HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU KHẮC BIA CA NGỢI, LÝ TƯ CHẤP BÚT-LÊN ĐỈNH THÁI SƠN, LÀM LỄ “PHONG THIỀN”------
Sau chuyến đi tuần du hơn mười ngày ở Tây Bắc, Tần Thủy Hoàng lại muốn đi xuống miền Nam. Những nơi này đều là đất cũ của sáu nước chư hầu trước đây và ngài đều đã đặt chân đến rồi. Nhưng những lúc ấy thường là lướt qua rất nhanh trong khói lửa chiến tranh. Nay đã lập lại hòa bình, cần phải đi một lần nữa để tìm hiểu tình hình các quận huyện chấp hành chính sách và luật lệ như thế nào, và cũng để hiểu dân “đầu đen” ủng hộ nhà vua ra sao. Ngài bèn triệu tập các quan văn võ và các “học sĩ” để hỏi ý kiến. Đương nhiên, mọi người đều nhất trí ủng hộ chủ trương của nhà vua. Các “học sĩ” còn nói rằng:
- Thánh thượng tiếp nhận mệnh trời để cai quản thiên hạ, đáp ứng nguyện vọng của dân đen, mang lại hòa bình cho bốn biển. Nay thời thế đang thịnh, trước khi tuần du đất nước, nên noi gương Ngũ Đế, đến núi Thái Hành làm đại lễ cúng trời đất gọi là lễ “phong thiền”, để tuyên cáo với thiên hạ...
Nhà vua gật đầu liên tục và cười. Ngài nói:
- Sở dĩ trẫm muốn tuần du thiên hạ là muốn tỏ rõ ý trời và ban ân huệ cho rộng khắp. Ngũ Đế đã để lại những tấm gương sáng, trẫm tất phải noi theo. Còn việc tổ chức nghi lễ như thế nào, xin giao cho quan “phụng thường” và các “học sĩ” bàn bạc chuẩn bị, chọn ngày lành tháng tốt để cử hành.
Quan “phụng thường” là người lo việc lễ nghi ở tôn miếu, ông ta cùng với các “học sĩ” bàn bạc việc chuẩn bị làm lễ ở núi Thái Hành. Họ nhắc lại sách kinh điển, họ cùng nhau đọc đi đọc lại cách thức tiến hành lễ “phong thiền” ở núi Thái Sơn (Thái Hành Sơn) thời cổ đại. Họ đọc kỹ đến mức thuộc lòng. Sau đó, họ sửa soạn và trang hoàng xe cộ rất đẹp, rồi trình nhà vua chọn ngày lành xuất phát. Nhà vua lập tức chọn được ngày và đoàn ngự giá rời Hàm Dương đi về phía núi Thái Sơn ở nước Tề cũ.
Đây là chuyến đi làm lễ “phong thiền” nên toàn bộ xe ngựa đều được trang hoàng rất đẹp. Đi phía trước là đội xe trừ tà ma. Viên “thái bộc lệnh” đứng ở phía trước xe, tay cầm cung bằng gỗ cây đào, mũi tên bằng thân cây sậy, mồm lẩm bẩm cầu khấn quỷ thần phù hộ để xua đuổi tà ma. Tiếp ngay sau xe của “thái bộc lệnh” là tám mươi mốt cỗ xe hộ tống, gọi là “đại giá thuộc xa”, ngồi trên đó là quan thượng thư và ngự sử. Tất cả các “thuộc xa” này đều bọc da hổ rằn ri đen trắng rất bắt mắt. Xe cuối cùng của đoàn “thuộc xa” này có một cột cao, trên đó treo một cái đuôi con báo, để chứng tỏ rằng đoàn xe hộ giá này đều có cắm cờ, mỗi lá cờ đều có hình chim bay phượng múa được kết bằng lông chim; hàng cờ tung bay trước gió, trông rất đẹp và oai hùng. Các xe đi sau (của đoàn xe “thuộc xa” tám mươi mốt cỗ) mang những cây giáo lớn và búa lớn sơn son thếp vàng