← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI LĂM ĐẶT CHỮ MỚI, CẢ NƯỚC CHUNG VĂN TỰ-NÊU UY VŨ, DỐC SỨC XÂY TRƯỜNG THÀNH------

Việc xây dựng hệ thống đường “trì đạo” (đường lớn cho xe chạy nhanh) rộng khắp trong cả nước đã thúc đẩy giao lưu hàng hóa và kinh tế phát triển. Việc thông tin và quán triệt luật lệnh cũng tốt hơn trước rất nhiều. Nhưng không bao lâu sau, Tần Thủy Hoàng phát hiện rằng, rất nhiều quận huyện có nhiều lệch lạc và sai sót trong việc chấp hành chính sách, luật lệnh, thậm chí còn vi phạm pháp luật. Đối với Tần Thủy Hoàng, việc này không thể chấp nhận được. Ngài cho các cơ quan hữu quan đi kiểm tra. Kết quả cho thấy, có một vấn đề rất phổ biến, đó là các văn kiện do triều đình gửi xuống đều viết bằng chữ của nước Tần [i]. Nhưng trong mấy trăm năm kể từ hồi Xuân Thu Chiến Quốc [ii] đến nay, chế độ phong kiến các nước chư hầu mỗi nước cát cứ một phương gây nên tình trạng “ruộng đất khác mẫu, xe đường khác cỡ, luật pháp khác cách, áo mũ khác kiểu, tiếng nói khác giọng, chữ viết khác hình”. Sáu nước chư hầu cũ, mỗi nước có chữ viết theo kiểu riêng. Vì vậy, họ không thật hiểu hết tất cả chữ viết theo kiểu của nước Tần. Do hiểu sai chữ viết, nên hiểu sai nội dung của chính sách và pháp lệnh của triều đình, rồi chấp hành sai, thậm chí làm trái với chính sách và luật pháp. Hiện tượng đó rất phổ biến. Hiện tượng này là do lịch sử gây ra, nên Tần Thủy Hoàng cũng không đi sâu truy cứu hoặc trừng phạt, mà giải quyết vấn đề bằng cách xóa bỏ những trở ngại về mặt chữ viết. Tiếp đó, ngài lại họp bàn phương án cải cách chữ viết.

Tại buổi chầu, Tần Thủy Hoàng nói:

- Mấy trăm năm nay, mỗi chư hầu cát cứ một nơi, luật pháp khác nhau, chữ viết không giống nhau đến nỗi các quận huyện thực thi các chính sách và pháp lệnh thường hiểu sai chữ, nên làm sai pháp luật, vi phạm pháp luật. Nay cần xóa bỏ những khác biệt đó, thống nhất chữ viết, để dễ dàng thực thi luật pháp. Mong các khanh góp ý kiến bàn thảo.

Các đại thần nhất trí với chủ trương cải cách chữ viết của nhà vua, nhưng cụ thể như thế nào, phải giao cho các “học sĩ” nghiên cứu và nêu ra phương án, sau trình nhà vua duyệt và ban bố thi hành. Tần Thủy Hoàng là người chú trọng hiệu quả, làm việc gì cũng phải nhanh, có kết quả ngay. Vả lại, ngài cho rằng các “học sĩ” rất bảo thủ, cố chấp, cứng nhắc, chỉ vùi đầu trong sách vở, có thể không ủng hộ việc cải cách đổi mới; cho dù họ phải làm theo mệnh lệnh của vua, cũng không nhất định là làm tốt. Nghĩ vậy, ngài quyết định giao việc này cho những người làm việc thực tế, giàu tinh thần cầu tiến và hăng hái trong cải cách. Những người như vậy sẽ xây dựng nhanh phương án và đưa ra thực thi sớm. Vì vậy, Lý Tư được coi là nhân vật lý tưởng. Bản thân Lý Tư cũng biết rằng mình được nhà vua tin cậy, sủng ái, nên vừa mừng vừa lo. Khi nghe nhà vua giao việc này cho mình, ông cảm tạ nhà vua đã tín nhiệm mình và hứa hẹn sẽ hết sức làm tốt và làm thật nhanh công việc được giao.

Thực ra Lý Tư từ lâu đã chú ý tích lũy rất nhiều tư liệu về vấn đề chữ viết, và cũng đã làm rất nhiều thử nghiệm cải cách chữ viết. Ngay từ năm mười bảy niên hiệu Tần Thủy Hoàng, quan nội sử Đằng đánh nước Hàn, bắt được vua Hàn Vương An, giành thắng lợi đầu tiên trong quá trình chinh phục sáu nước, Lý Tư đã phát hiện rằng Vương An tuy là một hôn quân, chỉ đam mê tửu sắc (lúc bị bắt, Vương An mặc quần áo đàn bà và sặc mùi nước hoa), nhưng lại rất say sưa cải cách chữ viết và đã từng làm một số thử nghiệm bổ ích. Do vậy, Lý Tư cho rằng có thể sử dụng Vương An, để Vương An làm gia nô trong nhà mình và ra lệnh cho Vương An khắc chữ trên tre và các công văn giấy tờ khác. Mặt khác, sai Vương An sưu tầm, chỉnh lý chữ viết của các nước, để tìm ra kiểu chữ viết khác nhau của các nước. Các chữ viết kiểu khác nhau ấy ở nước nào, khu vực nào, và nên thay đổi như thế nào thì hợp lý và dễ sử dụng, v.v... Lý Tư là người chủ quản pháp luật và công tác tình báo cả nước. Thông qua việc thẩm vấn và việc thu thập tin tức tình báo các nước, ông phải đọc hàng đống tài liệu mỗi ngày, trong đó chữ viết rất phức tạp, đa dạng, làm cho ông phải căng óc căng mắt ra để đọc và tìm hiểu nội dung của các kiểu chữ viết đó. Do đó dần dần ông rèn luyện cho mình khả năng nhận biết các kiểu chữ khác nhau, và cũng qua đó nắm được quy luật thay đổi và phát triển của chúng. Đó là chưa kể tới một gia nô Vương An đang làm việc không công cho ông, giúp cho ông rất nhiều.

