dàng. Nếu so sánh với chín đỉnh đồng lớn của nhà Chu trước đây, thì khác nhau một trời một vực. Bởi vì tượng đồng có thể tích rất lớn và trọng lượng rất nặng. Nhưng những người thợ thông minh hồi ấy, khi tháo khuôn, thì đồng thời đút mười mấy khúc gỗ thông tròn xuyên qua bên dưới lưng của tượng, coi như đệm cho toàn bộ pho tượng cao lên khỏi mặt đất. Sau đó dùng dây thừng được bện rất bền chắc, buộc vào đầu, cổ vai, cánh tay, lưng, đùi, bắp chân của pho tượng; một đầu dây thừng (dây dài) quàng vào vai mấy chục con ngựa chiến; dây ngắn thì do các binh sĩ khỏe mạnh kéo. Một viên phó tướng kỵ binh chỉ huy việc kéo tượng. Người và ngựa đi thành hai hàng hai bên, dựa theo hiệu lệnh của người chỉ huy, cứ kéo dần từng bước, toàn bộ pho tượng để nằm, cứ lăn trên các khúc gỗ tròn, di chuyển từng tấc một, từng tấc một, cuối cùng về đến địa điểm đã định.

Bây giờ đến công việc dựng tượng đứng dậy. Lại dùng bánh xe ròng rọc để kéo lên như khi nhấc tượng ra khỏi khuôn. Chỉ khác ở chỗ, nay chỉ nâng đầu dần dần đứng thẳng, hai chân tượng ở nguyên vị trí cũ, chỉ thay đổi tư thế. Để làm việc này, người ta lắp một giá đỡ cao, dùng dây xích buộc vào đầu, vai, nách và cánh tay tượng, rồi cho chạy ròng rọc; đồng thời cố định hai bàn chân. Cứ thế, kéo dần từng tấc, từng tấc một, cho đến khi đứng thẳng. Hơn ba nghìn người và hơn năm trăm con chiến mã, làm việc liên tục gần mười ngày mới dựng xong mười hai pho tượng.

Nhà vua ngày nào cũng đến hiện trường để xem xét. Ngài mừng lắm. Nhưng điều làm cho ngài phấn khởi nhất là cảnh tượng lao động hăng say của hàng nghìn binh sĩ và thợ thủ công. Họ vừa làm vừa reo hò rất nhộn nhịp, náo động, vui vẻ, mồ hôi nhễ nhại, áo quần lem luốc, nhưng vẫn làm việc không biết mệt mỏi. Lúc này, đi đôi với việc ngày càng củng cố, tăng cường và mở rộng quyền lực cá nhân và địa vị quân chủ của mình, tham vọng chiếm hữu [i] và bản tính bạo ngược [ii] của Tần Thủy Hoàng đã làm cho ông ta dần dần biến chất và thoái hóa thành một bạo chúa hoàn toàn mất hết lý trí và tính người, xa rời hẳn với mạch đập của đất nước và số phận của nhân dân; cốt để đạt được mục đích bảo vệ vai trò thống trị cá nhân vĩnh viễn của mình.