và các cây quạt “chiêu dương” cỡ lớn. Tất cả đều được thêu hình mặt trời, mặt trăng, sao, rồng, hổ, phượng, thật là muôn sắc muôn màu, trông rất sặc sỡ. Tiếp sau là đoàn xe “hộ tống” tám mươi mốt chiếc, là đoàn xe “hộ giá”, chở đoàn tùy tùng gồm các cận thần văn võ, các quan hoạn, cùng các phi tần, cung nữ và đội quân dũng sĩ (hổ bôn). Đoàn xe hộ giá tùy tùng này còn có xe bốn ngựa, cứ năm xe bốn ngựa thành một tốp, tốp thì người đánh xe ngồi điều khiển ngựa; tốp thì đánh xe đứng để điều khiển ngựa. Các xe này được sơn phết theo năm màu “ngũ hành”: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Tiếp theo sau đó mới thấy xe có thành xe bằng vàng của Tần Thủy Hoàng, do sáu ngựa đen kéo, tiến chầm chậm, chắc nịch. Mui xe kết lông chim nhiều màu, cắm bầu vàng; đỉnh mui xe phủ một lớp vải vàng. Phía bên trái thành xe, đeo một cái đuôi trâu rừng có lông rất dài. Đầu ngựa đội mũ nạm vàng cao và rộng, mỗi bề bốn tấc; phía sau mũ nạm vàng cắm một miếng sắt rộng mấy tấc, trên đó cắm ba chiếc lông đuôi chim trĩ. Vai ngựa mang một vòng hoa năm màu. Lại còn có cái xe dự phòng, mỗi trục xe có bốn bánh, hai bánh phía ngoài dát đồng và vàng, có bộ phận cho dầu nhờn vào trục xe. Phía trái xe vẽ rồng xanh, phía phải vẽ hổ trắng, những bức vẽ này được gắn vào đầu mút của trục xe. Khi xe chạy, trục xe quay tít, làm rồng bay hổ chạy, trông rất ngoạn mục.
Tần Thủy Hoàng ngồi chễm chệ trên ghế rồng đặt trên xe có thành xe bằng vàng. Ngài mặc “long bào” màu đen thêu hoa, đội mũ “thiên quán” có tua trước và sau đỉnh mũ. Ánh mắt như tia chớp của nhà vua nhìn xa ra phía trước; dân chúng chào đón ngài hai bên đường cũng sợ nên không dám nhìn thẳng vào mắt nhà vua, chỉ hướng mắt về phía nhà vua để vái chào từ xa. Tần Thủy Hoàng luôn luôn giữ vẻ mặt nghiêm trang và lạnh lùng, vì ngài cho rằng chỉ có như vậy mới có thể tỏ rõ sự tôn nghiêm và địa vị tối cao của ngài trong tư thế. mắt nhìn thiên hạ, sức mạnh vô địch, công hơn “Tam Hoàng”, đức vượt “Ngũ Đế”.
Ngoài xe có thành xe bằng vàng của nhà vua, còn có ba mươi xe dự phòng của nhà vua, chia làm năm tốp, mỗi tốp có sáu xe, vì con số sáu là phù hợp với đức “Thủy” (nước) của nhà Tần. Số xe dự phòng này là để nhà vua dùng đến lúc cần thiết [i]. Ngoài ra lại còn ba mươi sáu xe (vẫn là con số 6: 6x6= 36) chở các thị vệ cung đình và các trọng thần văn võ. Ba mươi sáu xe này theo sát xe nhà vua.
Lại còn có sáu trăm quan “lang trung” [ii] và sáu nghìn quân dũng sĩ đi theo để bảo vệ toàn bộ đoàn xe. Cuối cùng là sáu vạn quân tinh nhuệ sẵn sàng đối phó với mọi bất trắc. Mặc dù là cuộc hành hương đi lễ hội, cúng tế trời đất, nhưng huy động cả binh hùng tướng mạnh, cho thấy Tần Thủy Hoàng luôn luôn coi trọng sức mạnh vũ lực, thích diễu võ dương oai.