Sau khi nhận được nhiệm vụ do nhà vua giao cho, Lý Tư về nhà và gọi ngay Vương An đến để hỏi về việc này. Vương An nói rằng các tư liệu đã sưu tầm được hòm hòm rồi, chỉ có điều là chưa hệ thống hóa và chưa phân tích giải trình mà thôi. Lý Tư bảo ông ta phải viết xong càng sớm càng tốt. Vương An vâng dạ rối rít rồi lui ra. Lúc ấy, Lý Tư nói nhỏ với ông ta rằng nhà vua muốn thống nhất văn tự; cho nên công việc nghiên cứu văn tự mấy năm nay chủ yếu để phục vụ công tác chuyên môn ngành luật pháp và tình báo, nhưng nay sẽ rất bổ ích cho sự cải cách văn tự của nhà vua. Vương An nghe vậy rất mừng, vội quỳ xuống cầu xin Lý Tư, mong Lý Tư nói vài lời tốt đẹp về ông ta trước mặt nhà vua, nếu như kết quả công việc của ông ta có chỗ nào có thể sử dụng được; may ra nhà vua sẽ cho ông ta kết thúc thân phận tôi tớ để làm một thư lại thông thường, thì ông ta sẽ cảm ơn vô cùng. Lý Tư mỉm cười, đỡ ông ta dậy, và nói rằng ông ta cứ làm công việc cho tốt, chắc chắn sẽ đạt được nguyện vọng. Vương An sung sướng rơi lệ, vội vái chào và đi về chỗ mình. Ông ta viết liền một mạch trong gần nửa tháng, hoàn thành một số chuyên đề về cải cách văn tự, và nêu lên một số kiến nghị rất có giá trị. Ông ta đưa hai tay nâng một bó tre đã khắc chữ trình cho Lý Tư, ngẩng đầu nhìn thẳng vào Lý Tư, chờ đợi và hy vọng. Ly Tư cầm lấy văn bản và cười vui vẻ. Ông khen Vương An làm việc rất có kết quả, và nếu nhà vua xem các văn bản này, ngài đồng ý thì từ nay Vương An sẽ không còn làm đầy tớ nữa, mà là một viên thư lại (nhân viên văn thư). Để khen Vương An cần cù lao động và có hiệu quả, Lý Tư còn đặc cách cho phép Vương An cùng ăn cơm chung với các nhân viên văn thư, và thưởng cho ông ta một bữa điểm tâm để ăn lúc làm việc ban đêm. Vương An nhận món điểm tâm, vừa mừng vì được ân sủng, vừa lo vì công việc, nên đêm hôm đó làm việc rất khuya, ăn ngon lành món điểm tâm ngọt ngào kia, xong rồi yên tâm đi ngủ. Ai ngờ vì ăn phải của độc nên bị đi tả rồi chết đột ngột. Lý Tư sai người chôn cất qua quýt và ra lệnh không ai được nói về chuyện này, ai nói ra cũng sẽ chịu số phận như Vương An. Bi kịch của Vương An còn thảm hơn cả người anh họ Hàn Phi của ông ta, vì Vương An lúc chết vẫn không biết là Lý Tư đã hãm hại ông ta, mà còn lấy làm tiếc là không thể tiếp tục phục vụ ông trùm gián điệp này lâu hơn nữa.

Lý Tư không bao giờ tỏ ra xót xa hối hận về thủ đoạn vô nhân đạo, thẳng tay hãm hại người khác một cách tàn bạo, mất hết tính người đó của mình. Ngược lại, ông ta còn cho đó là một kế sách được việc. Bởi vì đối với một nhân vật tiêu biểu cho phái “Pháp gia” như ông ta, thì việc không từ một thủ đoạn nào để loại trừ đối thủ và cướp công của họ, là bí quyết và là việc làm cần thiết để bản thân được thăng quan tiến chức và công thành danh toại.

Lý Tư cho rằng về mặt giết người như ngóe và lập nghiệp trên xương máu người khác thì so với vua Tần Thủy Hoàng, ông ta chẳng thấm vào đâu, còn kém xa. Vì vậy ông ta thản nhiên đưa hai tay đẫm máu của mình dâng tác phẩm của Vương An lên nhà vua và cung kích nói rằng đây là những phương án cải cách văn tự của mình, xin nhà vua thẩm định.

Tối hôm ấy, nhà vua gạt tất cả những bản tấu trình thường ngày sang một bên để chăm chú đọc “tác phẩm” của Lý Tư. Qua đó, ngài mới biết rằng thứ văn tự được khắc hoặc đúc trên các chuông đỉnh và các khí cụ khác, nét bút rất phức tạp, được gọi là chữ “triện lớn” hoặc chữ “trứu”. Vào thời kỳ đầu Chiến Quốc, nước Tề và nước Lỗ có nền văn hóa tương đối phát triển. Ở đấy lưu hành một kiểu chữ khá đơn giản, gọi là chữ “khoa đẩu” (con nòng nọc). Kiểu chữ này nhanh chóng được các nước chư hầu khác sử dụng. Điều này cho thấy, xu thế của việc cải cách văn tự là từ phức tạp đến đơn giản, bỏ nhiều nét để đi đến ít nét. Tiếp đó, bản phương án do Lý Tư trình lên, còn nói rằng do các nước chư hầu mỗi nước cát cứ một phương, mỗi nước một chế độ và chính sách riêng, thêm vào đó là mỗi nơi có tiếng nói địa phương: phương ngôn thổ ngữ; cho nên, chữ “triện” từ thời cổ để lại, đã dần dần biến đổi hình dạng, và có hiện tượng: cùng một chữ nhưng có nhiều cách viết khác nhau. Ví dụ chữ mã (ngựa), chữ “tương” (phụ giúp)... mỗi nước đều có cách viết khác nhau, có đến mấy chục chữ như vậy. Nhà vua thấy bản phương án này viết rất phong phú, dẫn chứng đầy đủ, sử liệu xác thực. Cuối cùng, bản phương án nêu lên rằng: “Chữ triện từ thời thượng cổ được lưu hành đến nay, nhưng vì quá lâu đời. nhiều người không hiểu. Nay phải bớt nét của những chữ quá nhiều nét, để cho kiểu chữ hợp lý. Đó gọi là “tiểu triện” (chữ triện nhỏ).

Nhà vua chong đèn đọc một mạch hết “tác phẩm” của Lý Tư, cảm thấy mở rộng tầm mắt, thu hoạch rất nhiều. Ngài rất khâm phục và thầm khen ngợi Lý Tư, vì ông ta đã tuân theo ý chỉ của ngài và viết ra một công trình có giá trị, trong một thời gian ngắn như vậy. Vì thế, trong một cuộc hội nghị triều chính sau đó, ngài đã biểu dương Lý Tư, gọi ông ta là nhà học giả lớn “bác cổ thiên kim” (hiểu rộng cả thời xưa và nay); là tấm gương về lòng trung với vua, chăm lo công việc, chịu khó suy nghĩ và biết cách làm việc. Ngài tuyên bố giao cho Lý Tư chủ trì việc cải cách văn tự [iii], và ngài yêu cầu phải nhanh chóng tìm ra một số kết quả. Sau đó Lý Tư đã viết tác phẩm “Thương Hiệt thiên” [iv] nổi tiếng, được lưu truyền hậu thế, được coi là cơ sở để sáng tạo ra chữ triện nhỏ thời nhà Tần.

Cuộc cải cách văn tự này đã tạo cơ hội cho Triệu Cao, một kẻ có nhiều dã tâm, thực hiện được mưu gian của ông ta. Nhờ đó mà sau này, ông ta không những được miễn tội chết, mà còn được nhà vua ngày càng tin dùng, để đến nỗi ông ta ngày càng chuyên quyền, lộng hành. Cuối cùng Triệu Cao trở thành “đại họa” của đất nước.