Trong thời gian nửa năm đúc tượng đồng, Tần Thủy Hoàng đồng thời thiết kế và tạo mẫu hình tượng một con người to lớn hơn [iii]. Đó là hình tượng của chính ông ta. Ngài ra lệnh cho viên ngự phủ lo việc trang phục của thiên tử, thiết kế và chế tác các loại quần áo, giày dép, mũ mão, kiếm. Tất cả những việc này đều phải tuân theo sự chỉ đạo chặt chẽ của ngài theo quan niệm: nước Tần có đức của “thủy” (nước) và có màu đen tượng trưng. Lựa chọn ngọc Lam Điền nổi tiếng của Tần để khắc dấu ấn (ngọc tỷ) chuyên dùng của hoàng đế. Chữ khắc trên con dấu này do Lý Tư viết. Đồng thời sai các “học sĩ” (cố vấn) thiết kế, vẽ mẫu các loại trang phục, cờ, đội hình đội danh dự, cho các thái tử, hoàng tử, hoàng hậu, phi, nữ quan và văn võ bá quan trong triều. Mỗi bản thiết kế, đồ án đều phải đưa cho ngài đích thân xem xét. Ngài có ý kiến và chỉ thị rất chi tiết, cụ thể đối với ý nghĩa và sự tượng trưng của từng vật, thậm chí đối với từng đường nét, hình tượng và màu sắc của chúng, đến khi nào ngài vừa ý mới chuyển sang chế tác. Từ đó, quan lại triều đình phải mặc trang phục đúng theo quy định, không được tùy tiện. Văn hóa trang phục ấy thể hiện lễ giáo đẳng cấp phong kiến nghiêm khắc và màu sắc văn hóa của một quốc gia thống nhất và kinh tế phát đạt. Tác phong làm việc tỉ mỉ, sâu sát, nghiêm khắc của Tần Thủy Hoàng được bề tôi khen ngợi. Nhưng sự độc đoán chuyên quyền, tự làm theo ý mình, không cho phép kẻ dưới góp ý kiến, ương ngạnh ngạo mạn ấy của ngài, thì ai cũng phải sợ.

Sở dĩ Tần Thủy Hoàng bắt phải thiết kế và chế tác các loại trang phục, nghi lễ và cờ quạt ngay trong thời gian đó, là vì ngài muốn khi đúc xong mười hai pho tượng, sẽ làm lễ khánh thành rất trọng thể. Hôm ấy, nhà vua và văn võ bá quan trong triều, cũng như mọi thành viên khác trong cung đình, đều mặc lễ phục theo quy định. Cũng may là việc đúc mười hai pho tượng kéo dài trên nửa năm, nên việc thiết kế và chế tác trang phục cho nhà vua và mọi thành viên trong triều đình và trong cung đình cũng kịp hoàn thành. Khi thẩm định lần cuối những trang phục ấy, nhà vua rất vừa lòng, vì mọi việc đều được hoàn thành đúng thời hạn. Ngài bèn tự mình bói một quẻ để tìm ngày lành tháng tốt, tổ chức lễ khánh thành tượng đài.

Hôm cử hành lễ khánh thành, bầu trời trong xanh, gió xuân dìu dịu; cung Hàm Dương được trang hoàng lộng lẫy. Một đàn tế cao và to được dựng lên ở chính giữa quảng trường phía trước cung. Tám chiếc đỉnh lớn lấy từ kinh đô nhà Chu được đặt trước đàn tế, khói hương bay nghi ngút, mùi thơm lan tỏa khắp nơi. Mười hai pho tượng cao sừng sững, uy nghi, oai hùng; phản chiếu ánh mặt trời ban mai nên càng xán lạn, rạng rỡ. Đội cận vệ cung đình gồm sáu nghìn người đứng thành hình vuông chung quanh đàn tế và dàn nhạc. Phía trái, phải và phía sau đàn tế được che kín bằng một bức tường cao bằng thảm màu đen; coi như cái nền (phông) của đàn tế. Cái phông này được tạo hình theo kiểu cung điện: cách một quãng lại có một bức họa trong đó có một chữ Tần màu vàng rất lớn và một con “rồng có sừng” đang uốn lượn trong đám mây ngũ sắc, tượng trưng cho “rồng đang bay trên trời”..Đội cận vệ cũng đội mũ đen, áo giáp đen, cờ đen. Trong các lá cờ, có cờ thêu chữ Tần màu vàng và rồng vàng; một số cờ khác thêu “họ” của các tướng lĩnh cầm quân như Vương, Mông, Lý... để biểu dương công lao của các vị ấy. Phía bên ngoài đội cận vệ, là dân chúng đến xem, đông nghìn nghịt, người qua kẻ lại, ồn ào náo nhiệt, kể có đến mấy vạn người. Tất cả đều hớn hở háo hức, vui mừng chào đón, hoàn toàn khác với khung cảnh quảng trường hành hình Lao Ái mười sáu năm trước.