Đoàn xe ngựa dài tới mười dặm, rầm rộ cất bước trên con đường rộng năm mươi bộ (đường trì đạo, đường dành cho xe chạy nhanh), cứ cách ba trượng lại có một cây xanh mọc thẳng tắp, giống như đội quân danh dự đang chào đón đoàn xa giá nhà vua. Mỗi khi đi qua các quận huyện, các quan lại địa phương và dân chúng đều ra đường nghênh đón, họ quỳ ngay ngắn hai bên vệ đường, vái lạy nhà vua, tung hô vạn tuế. Các bữa đại tiệc lúc đón và lúc đưa hết sức thịnh soạn linh đình; khi các quan chức địa phương vào chào vua lại tràn ngập không khí ca tụng nịnh hót hết lời. Vua tôi Tần Thủy Hoàng thật sự đắm mình trong những lời chúc tụng vàng son, những ánh mắt cung kính tôn thờ. Bởi vì “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, người Trung Quốc cổ đại đã hiểu rõ những lời vàng ngọc là vô giá, chỉ cần uốn ba tấc lưỡi, ba hoa những ngôn từ rất đẹp và hoa lệ, với thái độ hết sức khiêm nhường nịnh bợ, rồi giọng điệu lắt léo uyển chuyển, dẻo quẹo, như rót mật vào tai nhà vua. Nhà vua nghe những lời ton hót ngọt ngào, cảm thấy bề tôi và thần dân chân thành trung thực, và ngài xứng đáng được tôn vinh như thế. Ngài rất thỏa mãn và vui vẻ khen thưởng, ban phát, gia phong, thăng quan tiến chức cho bầy tôi. Thật là vui vẻ cả. Còn có gì dễ dàng hơn và nhanh chóng dạt được mục đích danh và lợi, công thành danh toại hơn là những lời nói hoa mỹ vô giá ấy.
Tần Thủy Hoàng đã say sưa trong không khí của những lời ca tụng không bờ bến và những hình ảnh quỳ mọp bái lạy vô cùng cung kính đó. Sự độc đoán chuyên quyền, hách dịch ương ngạnh của ngài đã đến mức không thể nào hơn được nữa.
Đội quân gồm bộ binh, kỵ binh và chiến xa diễu võ dương oai đi qua huyện Trịnh (nay là huyện Tây Hoa, tỉnh Thiểm Tây), Ninh Thái (nay là Hoa Âm), Hàm Cốc (Nay là Ninh Bảo, tỉnh Hà Nam), qua Lạc Dương, Đại Lương (nay là Khai Phong), Chương Khâu Khác, Đông Mân (nay là huyện Kim Hương, tỉnh Sơn Đông), cuối cùng đến núi Trâu Phong ở huyện Trâu. Núi Trâu Phong cách núi Thái Sơn không xa, tuy không hùng vĩ nhưng rất đẹp. Một bên là núi Thái Sơn cao ngất trời, một bên là núi Trâu Phong mỹ lệ tuyệt vời, hai dãy núi ấy đối sánh với nhau, phản chiếu lẫn nhau, tạo cảm giác rất mới lạ, rất thú vị cho tất cả những ai đến đây thưởng thức cảnh trí đất trời. Vì vậy những người đi leo núi Thái Phong, phần lớn đều đến Trâu Sơn trước, vừa có thể nghỉ ngơi thoải mái, vừa có thể ngắm nhìn phong cảnh đặc thù.
Huyện lệnh huyện Trâu tuy dã biết rất sớm việc Tần Thủy Hoàng cùng một đoàn tùy tùng rất đông sẽ đến đây để lên núi thưởng ngoạn, nhưng huyện lỵ không có nơi cho nhà vua nghỉ và tổ chức yến tiệc, đường lên núi cũng chỉ là những con đường mòn quanh co khúc khuỷu của hươu nai chạy mà thôi. Sở dĩ như vậy, là vì trước đây, vua Vương Kiến nước Tề bỏ bê việc chính sự, không tôn trọng lễ nghĩa, chỉ đam mê hoan lạc nơi thâm cung, chẳng hề biết đến vẻ đẹp của núi non sông suối, ngay cả núi Thái Sơn nổi tiếng khắp thiên hạ cũng chưa một lần đặt chân đến. Vì vậy, ngọn núi Trâu Phong ở cái huyện cỏn con này lại càng chẳng bao giờ ngó ngàng tới.