Triệu Cao là ai? Triệu Cao vốn là người bà con xa của vua Điệu Tương Vương nước Triệu. Mẹ Triệu Cao phạm tội nên Triệu Cao và hai người em bị tội “hoạn” và trở thành “quan hoạn” (thái giám) ở Triệu. Sau đó, Triệu Cao sợ vua mới của Triệu là Vương Thiên tiếp tục hãm hại mình, nên thừa cơ bỏ trốn khỏi Hàm Đan và chạy sang Hàm Dương. Tại đây, được thái hậu Triệu Cơ thương hại, nên được vào làm thái giám trong cung Hàm Dương. Ông ta biết rất rõ là nước Tần và nước Triệu đã trở thành thù địch không đội trời chung. Trong khi đó Tần Thủy Hoàng là con người đa nghi, không tin ai, cho nên “đi theo nhà vua giống như đi theo hổ”. Biết vậy, nên Triệu Cao làm việc gì cũng hết sức thận trọng, rất ít nói. Ngoài việc hầu hạ Tần Thủy Hoàng trong việc ăn mặc ở và đi lại, Triệu Cao cố gắng đọc sách, đọc thuộc như cháo cuốn “Tần luật”. Mỗi khi nhà vua thẩm duyệt các vụ án; muốn trích dẫn các điều khoản nào đó trong pháp luật để làm căn cứ phê duyệt, Triệu Cao liền chủ động đọc thuộc ngay điều nào, mục nào, chương nào, phù hợp với vụ án đó; ông ta nói vanh vách không sai một chữ. Có một lần nhà vua không đưa vụ án ra để hỏi, mà là đưa sách luật ra rồi giở một trang bất kỳ ra để hỏi Triệu Cao thuộc chương nào, điều nào, mục nào, loại nào, Triệu Cao cũng lập tức nói rõ từng câu từng chữ, không hề sai sót. Nhà vua khen ngợi Triệu Cao đọc nhiều và có trí nhớ tốt, và bổ nhiệm làm “trung xa phủ lệnh”, phụ trách việc xe ngựa, đi lại của hoàng gia; bảo quản “ngọc tỷ” của hoàng đế. Đó thật sự là một nhân vật có thực quyền. Nhưng vì xuất thân là một người có tội bị hoạn, nên không khỏi bị các hoàng thân quốc thích và các trọng thần coi khinh. Vì thế cho nên luôn cảm thấy tự ti, tự hổ thẹn, và cũng luôn luôn muốn làm nên một việc gì đó, để được nhà vua chú ý, coi trọng và những người khác cũng nhìn ông ta với con mắt khác, để ông ta có thể ngẩng cao đầu, dùng cái thế mạnh về chính trị để bù đắp được nỗi nhọc nhằn khổ sở hơn chục năm nay phải hạ mình nhẫn nhục trong mọi công việc.

Hôm họp triều chính bàn việc cải cách văn tự, Triệu Cao cũng có mặt, nhưng chỉ là người hầu hạ bên cạnh nhà vua mà thôi. Khi nhà vua nêu câu hỏi để các đại thần thảo luận, sau đó lại bàn về việc cử ai viết phương án cải cách. Triệu Cao từng mấy lần muốn đứng ra xin làm công việc đó theo kiểu “Mao Toại tự giới thiệu”, nhưng ông ta phát hiện ngay rằng nhà vua và các vị đại thần đài các kia đang ăn nói đĩnh đạc với nhau, nào có thèm liếc mắt đến ông ta đâu. Bởi vì ông ta chỉ là một hoạn quan, làm đến chức “trung xa phủ lệnh” cũng chẳng qua là người hầu hạ để nhà vua sai vặt mà thôi; cho nên, họ không bao giờ để cho ông ta tham gia thảo luận trong những cuộc họp có tính chất học thuật và chính trị như thế này. Nhưng trên thực tế, thì ông ta không hề thua kém Lý Tư về lý luận và thực tiễn đối với các lĩnh vực như nguồn gốc của chữ Hán, quá trình diễn biến của nó, và hiện trạng cũng như xu thế phát triển của văn tự này. Chẳng qua là do hoàn cảnh cá nhân bất lợi nên không thể thi thố tài năng. Nghĩ đến đây, ông ta cảm thấy chán nản, và sinh ra rất đố kỵ với Lý Tư. May mà ông ta được giao giữ “ngọc tỷ” của nhà vua, luôn luôn ở gần nhà vua, nên ông ta cố tìm một dịp thích hợp nào đó để ngỏ ý xin nhà vua cho được tham gia công việc cải cách văn tự. Khi nhà vua tỏ ra bán tín bán nghi về khả năng của ông ta, ông ta bèn đưa trình nhà vua một văn bản mà ông ta đã viết xong, gọi là “Viên lịch thiên”, một cuốn sách tập đọc phổ cập chữ Hán viết theo lối in mẫu. Nhà vua xem xong, vừa kinh ngạc vừa mừng, ngài cười và nói với Triệu Cao một cách thân mật nhưng có phần tự trách mình như sau: “Khanh đã theo hầu ta hơn mười năm, nay mới thấy khanh có tài năng như thế?” Vì vậy, sau khi xác định xong phương án cải cách văn tự thống nhất, nhà vua tuyên bố giao cho Lý Tư chủ trì và Triệu Cao được tham gia vào công việc quan trọng đó. Sau đó, Triệu Cao phạm tội khi quân vì nhận hối lộ của Lư Sinh, một thầy cúng (gọi là “phương sĩ”), để cho Lư Sinh dùng ảo thuật thần tiên để lừa dối nhà vua). Thượng khanh Mông Nghị nhận lệnh vua xét xử vụ án này. Mông Nghị biết rõ Triệu cao có quan hệ thân thiết với nhà vua nhưng không hề nể nang, đã tuyên án Triệu Cao tử hình. Ai ngờ nhà vua lại nói rằng Triệu Cao có tinh thần trách nhiệm trong công việc, tinh thông pháp luật, có cống hiến lớn trong việc cải cách văn tự, nên ngài tự tay viết chiếu thư phục hồi chức vụ cho Triệu Cao. Từ đó, Triệu Cao ra sức phỉnh nịnh bợ đỡ nhà vua, cuối cùng dám âm mưu tiếm quyền đoạt vị. Về việc này sẽ nói ở phần sau.

Dưới sự chủ trì của Lý Tư, còn có một người khác cùng tham gia công việc cải cách văn tự, đó là “thái sử lệnh” Hồ Vô Kính. Bản “Bác học thiên” của Hồ Vô Kính, cùng với “Thương Hiệt thiên” của Lý Tư và “Viên lịch thiên” của Triệu Cao, được coi là ba tác phẩm bậc nhất (“Tam đỉnh giáp”) của công trình sáng tạo chữ triện nhỏ thời nhà Tần [v].

Như vậy, trong việc cải cách văn tự do Tần Thủy Hoàng khởi xướng, ngoài việc sáng tạo ra lối “chữ triện nhỏ” (của Lý Tư), còn có hai kiểu chữ mới, đơn giản hơn, dễ viết hơn và đều do hai “tiểu nhân vật” (Triệu Cao và Hồ Vô Kính) viết ra.