Giờ Ty đã đến (khoảng từ 9 - 11 giờ sáng), tiếng trống rầm rầm, tiếng kèn vang vang. Tần Thủy Hoàng bước ra khỏi cổng chính cung Hàm Dương, bước từ từ lên đàn tế. Theo sau ngài là các trọng thần như tả hữu thừa tướng Ngỗi Trạng, Vương Oản, đình úy Lý Tư, ngự sử đại phu Phùng Kiếp và trung xa phủ lệnh Triệu Cao... Nhà vua mới bước vào tuổi bốn mươi [iv], lần đầu tiên mặc trang phục thiên tử do chính ngài giám sát việc chế tác. Mũ của ngài gọi là “thiên quán”, cao chín tấc (10 tấc 1 thước, 1 thước Trung Quốc = 0,33m); đỉnh mũ bằng, hình cong lượn sóng. Trước và sau đỉnh mũ, mỗi đầu có mười hai dây tua mang hạt trân châu, giống như một bức rèm nhỏ che mặt và cổ nhà vua. Ngài mặc áo long bào hai vạt cài giữa, ống tay rộng, màu đen; cổ và đầu ống tay áo có thêu hoa văn màu vàng. Ở phần áo ngang lưng, quấn một vành dai bằng vải, có thêu hình rồng bay màu vàng. Mép dưới cùng của áo, thêu hoa văn lượn sóng, tượng trưng “đức” của nhà Tần là thủy (nước). Chân đi đôi hài “vọng tiên” (nhìn lên ông tiên), mũi hài cao vót lên.

Có khoảng ba trăm đại thần văn võ tham dự cuộc lễ. Quan văn đều mặc lễ phục đen có hoa văn. Mũ của quan văn gọi là “pháp quán” (quán là mũ) có thêu hình con “dê thần”. Truyện thần thoại nói, con dê thần này biết phân biệt phải, trái, trắng đen, nên dùng để thể hiện sự sáng suốt của văn quan. Các võ tướng thì có mảnh giáp sắt che phía trong ngực, bên ngoài mặc áo quần quan phục màu đen; đầu đội mũ có hình con hổ và chim trĩ, thể hiện tinh thần thượng võ, gọi là “võ quán”.

Hoàng hậu và các phi của nhà vua, hơn hai mươi hoàng tử và một số hoàng thân tôn thất, phải đứng hai bên lễ đài, không được đứng ở giữa trung tâm đài tế cùng với nhà vua và các đại thần, vì họ không phải là quan chức.

Khi mọi người đã vào vị trí của mình, chuông trống và nhạc ngừng lại. Tất cả mọi người có mặt, chỉ trừ nhà vua, đều quỳ xuống, đồng thanh hô lớn: “Cung kính chào đón Thủy Hoàng Đế, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!” Tiếng chúc mừng rầm trời, vang xa như sóng âm thanh, chấn động cả một vùng trời trong một hồi lâu.

Tần Thủy Hoàng ngồi trên cao, nên ngài phải hơi cúi mình để nhìn xuống quảng trường. Ngài nhô đầu ra, khụt khịt cái mũi lớn hình con ong, hơi nheo con mắt chim ưng, rồi nhìn qua cái rèm bằng chuỗi hạt trân châu rủ xuống từ trên chiếc mũ để xem quang cảnh trước mặt mình. Ngài thấy hàng vạn tướng sĩ và dân chúng đang quỳ mọp, toàn bộ đều màu đen, đang đưa mắt nhìn vào ngài một cách chân thành và phấn chấn, rồi hô vạn tuế, vạn tuế. Ngài cũng rất cảm động và hưng phấn. Cảnh tượng này hoàn toàn khác với thái độ hèn hạ, khúm núm, xin được tha tội của vua tôi và quan dân sáu nước bại trận. Trước mặt ngài hiện nay là những con người tự nguyện tự giác và chân tình chúc mừng ngài. Thậm chí, ngài còn có cảm giác như đang nghe thấy tiếng thở gấp gáp của hàng vạn con người sau khi hết sức hô lớn mấy tiếng vạn tuế, và hầu như ngài đang nhìn thấy những giọt nước mắt đang chảy trên gò má đang rất xúc động của họ. Còn các quần thần ở hai bên thì chẳng cần phải nói, họ luôn luôn trung thành vô hạn và ủng hộ nhà vua tuyệt đối.