Bây giờ thì ngài huyện lệnh vô cùng bối rối. Ngài nghĩ rằng bị cách chức còn là may phúc, không khéo còn bị xử tử tới số nữa cơ. Bởi vì ngài đã nghe nói từ lâu về “đức tính” bạo ngược và giết người như ngóe của Tần Thủy Hoàng. Tuy nhiên, cũng không thể làm gì khác là cố gắng tới mức tối đa trong phạm vi hiện có, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng về mặt tư tưởng, cố gắng đạt được mục tiêu; không lập công nhưng không có sai sót, thế là may mắn muôn phần rồi. Ông ta ra tận mười dặm để quỳ lạy chào đón thánh giá. Ông ta đưa đoàn xa giá về nghỉ tại cung điện cũ của vua Khoảnh Công nước Lỗ ngày xưa ở dưới chân núi Trâu Phong, vì chẳng có dịch quán cho quan khách, mà cũng chẳng tiện đưa về nha môn của huyện đường. Nhà vua thấy lạ bèn hỏi:
- Nhà ngươi đón tiếp ngự giá, sao không đưa về dịch quán, cũng không đưa về nha môn huyện đường, lại đưa đến di chỉ của một cựu quan lại như thế này?
Huyện lệnh lập tức quỳ xuống, phủ phục xuống đất rồi cung kính trả lời rằng:
- Cái huyện cỏn con này nằm ở thung lũng hẻo lánh, lại ở bên cạnh núi Thái Sơn hùng vĩ, nên càng tỏ ra rất nhỏ bé. Nhà vua nước Tề trước đây, chưa từng đến đây bao giờ, cho nên huyện đường nha môn và dịch quán rất chật hẹp, lại lầy lội những vũng nước quanh năm, làm sao có thể đón bệ hạ như rồng vàng giáng thế đến ở đấy được.
Nhà vua thấy huyện lệnh rất khiêm tốn tự ti, lại ví ngài như “rồng vàng giáng thế”, nên cũng nguôi giận, nhưng ngài vẫn trách rằng:
- Nhưng nơi này là phế tích của cung điện nước Lỗ, sao có thể coi là nơi nghỉ chân của thiên tử đương triều? Nhà ngươi không đáng tội khi quân hay sao?
Huyện lệnh thấy giọng nói của nhà vua đã dịu xuống, nên nghĩ rằng nước cờ thứ nhất của mình đã đi trúng rồi, và ông bình tĩnh đáp lại:
- Hạ thần nghe nói dù nước lớn hay nhỏ, còn hay đã mất, thì tông miếu cung thất của họ vẫn được coi là di chỉ để truyền lại hậu thế. Vì vậy, cái cung điện này của nước Lỗ, tuy là di chỉ của triều đình trước, nhưng vẫn phải được tôn trọng. Nay dùng nó làm nơi nghỉ chân của bệ hạ cũng coi là tạm được; huống hồ bệ hạ không vứt bỏ cố cung của sáu nước, còn đưa về xây lại tại Hàm Dương để sử dụng. Vậy hạ thần quét dọn và trang hoàng lại cố cung của nước Lỗ để long thể bệ hạ có chỗ nghỉ ngơi là vì lòng tôn kính bệ hạ, xin được lượng xét. Nếu như cho đó là ngạo mạn khi quân, thì quả thật là ngoài sự dự liệu của hạ thần; nhưng nếu cứ xét tội thì dù có chết vạn lần cũng không thể chối từ.
Nghe những lời biện bạch trôi chảy đó của huyện lệnh, nhà vua không ngần ngại nữa, ngài còn cho rằng người này tháo vát, có năng lực, biết đón ý đồ của cấp trên, hiểu được tâm trạng nhà vua, ngài bèn cười và nói rằng:
- Vậy thì té ra nhà ngươi cũng biết dựa theo hoàn cảnh cụ thể để bố trí và sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho trẫm, thật là vất vả. Thôi, nhà ngươi hãy đứng dậy để nói chuyện.