Lúc ấy có một người tên là Vương Tiên Trọng, quê ở Thượng Cốc, thông minh nhạy cảm, giỏi ứng biến, ông ta phát hiện ra rằng lối chữ triện do Thương Hiệt thời cổ đại sáng tạo là dựa trên cơ sở hình dạng chim chóc. Kiểu chữ ấy rất hình tượng và sinh động, nhưng quá phức tạp, khó học, khó viết. Do vậy, Vương Tiên Trọng bèn dựa vào nội dung được bao hàm trong các chữ triện để sáng tạo ra một kiểu chữ viết (“Thư thể” [vi]), đường nét đơn giản, ý tứ rõ ràng, vừa dễ học, vừa dễ viết. Thời bấy giờ, luật pháp nhà Tần rất nghiêm, các văn bản kiện tụng rất nhiều, những người chuyên trách giấy tờ ở tòa án rất thích viết bằng kiểu chữ đơn giản của Vương Tiên Trọng.

Nhà vua phát hiện ra chuyện nói trên, ngài cũng rất thích và sai người đi gọi Vương Tiên Trọng về triều. Người đi gọi ba lần, nhưng Vương Tiên Trọng đều không đến. Bởi vì ông ta hiểu rõ Tần Thủy Hoàng và Lý Tư chỉ biết lợi dụng người khác chứ không hề tôn trọng người khác cho nên rất sợ mình đến đó rồi cũng chịu cùng số phận như Hàn Phi và Vương An, chẳng được sống yên ổn đến cuối đời. Nghĩ vậy nên sau đó, ông ta vào hẳn trong núi ở ẩn, để khỏi bị hãm hại. Nhà vua thấy Vương Tiên Trọng không chịu đến bèn nổi trận lôi đình, ra lệnh bắt giết. May mà “thái sử lệnh” Hồ Vô Kính là một lão thần nhân hậu, nên đã nói khéo với nhà vua rằng học vấn của Vương Tiên Trọng chẳng đáng là cái gì, phạm nhân Trình Mạc ở trong nhà ngục Vân Dương còn giỏi hơn Vương Tiên Trọng rất nhiều. Nhà vua nghe vậy mới hết giận, bèn cho thả Trình Mạc và đưa hai tác phẩm của Vương Tiên Trọng viết về kiểu chữ in cho Trình Mạc xem để tham khảo. Trình Mạc kết hợp kiểu chữ của Vương Tiên Trọng với kiểu chữ do ông ta sáng tạo ra, để tạo ra một kiểu chữ mới, dễ học và dễ viết hơn “chữ triện nhỏ” rất nhiều. Vì Trình Mạc xuất thân thấp hèn (lệ dân. Lệ: lệ thuộc, nô lệ) nên sách về chữ viết của ông gọi là “lệ thư” (chữ lệ). Chữ viết “lệ thư” ấy lúc đầu dùng dao để khắc. Về sau, dần dần được dùng bút để viết (theo sách “Sử ký”, tướng quân Mông Quát nhà Tần sáng tạo ra bút lông), và trở thành chữ viết chân phương, chữ mẫu, gọi là “khải thư”. Sau khi chữ mẫu chân phương được định hình, liền nhanh chóng được sử dụng rộng rãi trong cả nước cho đến tận ngày nay, đã hơn hai nghìn năm. Do đó có thể thấy, việc thống nhất văn tự để “viết giống nhau” do Tần Thủy Hoàng khởi xướng và thực hiện là sự kiện có ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc đối với công cuộc xây dựng văn hóa Trung Quốc và là cống hiến to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Những thành quả quan trọng của việc sử dụng “chữ triện nhỏ” và chữ “lệ thư” được Lý Tư, Triệu Cao, Hồ Vô Kính và Trình Mạc viết thành sách. Sau đó. những sách này được biên tập lại và phân phát khắp nước. Từ đó kiểu chữ mới được sử dụng phổ cập, rất được hoan nghênh.

Khi soạn thảo chiếu thư để thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi chữ mới, Tần Thủy Hoàng nêu lên rằng, nếu như danh hiệu quân chủ đã bỏ chữ vương, mà gọi là “hoàng đế”, vậy thì tên gọi dân chúng cũng không nên gọi là “lê dân” từ thời nhà Chu nữa mà nên gọi một tên gì đó phù hợp với đặc điểm nước Tần. Sau một cuộc thảo luận, cuối cùng quyết định dùng từ “kiềm thủ”. Sở dĩ lấy tên là “kiềm thủ” (kiềm là màu đen, thủ là đầu. Kiềm thủ là những cái đầu màu đen, gọi tắt là “đầu đen”), là vì nhà Tần tôn sùng màu đen, dân chúng dùng vải đen để vấn đầu. Hơn nữa, ngay trong cuốn “Lã Thị Xuân Thu”, Lã Bất Vi đã dùng danh từ “kiềm thủ” (đầu đen). Có thể thấy, dân chúng nước Tần lúc ấy đã chấp nhận cách gọi đó. Tần Thủy Hoàng cho rằng cách gọi đó là hợp lý, cho nên chính thức ban chiếu gọi “lê dân” là “kiềm thủ”. Sau đó, danh từ “kiềm thủ” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện và trên các bia đá kỷ niệm.

Sau khi hoàn thành việc cải cách văn tự, một sự kiện rất to lớn, Tần Thủy Hoàng bèn nghĩ tới việc làm thế nào để tâm tình thoải mái hơn, sau nhiều năm quá căng thẳng. Vì vậy, ngài bắt đầu đi tuần du ở miền Bắc. Đây là cuộc tuần du đầu tiên sau khi ngài xưng là “hoàng đế”. Địa phương tuần du là quận Bắc Địa và quận Lũng Tây ở cao nguyên Tây Bắc, tức là khu vực thuộc tỉnh Ninh Hạ và Cam Túc hiện nay.