Bây giờ ngài mới thật thấm thía ý nghĩa của câu “Trong thiên hạ, không có thần dân nào không phải là của vua”. Vì vậy, ngài nghĩ rằng mình còn phải đi đến nội địa sáu nước chư hầu cũ, thậm chí phải đến tận miền biên thùy ở phía Bắc, phía Nam và vùng dân tộc man di mọi rợ, để thưởng thức cái mùi vị tối cao vô thượng, duy ngã độc tôn của vai trò “mọi bến bờ trong thiên hạ không nơi nào không phải của nhà vua”. Nghĩ đến đây, ngài định giơ tay lên trời để cười lớn, nhưng vừa ngửa cổ mở mồm, thì lập tức nhớ lại rằng trước đây thái tử Đan của nước Yên và quốc úy Úy Liêu của mình chê cười rằng tiếng cười của ngài rất khó nghe vì nó giống như tiếng sói gầm. Vì vậy, ngài liền thôi, không cười nữa; chỉ đưa hai cánh tay vừa giơ cao lên để vẫy chào lại và cảm ơn đám người bên dưới quảng trường. Quần chúng thấy nhà vua đang duyệt đội ngũ của họ, nên lập tức hàng vạn con người lại hoan hô vang dậy…

Lúc này, thừa tướng Vương Oản đến gần nhà vua nhắc rằng đã gần tới giờ Ngọ. Nhà vua bèn ra hiệu cho mấy vị cận thần ở cạnh đó thông báo cho tướng quân Vương Bôn dùng cờ hiệu ra lệnh cho tướng sĩ không hoan hô nữa, và cũng truyền lệnh cho dân chúng giữ im lặng. Tiếp đó, thừa tướng Vương Oản đứng ra làm lãnh xướng, Tần Thủy Hoàng làm chủ tế, thắp hương, hiến tam sinh (bò, dê, lợn), ba lần vái, chín lần khấu đầu. Làm xong những việc đó, nhà vua quỳ xuống ở chính giữa đàn tế, đưa mắt nhìn lên trời cao, sau đó đưa mắt ra hiệu cho tả thừa tướng Ngỗi Trạng đọc bài văn tế “Dựng tượng đồng tế trời đất tổ tiên”. Giọng của tả thừa tướng vang như tiếng đồng, đọc rất có tiết tấu, trầm bổng:

Nay là hạ tuần tháng Ba năm 27 niên hiệu Tần Thủy Hoàng, Thủy Hoàng đứng cúng tế trời đất và vong linh các tiên vương các đời của đại Tần trước cung Hàm Dương, nơi đặt mười hai tượng đồng mới đúc, xin thưa rằng: Doanh Chính thừa kế ngôi vị, không bao giờ quên di huấn của tiên vương, đã nêu cao kế sách lâu dài, ngự trị thiên hạ, cầm quân bảo vệ biên cương. Chinh chiến mười năm ròng rã, tiêu diệt sáu nước chư hầu, thống nhất toàn bộ sơn hà, phúc cho muôn dân. Nay thu thập mọi khí giới bằng đồng sắt, đúc tượng đồng lẫm liệt oai phong, sừng sững đứng ngoài cung Hàm Dương, suốt ngày đêm bảo vệ cung đường. Các tàn dư của chư hầu đã bị quét sạch, nước đại Tần từ nay thịnh vượng đời đời. Nay bỏ tên hiệu Tần Vương, tôn vinh danh hiệu Tần Thủy Hoàng. Kỷ nguyên mới này bắt đầu từ trẫm, màu đen này do trẫm khởi xướng. Trong ngũ hành, đại Tần có đức “thủy”, ơn trạch vua ban đầy ắp bốn biển. Nay trẫm viết thành văn tế, xin cúng tế trời xanh. Đức độ của tổ tiên còn lưu lại lâu dài, nay càng chói lọi sáng ngời, sự nghiệp mà trẫm sáng lập sẽ kế tục vạn đại thiên thu.