Số người đi theo nhà vua tuần du lên tới một vạn năm nghìn người. Trong đó có 360 quan văn võ, 360 hoạn quan, cùng một số phi tần và cung nữ; còn lại là bộ binh, kỵ binh, chiến xa, do đội danh dự dẫn đầu. Đoàn tuần du của nhà vua khởi hành từ cung Hàm Dương, đi vòng theo con đường lớn phía trước cung, xong đi về phía Tây Bắc. Dọc đường các quan chức địa phương ra nghênh đón và tiễn đưa, dân chúng “đầu đen” ra hoan hô và vái chào, vô cùng ồn ào náo nhiệt. Đầu tiên, đoàn đến Nghĩa Cự, thuộc quận Bắc Địa, các thủ lĩnh bộ lạc người Nhung ở địa phương ra chào đón nhà vua rất nhiệt liệt. Qua trao đổi chuyện trò với họ, nhà vua được biết mười hai người của người Tây Nhung hiện nay là hậu duệ của Do Dư, lãnh tụ dân tộc Nhung mà cách đây hơn bốn trăm năm, vua nhà Tần lúc đó là Tần Mục Công đã gọi hàng và trọng dụng. Vì vậy, đến nay, người Nhung vẫn nhớ đến công ơn của vương triều nhà Tần đối với tổ tiên họ và đối với bộ lạc của họ. Cuộc gặp gỡ này đã làm cho đôi bên giao lưu tình cảm, tăng thêm hiểu biết. Đại biểu các bộ lạc người Nhung tụ tập đông đủ ở Nghĩa Cự, tổ chức yến tiệc rất lớn để chào đón nhà vua, họ ca hát, nhảy múa thâu đêm suốt sáng. Tần Thủy Hoàng rất cảm động, đã tặng cho họ nhiều vàng bạc châu báu; và nhận lời họ ở lại chơi ở đó ba ngày, sau mới tiếp tục đi sang miền Tây. Đoàn đi qua núi Kê Đầu và núi Lục Bàn, rồi đến quận Lũng Tây. Tại quận lỵ Địch Đạo, thái thú quận và dân chúng các tộc người Địch, Nhung và Bo (người Dân Gia) nhiệt liệt chào đón nhà vua. Sau đó, nhà vua tiếp kiến riêng thủ lĩnh bộ tộc người Bo tại Bo Đạo (nay là Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên). Từ thời xa xưa, người Bo từng tham gia đội quân của vua Vũ Vương đánh diệt vua Trụ, vì có công nên thủ lĩnh tộc người Bo được phong tước hầu, gọi là “hầu Bo”, về sau được cụ nội của Tần Thủy Hoàng là Tần Chiêu Vương quan tâm. Tần Chiêu Vương không những ban thưởng rất hậu cho thủ lĩnh người Bo, mà còn sai người đến giúp người Bo cải tiến sản xuất, khơi thông sông ngòi, xây đường đắp cầu, làm cho sản phẩm của người Bo bán rất chạy ở nhiều nơi, kinh tế người Bo rất phát triển. Nay người Bo nghe tin nhà vua đến thăm, họ mừng lắm. Khi thủ lĩnh của họ đến chào nhà vua, ông ta biếu nhà vua một bức họa ba màu: đỏ, trắng, son, có con chim đang bay, tượng trưng cho tổ tiên họ, để bày tỏ rằng người Bo đời đời quy thuận vương triều đại Tần. Theo thường lệ, nhà vua biếu vàng bạc châu báu cho các dân tộc ở đây và khuyên họ chung sống hòa thuận với nhau, đoàn kết giúp đỡ nhau để phát triển đi lên. Khi đoàn người của nhà vua từ biệt để tiếp tục hành trình, hàng vạn người ra đường tiễn đưa, họ ca hát nhảy múa hai bên đường, kéo dài đến mấy dặm. Nhà vua ngồi trên xe ngựa, bảo cho xe đi chầm chậm, ngài cúi mình vẫy tay chào dân chúng, trong lòng rất phấn khởi nhưng vẫn cố tình nghiêm sắc mặt để tỏ vẻ uy nghiêm, cốt gây ấn tượng mạnh trong dân chúng. Họ sẽ nhìn nét mặt nhà vua mà kính trọng nhưng cũng phải sợ hãi, để rồi mãi mãi làm thần dân ngoan ngoãn của đấng bạo chúa.

Cuộc tuần du của nhà vua qua hơn hai nghìn dặm. Lúc đi về không theo đường cũ, mà đi qua huyện Lũng, dọc đường có nghỉ lại một đêm trên con đường dành riêng cho nhà vua, sau đó về Hàm Dương. Tần Thủy Hoàng tương dối vừa lòng đối với chuyến đi Tây Bắc này. Bởi vì qua đó, ngài cảm nhận sâu sắc những công lao của các bậc tổ tiên trước đây của ngài đã từng bình dẹp các dân tộc Di, Địch ở miền Tây Bắc, làm cho các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc và cả ở Tây Nam này từ đó đến nay luôn luôn thần phục đế quốc đại Tần, tạo điều kiện cho nhà Tần không bị quấy nhiễu quá nhiều, để có thể tập trung vào xây dựng kinh tế và văn hóa. Nào ngờ, khi nhà vua vừa về đến Hàm Dương không bao lâu, đang định nghỉ ngơi một thời gian, thì Phùng Kiếp tấu trình cấp báo rằng quân Hung Nô ở bên kia biên giới phía Bắc đang tấn công vào đất Tần. Nhà vua lại bắt đầu căng óc ra để tìm cách đối phó.

Hung Nô là một tộc người du mục, lúc ấy đã có tới trên bảy mươi vạn nhân khẩu, rất dũng cảm, thiện chiến, có ý chí quật cường. Vùng thảo nguyên rộng lớn, nơi mà họ thường qua lại và chăn đàn ngựa lớn của mình tiếp giáp với miền Bắc nước Triệu. Trước kia, danh tướng nước Triệu là Lý Mục đã dẫn quân đánh vào quận Đại một thời gian dài, đã đánh cho quân Hung Nô thất bại nặng nề, khiến người Hung Nô không dám chăn thả ngựa ở thảo nguyên miền Nam của họ. Vì vậy, miền biên giới phía Nam của họ trong nhiều năm rất im ắng. Nhưng sau khi Lý Mục chết, quân tàn dư của Lý Mục kết hợp với công tử Gia của hoàng gia nước Triệu đổi quận Đại thành nước Đại, nhưng nước Đại cũng bị Tần tiêu diệt và đặt tên là quận Cửu Nguyên. Người Hung Nô bèn nhân cơ hội Tần Thủy Hoàng đi tuần du Tây Bắc và chuyển sang chăm lo công việc nội chính bèn đưa quân xâm nhập miền Bắc nước Tần với quy mô lớn; họ trút cơn giận căm thù đối với Lý Mục và quân Triệu lên đầu những người dân vô tội, gây nên thương vong rất nặng nề cho nước Tần. Tần Thủy Hoàng đương nhiên không thể chấp nhận những hành động đó của Hung Nô, nhất là khi ngài đã là Hoàng đế của đế quốc Tần rộng lớn.

Lúc ấy, phương sĩ (thầy bói) Hầu Sinh và Lư Sinh dâng lên Tần Thủy Hoàng bản dập dòng chữ trên bia đá ở “núi tiên” ở biển Đông (Đông Hải). Dòng chữ đó là “Người Hồ tiêu diệt nước Tần” (“Vong Tần giã, Hồ dã”). Thực ra thì Hầu Sinh và Lư Sinh đã bịa ra lời “chiêm tinh” đó để che giấu trò bịp bợm mà họ đã bày đặt ra để đi tìm cái gọi là “thuốc tiên” trường sinh bất lão cho Tần Thủy Hoàng. Khi nhận được những lời tiên đoán “chiêm tinh” ấy, Tần Thủy Hoàng hết sức kinh hoàng, nhưng ngài trấn tĩnh lại và quyết tâm đánh bại lũ giặc người Hồ (Hung Nô). Tiếp đó là một cuộc điều binh khiển tướng để đánh Hung Nô.

Thái tử của vua Hung Nô là Mao Đốn dẫn mười vạn quân nhưng lại rêu rao là ba mươi vạn, đột ngột xuất phát từ sườn núi Âm Sơn, cấp tốc hành quân đến quận Cửu Nguyên. Họ vượt sông Hoàng Hà bất chấp băng tuyết lạnh thấu xương, tiến gần đến một bên Trường Thành. Đến đó, họ lựa chọn địa thế rồi cắm doanh trại, chờ thời cơ xuất kích.

Trong khi đó, ở phía bên trong Trường Thành, hơn ba mươi vạn tướng sĩ quân Tần do đại tướng quân Phùng Kiếp và tướng quân Mông Quát chỉ huy đang sẵn sàng nghênh chiến. Tướng quân Mông Quát dã từng bảo vệ biên giới phía Bắc nhiều năm, nên hiểu rất rõ về tướng lĩnh và cách tác chiến của Hung Nô. Nay ông ta đang thông báo về tình hình địch cho Phùng Kiếp, và đồng thời cũng để bố trí thế trận chiến đấu. Mông Quát nói:

- Rợ Hồ tuy đã nhiều lần xâm phạm nước ta, chúng coi vùng Trường Thành là nơi quen thuộc đối với khinh kỵ binh của chúng. Nhưng xét cho cùng thì chúng là dân du mục, tuy bản chất là giết người và cướp của, nhưng chúng không ở lâu một nơi. Quân ta có thể cứ án binh bất động, tạm không ra ứng chiến, để làm nhụt đi nhuệ khí đang hăng máu của chúng. Quân ta có thể sớm mai phục ở đèo Sát Hổ, chờ cho chúng lọt vào vòng vây rồi bất ngờ tập kích diệt gọn. Đại tướng quân có thể đưa bốn vạn quân mai phục hai bên đèo, ngăn cản viện quân của chúng. Mạt tướng sẽ đưa quân chủ lực ứng chiến quân địch từ phía chính diện, buộc chúng phải đi vào ổ phục kích của quân ta. Lúc ấy quân của ngài và của tôi phối hợp tập kích ba, bốn phía, nhất định toàn thắng.

Phùng Kiếp nói khiêm tốn:

- Tôi phụ tá triều chính đã nhiều năm, nay ra trận có phần nào chưa được đầy đủ, nhưng vâng lệnh bệ hạ phải tham chiến, vì vậy mọi việc sẽ tùy theo lệnh của tướng quân. Tướng quân đã nắm rõ được mọi ngọn nguồn lạch sông, cho nên xin cứ mạnh dạn điều khiển, phối hợp tác chiến, cố gắng diệt sạch bọn địch xâm phạm, như vậy mới không phụ lòng mong đợi của thánh thượng, xứng đáng với trọng trách mà xã tắc giao phó.

Mông Quát ca ngợi tinh thần khiêm tốn và khoáng đạt của đại tướng quân, xong giao bốn vạn quân tinh nhuệ cho Phùng Kiếp, để hành quân suốt đêm đến mai phục tại đèo Sát Hổ. Bản thân Mông Quát chỉ huy quân chủ lực cũng bố trí trận địa sẵn sàng ứng chiến.

Hữu Hiền Vương của quân Hung Nô xung phong dẫn một vạn khinh kỵ binh, vượt qua khoảng trống của Trường Thành, phi như bay vào lãnh thổ nước Tần, khí thế rất hung hăng, sát khí đằng đằng. Chúng vào sâu đến hai mươi dặm, nhưng không thấy quân Tần ra ứng chiến, lại tiếp tục vào sâu mười dặm nữa, vẫn không thấy quân Tần ở đâu. Hữu Hiền Vương nghĩ rằng đã vào sâu mấy chục dặm thế này mà không thấy trận địa, bèn sinh nghi ngờ, sợ có mưu kế gì đây. Đang nghĩ ngợi, thì có tiếng trống nổi lên như sấm dậy ở hai bên đường, tiếng thét “Giết! Giết!” của quân Tần rền vang khắp bốn phía. Quân Hung Nô đã lọt vào trận địa của tướng Mông Quát. Lúc ấy quân Hung Nô đang phi ngựa trên đường bỗng bị bao vây đột ngột nên không thể lập tức dừng ngựa mà vẫn cho ngựa chạy từ từ, không kịp bố trí trận địa đã phải bị động ứng chiến, vì vậy rơi vào thế yếu.

Hữu Hiền Vương thấy thế trận của mình bất lợi nên ra sức cứu vãn tình hình bằng cách hò hét rất to, rồi xông lên phía trước, dẫn đầu binh sĩ áp sát quân Tần, cố mở một đường máu để phá vây. Quân Tần thấy vậy, bèn quyết tâm chặn đứng Hữu Hiền Vương. Mông Quát cầm cờ lệnh chỉ huy quân Tần xông vào quân địch. Tiếng thét của tướng sĩ quân Tần cùng với tiếng trống trận vang trời dậy đất, như dông bão mưa nguồn kinh thiên động địa. Nhưng quân Hung Nô đều là những dũng sĩ từng được huấn luyện, lại đang bị bao vây; hơn nữa dũng khí phi thường của Hữu Hiền Vương cũng là một động lực mạnh mẽ lúc ấy, cho nên, họ cũng quyết tâm phá vây. Cuộc chiến ngày càng quyết liệt, cả hai bên đều thương vong rất lớn.

Mông Quát thấy quân hai bên cứ giằng co mãi, bèn sai phó tướng Tân Đằng ra tiếp sức. Tân Đằng là hậu thế của danh tướng Tân Thắng trước đây, còn trẻ tuổi mà lại dũng cảm hơn người, thét một tiếng như hổ gầm rồi thúc ngựa xông thẳng vào giữa quân Hung Nô, đưa kích gạt ngang rồi đâm thẳng, giết và làm bị thương rất nhiều quân địch. Tân Đằng vừa giết địch vừa tiến lên, cho đến lúc đến trước mặt Hữu Hiền Vương. Hữu Hiền vương bất ngờ giáp mặt đại tướng quân Tần, vội quay mũi giáo đâm mạnh vào Tân Đằng. Nhưng Tân Đằng đã nhanh nhẹn tránh sang một bên. Hai con ngựa chạy ngược chiều nhau, chạm mạnh hông vào nhau. Nhưng hai viên tướng đối địch lại quay ngựa, trở lại giao chiến với nhau. Cứ thế, hai bên cứ xông vào nhau, rồi đi quá đà, rồi quay lại, lại xông vào nhau, một bên cầm kích, một bên cầm giáo, cứ đâm qua đâm lại, người thét ngựa gầm, kịch chiến với nhau hơn một trăm hiệp đều không phân thắng bại.