Khi đọc xong, Ngỗi Trạng còn dõng dạc nói to: “Văn tế đọc xong, cúi xin thụ hưởng!” Tiếp đó, châm lửa đốt bài văn tế. Tần Thủy Hoàng lại cung kính khấu đầu ba lần nữa rồi mới từ từ đứng dậy. Trên quảng trường lại vang lên tiếng hô “Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”.

Tần Thủy Hoàng đi mấy bước đến phía trước đài tế vẫy tay chào mọi người rồi bước xuống đài tế để trở về cung Hàm Dương. Theo sau ngài là cả một đoàn cận thần và thị vệ. Sau lễ khánh thành này, Tần Thủy Hoàng nghĩ rằng ngài đã tạo ra cho chính ngài một hình ảnh cực kỳ vĩ đại; danh tiếng và oai phong của ngài đã vang dội khắp thiên hạ; ngài đã trở thành anh hùng cái thế xưa nay chưa từng có và sau này cũng không bao giờ có.

Sau khi đúc tượng, vẫn còn thừa một ít đồng vụn, nhà vua bèn sai đúc sáu bộ chuông dàn [v] và phát cho các nhạc sư trong các cung. Các bộ chuông dàn ấy phát ra âm “hoàng chung” và “đại lữ” trong mười hai luật âm của nhạc cổ đại Trung Quốc, luôn luôn tấu những ca khúc hùng tráng để ca ngợi công đức của Tần Thủy Hoàng.

Điều đáng chú ý là khi Tần Thủy Hoàng hoàn thành việc đúc tượng và đúc chuông là vừa đúng mười năm sau khi thống nhất thiên hạ và thành lập vương triều phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Cũng tức là năm hai mươi bảy niên hiệu Tần Thủy Hoàng, khi chiến tranh đã lùi xa về dĩ vãng, chuyển sang thời kỳ xây dựng hòa bình. Trong khung cảnh như vậy, ngài hoàn toàn quên mất lời hứa mà ngài từng nói với lão tướng Vương Tiễn và Mông Vũ, tức là thực hiện chính sách chăm lo cho dân, yên dân, quan tâm nỗi đau của dân. Ngài không những chở về Hàm Dương tất cả những gì quý giá ở cung điện sáu nước như vàng bạc, châu báu, các đồ dùng quý hiếm, các công chúa, phi tần, mà ngài còn ban chiếu bắt các quận huyện nộp các của cải tương tự. Do vậy, xe cộ và thuyền bè cứ nườm nượp chất đầy của cải chở về kinh đô Hàm Dương. Tình hình này khiến đường sá vốn đã bị chiến tranh tàn phá, nay lại càng hư hỏng nặng nề.

Qua các bản tấu báo do các quận huyện gửi lên, Tần Thủy Hoàng thấy rằng, số vũ khí phân tán trong dân đã thu hồi hết, khả năng nổi loạn đã giảm xuống ở mức thấp nhất; nhưng vẫn còn những yếu tố bất lợi cho sự an toàn của chính quyền cơ sở quận huyện cũng như trật tự xã hội và đời sống nhân dân. Thậm chí có nơi thật sự bị một số thế lực nào đó uy hiếp, đe dọa rất nguy hiểm. Để đối phó với tình hình mới đó, ngài lại triệu tập mấy vị trọng thần đến bàn bạc. Ngài nói:

- Gần đây có nhiều quận huyện gửi tấu biểu về nói rằng họ đang gặp nguy cấp, không đủ sức ứng phó, xin triều đình giúp đỡ. Không biết các khanh có ý kiến gì không?