Trong khi quân của Hữu Hiền Vương giao chiến ác liệt với quân của Mông Quát, thì đại tướng quân Phùng Kiếp chỉ huy bốn vạn quân tinh nhuệ vẫn mai phục tại đèo Sát Hổ, án binh bất động. Quân Hung Nô của Hữu Hiền Vương đi qua, vẫn không hay biết gì. Sau khi quân Hung Nô đi qua và vào sâu trong nội địa, Phùng Kiếp ra lệnh cho lính chú ý quan sát hai phía. Phía Nam thì theo dõi động tĩnh của quân Hung Nô do Hữu Hiền Vương chỉ huy, phía Bắc thì chú ý canh phòng quân Hung Nô tiếp viện. Lệnh của Phùng Kiếp theo dõi như vậy trong một canh giờ (ba giờ đồng hồ hiện nay) thì phát hiện ở phía xa trong nội địa, có khói trắng dày đặc bốc lên ngùn ngụt. Phùng Kiếp biết rằng quân của Hữu Hiền Vương và Mông Quát đang đánh “tao ngộ chiến”. Ông bèn ra lệnh cho quân tập trung chú ý quân Hung Nô tiếp viện từ phía Bắc tới.

Chủ tướng của quân Hung Nô là thái tử Mao Đốn sau khi sai Hữu Hiền Vương xuất phát không lâu, thì cũng dẫn chín vạn binh mã ồ ạt xâm nhập vào lãnh thổ nước Tần. Dọc đường đều có cho thám báo đi trinh sát trước, nhưng chúng đều nói rằng không có động tĩnh gì của quân Tần. Thế là Mao Đốn rất yên tâm, cho quân vượt qua chỗ trống của Trường Thành để vào sâu trong nội địa của Tần. Đi được một quãng thì thấy ở phía xa trước mặt có khói trắng dày đặc bốc lên. Mao Đốn biết rằng quân của Hữu Hiền Vương đang đánh “tao ngộ chiến” với quân Tần, bèn thúc quân tiến nhanh để ứng cứu quân của Hữu Hiền Vương. Nhưng vừa đến đèo Sát Hổ thì bất ngờ gặp quân mai phục của Phùng Kiếp. Mao Đốn vội cho quân dừng lại và bố trí trận địa, và ra lệnh cho Tả Hiền Vương xông trận. Tả Hiền Vương thúc ngựa cầm giáo xông thẳng vào chỗ có cờ chiến của quân Tần. Phó tướng Tư Mã Hân của quân Tần cầm giáo dài cũng xông ra chặn Tả Hiền Vương lại. Hai người lập tức lao giáo vào nhau. Tướng sĩ hai bên cũng nổi trống và reo hò để ủng hộ chiến tướng của mình đang giao chiến. Hai hổ tướng cầm giáo cứ liên tục đâm mạnh vào đối phương, khi thì bên này đâm thì bên kia gạt ra, khi bên kia đâm thì bên này gạt ra. Tiếng sắt va vào nhau chan chát, leng keng rất ghê rợn, sởn tóc gáy. Hai đối thủ này xem ra kẻ tám lạng người nửa cân, ngang sức ngang tài nên đâm chém nhau đến hơn một trăm hiệp vẫn không phân thắng bại.

Lúc này, Mao Đơn đã quá sốt ruột, bèn ra lệnh tổng công kích, bản thân ông ta cũng nhảy lên phía trước, dẫn đầu binh sĩ của mình, lao thẳng vào quân Tần đánh giáp lá cà. Chín vạn quân Hung Nô tuân lệnh chủ tướng, vừa hò hét vừa ồ ạt xông vào quân Tần. Đại tướng quân Phùng Kiếp cũng cầm giáo dài chặn đứng Mao Đốn ngay tại chân cờ trận của mình và bắt đầu quyết chiến. Các phó tướng và đô úy hai bên cũng tìm đối thủ của nhau và giao chiến. Quân Hung Nô ỷ thế đông người, chia làm nhiều nhóm rồi bao vây quân Tần từ mọi phía, chia cắt bốn vạn quân Tần thành nhiều bộ phận rồi bao vây từng bộ phận đó quyết tiêu diệt chúng. Một cuộc tử chiến rất chênh lệch về quân số diễn ra rất thảm khốc.

Trong khi đó, tại trận địa của Mông Quát và Hữu Hiền Vương cũng có sự chênh lệch về lực lượng. Nhưng ở đây, quân Tần đông hơn quân Hung Nô đến chín lần. Quân Hung Nô tuy rất dũng cảm, liều chết giao chiến, nhưng không thể phá được vòng vây dày đặc của quân Tần. Hữu Hiền Vương thấy thế thua trận đã rõ, định liều chết phá vây, nhưng lại bị phó tướng Tân Đằng và nhiều đô úy cản lại không thể chạy thoát, cuối cùng rút kiếm tự vẫn. Quân Hung Nô mất chủ tướng, cũng mất luôn tinh thần, bị quân Tần giết hơn sáu nghìn, còn lại hơn ba nghìn bị bắt làm tù binh. Tướng quân Mông Quát chưa kịp nghỉ tay chém giết đã vội dẫn hai mươi vạn kỵ binh chạy phi như bay đến đèo Sát Hổ, đến cứu viện cho đại tướng quân Phùng Kiếp và bốn vạn quân của ông.

Quả nhiên đúng như dự đoán của Mông Quát, bốn vạn quân của Phùng Kiếp đang bị quân Hung Nô vây chặt và chia cắt. Mao Đốn không thấy quân của Hữu Hiền Vương quay lại, đoán rằng Hữu Hiền Vương đã hy sinh, bèn tăng cường xiết chặt vòng vây, hòng trả thù cho Hữu Hiền Vương. Vì vậy, Mao Đốn chỉ tập trung gõ trống đốc quân, không chú ý ở đàng xa, đến khi nghe tiếng vó ngựa và tiếng hò hét của quân Tần mới vội vàng ứng chiến, thì hơn hai mươi vạn quân của Mông Quát đã kéo tới trước mặt. Quân Tần của Phùng Kiếp đang bị vây, thấy quân mình đến tiếp viện nên can đảm hơn, hai bên cùng phối hợp, trong đánh ra, ngoài đánh vào khiến quân Hung Nô đại bại.

Thái tử Mao Đốn bị thương, được Tả Hiền Vương hộ tống chạy thoát, băng qua sông Hoàng Hà chạy đến tận doanh trại cũ ở gần biên giới, may mà giữ được tính mạng. Khi đó, vua Hung Nô là Thiền Vu Đầu Man chỉ huy đơn vị đốc chiến phía sau, không nghe lời khuyên của thái tử Mao Đốn, cứ đưa quân tiếp tục ứng chiến với quân của Mông Quát, nhưng đã bị quân của Mông Quát đánh cho thất điên bát đảo, thua chạy tán loạn.

Trận đại thắng quân Hung Nô này không những đuổi được đạo quân hung hãn này ra tận phía Bắc núi Âm Sơn, mà còn thu hồi được quận Cửu Nguyên bị bọn chúng chiếm đóng từ trước. Tần Thủy Hoàng hết sức vui mừng, ngài thăng cấp đại tướng quân cho Mông Quát, toàn thể tướng sĩ đều được bình công ban thưởng. Đại tướng quân Mông Quát vẫn chỉ huy ba mươi vạn quân bảo vệ phía ngoài và trong Trường Thành, nhằm canh phòng rợ Hồ thừa cơ tái phạm.

Qua cuộc chiến tranh vừa qua với quân Hung Nô, Tần Thủy Hoàng thấy rõ rằng nếu muốn loại trừ căn bản tai họa Hung Nô mà cứ sử dụng vũ lực thì cái giá quá lớn. Vì vậy ngài chủ trương phải tăng cường phòng vệ là chính, tức là phải xây dựng một chiến lũy kiên cố mới có thể bảo vệ an toàn vĩnh cửu. Ngài bèn triệu tập các văn võ đại thần cùng bàn bạc. Sau đó ngài quyết định xây đắp bức trường thành dài một vạn dặm xuyên qua lãnh thổ mênh mông của miền Hoa Hạ.

Thực ra công việc của Tần Thủy Hoàng lúc này là nối liền các đoạn trường thành đã có sẵn do các nước chư hầu cũ là Triệu, Yên và cả của nước Tần đã xây từ trước để tự vệ. Nhà vua tự tay viết bản chiếu thư cho đại tướng quân Mông Quát: “Giao cho ba mươi vạn tướng sĩ bảo vệ biên ải và hai mươi vạn dân “đầu đen” và tù nhân, đi xây đắp và tu bổ trường thành”.

Dựa theo ý chỉ nhà vua, Mông Quát đưa ba mươi tướng sĩ bắt tay vào làm việc; còn hai mươi vạn từ nội địa đến, một phần là quan chức và nho sinh phạm tội. Đội quân lao động năm mươi vạn người đó, làm việc liên tục ngày đêm, bất chấp mưa nắng, gió tuyết băng ngàn, họ đục đá, làm gạch, xây tường, chuyên chở vật liệu, tất cả đều lao động cật lực bằng chân tay, vô cùng cực nhọc, trong khi đời sống hết sức khổ sở thiếu thốn đến mức mà ngày nay chúng ta không thể tưởng tượng được. Cuối cùng, rất nhiều người đã chết rét, chết bệnh, chết vì kiệt sức bị ngược đãi, hết sức thê thảm, thương tâm. Câu chuyện được truyền tụng mấy ngàn năm nay kể rằng chàng Phạm Hỷ Lương xây trường thành bị chết, người vợ là Mạnh Khương từ ngàn dặm đến tìm chồng thì chồng đã mất, bèn khóc than và nước mắt của nàng đã làm đổ cả trường thành, đó chẳng qua chỉ là sự thể hiện tập trung cái bi kịch của hàng nghìn hàng vạn gia đình đã lao động khổ sai xây đắp trường thành mà thôi.

Sau ba năm lao động gian khổ của năm mươi vạn người, Vạn lý Trường thành được hoàn thành. Trong đó có bốn nghìn năm trăm dặm là chắp nối cũ, còn khoảng bảy nghìn dặm là mới, tức là nối dài hai đầu về phía Tây và phía Đông. Nói chung, tường thành cao ba trượng sáu thước, rộng ba trượng sáu thước; phía trong và mặt ngoài tường thành đều xây bằng những viên gạch rất lớn hình vuông mỗi bề hai thước (1 thước = 0,33m, 10 thước = 1 trượng). Móng và các góc đều xây bằng đá. nhằm tăng độ cứng và độ bền. Cứ một đoạn lại có các công sự như xây tường thành cao lên, vọng gác, đài đốt lửa tín hiệu, lô cốt bắn tên. Thành được xây dọc theo địa thế hiểm trở trên núi, tùy theo độ cao thấp và quanh co của triền núi. Toàn bộ Trường thành dài khoảng một vạn hai nghìn dặm, bắt đầu từ Lâm Thao ở Lũng Tây (thuộc tỉnh Cam Túc hiện nay), đi qua Thượng Quận, Cửu Nguyên, Vân Trung, ở phía Tây có một đoạn ngắn chạy đến Cao Khuyết; về phía Đông, đi qua Nhạn Môn, Ngự Dương, chạy đến Liêu Đông (nay là địa phận tỉnh Liêu Ninh, tỉnh giáp với Bắc Triều Tiên và biển Đông).

Trường thành là công trình kiến trúc vĩ đại chưa từng có và cũng sẽ mãi không bao giờ có nữa, nó uốn khúc chạy ngang qua miền Bắc rộng lớn của Trung Quốc, giống như một con rồng khổng lồ phủ cánh trên mặt đất, biểu tượng vĩ đại cho dân tộc Trung Hoa. Vì vậy, cho dù cái giá phải trả là vô cùng nặng nề và thê thảm, nhưng đích thực là một kiệt tác để lại cho ngàn vạn đời sau. Công lao của Tần Thủy Hoàng rất to lớn.

Chú thích:

[i] Chữ của nước Tần thực ra cũng là chữ mà ta thường gọi là chữ Hán, thứ chữ thống nhất của tất cả các dân tộc Trung Quốc, chỉ trừ các tộc người thiểu số mà người Hán gọi là man di và một số dân tộc thiểu số khác như Mông, Mãn, Duy Ngô Nhĩ, Tạng,...

[ii] Xuân Thu: Năm 722-481 trước Công nguyên. Chiến Quốc: Năm 475-221 trước Công nguyên - ND.

[iii] Nói cho đúng là cải cách, sửa đổi cách viết chữ Hán, một thứ chữ tượng hình nhiều nét - ND.

[iv] Truyền thuyết nói rằng Thương Hiệt là quan viết sử của vua Hoàng Đế, là người sáng tạo ra chữ Hán. Sau này được coi là nhân vật tiêu biểu trong việc sáng tạo và chỉnh lý chữ Hán thời cổ đại. Còn "Thương Hiệt Thiên" có nghĩa là bài viết về Thương Hiệt - ND.

[v] Sách Từ Hải 1999 có nói đến ba tác phẩm của ba tác giả này với nội dung tương tự - ND.

[vi] "Chữ triện nhỏ" được sửa đổi, cải tiến trên cơ sở "chữ triện lớn" thời cổ đại, nghĩa là chủ yếu vẫn là chữ tượng hình, viết ngoằn ngoèo, rất khó viết và chủ yếu là dùng dao khắc trên các thanh tre. Còn kiểu chữ của Vương Tiên Trọng là chữ viết dùng bút để viết, là kiểu chữ chú trọng nét viết thẳng, ít ngoằn ngoèo hơn, đơn giản hơn, phổ cập hơn, được gọi là chữ "viết" ("thư thể"). "Chữ viết" là một bước tiến nhảy vọt so với chữ khắc (tức là chữ triện). Xin chú ý, "thư" trong tiếng Hán còn có nghĩa là kiểu chữ viết - ND.