Thừa tướng Vương Oản nhíu lông mày rồi nói:

- Những chiến thắng trước đây lướt nhanh như gió, đưa ngọn lửa lướt qua cánh đồng cỏ, thứ thì chết, thứ thì bò rạp xuống. Khi trời yên biển lặng, những ngọn cỏ bò rạp xuống nay lại ngóc đầu dậy, cứng cáp dần lên. Quân ta đã diệt hết tàn quân và thu hồi hết vũ khí phân tán, song cái “tâm” của họ vẫn chưa bị diệt. Vì vậy cần có biện pháp phòng ngừa, không để cho chúng ngóc đầu dậy.

Thừa tướng Ngỗi Trạng đồng ý với Vương Oản. Ông bổ sung thêm:

- Nay thiên hạ đã được bình định, quận huyện mới được thiết lập, chế độ mới được ban hành, tiếng tăm và uy phong chưa có gì. Nay các quận trưởng gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có hiện tượng gây sự để tiếp tay cho bọn tội phạm; vì vậy, họ rất lo lắng và xin triều đình giúp đỡ.

- Hai khanh nói vậy, trẫm cũng đồng cảm. Nay các quận huyện gặp khó khăn, điều đó, chúng ta chưa lường trước. Cho thấy, giành được giang sơn thì dễ, mà cai trị cho tốt thật là khó. Nay trẫm đã quản thiên hạ, tất nhiên phải có trách nhiệm để thần dân sáu nước đều phục sát đất dưới chân ta. Chỉ có điều trẫm phải suy nghĩ quá nhiều việc, nên chưa tìm ra cách gì, vậy các khanh cùng bàn bạc xem.

- Bệ hạ trước đây uy vũ hiển hách, điều hành việc triều chính sáng suốt. Giang sơn của thiên tử đã giành được nhanh chóng, nay dù đã yên tâm ngồi ở triều đường, cũng không thể lơ là chuyện vũ công. - Mông Nghị vẫn thổ lộ tâm tư của một chiến tướng. Ông nói tiếp - Bệ hạ cứ yên tâm để chăm lo công việc triều chính. Nơi nào bọn tàn dư chư hầu dám nổi loạn phạm thượng hoặc gây sự quấy rối, thì chỉ cần bệ hạ ra lệnh, mạt tướng sẽ lập tức đưa quân tiêu diệt, xem chúng nó có mấy cái đầu rơi dưới lưỡi kiếm của hạ thần!

- Mông tướng quân lo lắng việc an nguy của xã tắc, thật là trung dũng đáng khen. Tuy nhiên tình hình các quận huyện có gây khó khăn cho các quan lại địa phương, nhưng chưa có những vụ nổi loạn trắng trợn. Nếu cứ thấy có tiếng ngọn cỏ xào xạc trước gió là đem quân thảo phạt, e rằng bé xé thành to, xuất quân nhưng không có lý do chính đáng, để cho mọi người lại nói rằng đất nước to lớn này của trẫm lại chẳng có đạo nghĩa gì cả. - Tần Thủy Hoàng tỏ ra đã có kinh nghiệm xử lý chính trị nội chính. Ngài hiểu rằng không phải tất cả các công việc khó khăn nan giải, vi phạm pháp luật, đều có thể giải quyết bằng vũ lực, nên ngài thuyết phục Mông Nghị không nên bồng bột xốc nổi hành động tùy hứng như thế.

- Bệ hạ sáng suốt. - Lý Tư nói sau khi ông đã xem kỹ các bản tấu trình của các quận huyện mà nhà vua vừa đưa cho ông. Ông thấy tình hình hiện nay rất phức tạp, có nhiều việc khác nhau. Tuy nhiên, xét về tính chất và nguồn gốc thì đều là những hiện tượng chống lại nhà Tần dưới các hình thức mới do các thế lực tàn dư của các hoàng gia sáu nước cũ, các quan lại cũ của họ và các nhà giàu có gây ra. Các hình thức mới đó là tăng cường bóc lột các tá điền đang cày cấy ruộng đất của họ, làm cho số tá điền này phá sản rồi trở thành nông nô. Các hộ buôn bán giàu có thì lũng đoạn việc khai thác vận chuyển, còn bán muối, sắt, nhằm chiếm đoạt thị trường, khống chế việc giao lưu hàng hóa; nâng giá để kiếm nhiều lời, gây rối loạn trong nền kinh tế, chống thuế, tẩy chay và phá hoại chính sách kinh tế của nhà nước. Thậm chí có người còn nuôi bọn côn đồ trộm cướp; phao đồn tin nhảm hoặc gây lộn xộn; nói xấu, vu cáo và phản đối các quan chức quận huyện; phản đối chính quyền mới… Những hiện tượng đó là rất phổ biến, ở đâu cũng có và rất nghiêm trọng. Hình thức hoạt động có khi giấu mặt, có khi lợi dụng địa vị hợp pháp, cho nên không thể dùng vũ lực để giải quyết cho nhanh. Vì như vậy có thể biến lợn lành thành lợn què và rơi vào thế bị động.

Trên đây là ý kiến của Lý Tư. Ông ủng hộ ý kiến của nhà vua và còn phân tích tình hình một cách rất chi tiết, nhằm vạch rõ tính chất nghiêm trọng của tình hình hiện nay. Tất cả những người có mặt đều tán thành ý kiến của ông và tiếp tục đi sâu bàn thảo thêm.

Lý Tư nói tiếp:

- Vụ việc ở các quận huyện tuy rất nhiều và phức tạp nhưng xét đến cùng là ở kinh tế, mà cái gốc của kinh tế là ruộng đất và tài nguyên vốn liếng. Nhưng những thứ đó đều nằm trong tay các hoàng gia và quan lại chư hầu cũ, cũng như các nhà cường hào phú hộ. Họ nắm những cái đó nên họ khống chế được tình hình, và gây ảnh hưởng đến cục diện. Chúng ta tuy có các nha phủ huyện quận, có các quan chức chính quyền, nhưng chỉ có danh mà không có thực, rất khó có thể thực hành những chính sách cần thiết.

Tần Thủy Hoàng gật đầu liên tục. Ngài nói:

- Lý Tư nói rất đúng. Không nắm được cái căn bản, bỏ cái gốc theo cái ngọn, thì sao mà chẳng tuột khỏi tay, không chú ý công việc kinh tế. Nay ta đã nắm triều chính, nhưng vận mệnh lại nằm trong tay kẻ khác. Xây lâu đài trên cát, sao đứng vững được? Ngã đau thì nhớ lâu. Nay trẫm đã có quyết sách.

Các đại thần vội hỏi:

- Bệ hạ định làm như thế nào?

- Xem ra thì vừa qua sai lầm là ở chỗ rải ra quá rộng. - Nhà vua nói và xòe năm ngón tay rồi nói tiếp, rất tâm đắc - Tôn thất của sáu nước, quan lại cũ của họ, phú hào, số này nhiều lắm, ở rải khắp thiên hạ, khó mà khống chế được họ, nên mới đưa đến tình hình như vừa qua. Nay trẫm cho tập trung họ lại một nơi, cho binh lính giám sát mọi hành động của họ. Chính sách từ nay về sau là quản: phải dựa theo pháp luật để quản mọi việc sản xuất, kinh doanh, buôn bán thương mại. Tất cả phải tuân theo luật pháp, an cư lạc nghiệp, nước giàu dân no đủ. Ai làm ăn gian dối, gây rối làm càn, phải bị nghiêm trị.

Nói xong, ngài đập mạnh nắm tay xuống bàn rồi nhìn khắp một lượt. Ngài hỏi:

- Các khanh thấy như thế nào?

- Bệ hạ quyết sách thật sáng suốt, vừa đề phòng được tai họa, vừa giữ vững được triều chính và hệ thống chính quyền, làm cho nước giàu dân no đủ. Đây thật sự lại là một chủ trương sáng tạo mới của bệ hạ.

Mọi người nhất trí ủng hộ quyết sách mới của nhà vua. Qua đó cũng cho thấy, sau việc can gián nhà vua hủy bỏ việc trục xuất khách khanh, nay Lý Tư lại giúp nhà vua đưa ra một chủ trương mới, có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với việc củng cố chính quyền và phồn vinh kinh tế.

Chính sách di dân theo nội dung nói trên được thực thi nhanh chóng. Có khoảng mười hai vạn hộ thuộc thành phần hoàng gia cũ, các quan lại cũ, các cường hào, phú hộ và đại thương gia của các kinh đô sáu nước cũ hoặc của các đô thị lớn và đại ấp, được tập trung về Hàm Dương, một số đưa đến Ba Thục (miền Tứ Xuyên, Vân Nam hiện nay). Họ bị quân đội giám sát chặt chẽ. Những cường hào phú hộ nói ở đây là những tàn dư của các lãnh chúa cũ, những người buôn bán giàu có, họ mua vơ vét ruộng đất ở địa phương mình, hoặc lũng đoạn các ngành nghề sản xuất nào đó, biến nông dân thành nô lệ, gây nguy hại rất lớn. Sau khi di chuyển đến chỗ ở mới, họ mất hết uy thế, không còn khả năng gây rối phá hoại nữa. Số ruộng đất nhà cửa và tài sản của họ ở địa phương cũ, do chính quyền quận huyện xử lý theo một chủ trương thống nhất, đem chia cho dân nghèo và nông dân. Nhờ vậy, trật tự xã hội được ổn định, kinh tế lại được phát triển thuận lợi; đồng thời, văn hóa cũng được giao lưu nhiều hơn.

Để đáp ứng nhu cầu di dân quy mô lớn và để phát triển kinh tế, Tần Thủy Hoàng ra lệnh đắp đường lớn cho xe chạy (gọi là “trì đạo”, “trì” là nhanh. Trì đạo là đường chạy nhanh). Trong phạm vi toàn quốc, lấy Hàm Dương làm trung tâm. Đường rộng sáu bộ (mỗi bộ sáu thước, tức là khoảng 2m mỗi bộ). Dùng búa sắt để nện chặt nền đường. Lòng đường rộng ba trượng, đó là đường dành riêng cho xe của Tần Thủy Hoàng. Hai bên đường trồng cây thông để làm mốc phương hướng. Hai bên mép đường, dành cho dân chúng đi lại tự do. Hàng nghìn hàng vạn con đường “trì đạo” được xây đắp, thúc đẩy giao thông đường bộ phát triển, có tác dụng tích cực thúc đẩy kinh tế văn hóa phồn vinh.

Chú thích:

[i] "Tham vọng chiếm hữu”: Trong nguyên bản là "chiếm hữu dục". Tác giả muốn nói tham vọng của Tần Thủy Hoàng muốn chiếm cho riêng mình toàn bộ quyền lực và của cải - ND.

[ii] Nguyên văn: "Ngược đãi cuồng" - ND.

[iii] Xin chú ý: đây là hình tượng con người, không phải đúc tượng - ND.

[iv] Nguyên văn: "bất hoặc chi niên" = năm không còn bị mê hoặc, đã sáng suốt. Lấy trong câu của Khổng Tử: "tứ thập nhi bất hoặc" = 40 tuổi thì biết phân biệt mọi chuyện. Sau coi "bất hoặc chi niên" là tuổi 40 - ND.

[v] Chuông dàn: mỗi bộ ít nhất có hơn một chục quả chuông, có khi lên tới trên 40 chuông, treo một hàng dài trên một cái giá gỗ; mỗi chuông có thể phát ra hai âm thanh khác nhau: điều này cho thấy kỹ thuật đúc chuông thời đó đã rất tinh xảo - ND.