Huyện lệnh vội khấu đầu liên tục để tạ ơn rồi từ từ đứng dậy để nghe nhà vua phán lệnh, trong lòng rất mừng. Ông ta nghĩ rằng may mà mình đã có chuẩn bị từ trước, lại thêm vào đó là nhà vua vẫn cho xây cung điện cũ của sáu nước, để “lấy gậy ông lại đập lưng ông”, đem chuyện của ngài để giải đáp vấn đề nan giải mà ngài nêu ra cho mình, khiến mình nói vừa có lý vừa có lễ độ, giải thoát cho mình khỏi phải mắc tội. Nhưng bề ngoài thì ông ta vẫn tỏ vẻ sợ hãi, lúng ta lúng túng. Vì vậy, lại càng được nhà vua thương hại.
Quả nhiên, nhà vua cho rằng huyện lệnh không câu nệ với lề thói cũ, mà biết tùy cơ ứng biến. Ngài rất vui, không những không trị tội những sai sót trong công việc tiếp đón nhà vua, mà còn chủ động hỏi xem ông ta có cần gì không. Đối với huyện lệnh, được nhà vua hỏi như vậy, thật là một dịp may ngàn năm có một. Ông ta bèn uốn lưỡi dẻo kẹo để ra sức tố khổ khi nằm dưới sự cai trị của ông vua mất nước của nước Tề trước đây là Vương Kiến, nói rằng Vương Kiến là ông vua u mê, chỉ nghe lời xiểm nịnh của gian thần, hại nước hại dân, để cho công việc quốc sự bị bê trễ, nhân dân sống khổ cực; huyện Trâu này ở xa kinh thành nên kém thế hơn các huyện khác rất nhiều... Nói đến đây, ông ta cố tình ngừng lại, rồi đưa mắt nhìn trộm nhà vua, thấy ngài đang chú ý lắng nghe, bèn lập tức nói tiếp có dụng ý. Ông ta hết lời ca tụng công đức của Tần Thủy Hoàng, nói rằng kể từ khi Tần Thủy Hoàng tiêu diệt nước Tề, nhà vua đã thi hành chính sách rất sáng suốt, ban ơn đức khắp thiên hạ; vì vậy hạ ông ta mới được triều đình bổ về đây làm huyện lệnh cái huyện bé xíu nơi sơn lâm cùng cốc này. Cho nên, mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng vì dân tình còn nghèo nên vẫn chỉ là chắp vá tạm bợ, và đến nay vẫn chưa có gì khá hơn. Vì thế mà hôm nay, nhà vua và các công khanh triều đình đến thị sát huyện nhà, ông ta thật sự không có gì đáng giá để kính dâng nhà vua và triều đình, khiến ông ta cảm thấy vô cùng có tội. Huyện lệnh còn nói thêm rằng con đường mà đoàn xa giá của nhà vua lên núi thưởng ngoạn ngày mai rất tồi tàn, hầu hết là đường hươu nai chạy, xe ngựa không thể đi lại được.
Nhà vua nghe nói vậy bèn bảo:
- Chẳng hề gì, trẫm rất giỏi cưỡi ngựa; thôi cứ để đi ngựa lên núi vậy!
Các đại thần cũng hưởng ứng và nói rằng đi ngựa lên núi rất tốt, có thể tự do ngắm cảnh, dễ nhìn ngó hơn ngồi trong xe ngựa rất nhiều.
Huyện lệnh vội nói:
- Không thể thế được, đường lên núi rất khó đi, nhỡ ra trượt chân ngã thì cái thân “bỉ chức” này sao có thể đền bù được. Hạ thần đã tuyển chọn mấy trăm trai tráng khỏe mạnh để cõng các chư vị lên núi. Còn bệ hạ thì hạ thần sẽ cõng, xin bảo đảm bệ hạ yên tâm, ngồi trên lưng hạ thần sẽ chắc chắn thoải mái.
Nhà vua nói:
- Để cho nhà ngươi cõng sao được. Ngươi là quan phụ mẫu ở đây cơ mà.
Huyện lệnh nghe nhà vua nói vậy, bèn sụp lạy ngay xuống đất khấu đầu lia lịa, rồi nói:
- Bệ hạ nói như vậy quả thật làm cho hạ thần xấu hổ quá. Được hầu hạ đức thiên tử như bệ hạ là vinh hạnh lớn nhất trong đời hạ thần rồi. Nay cõng bệ hạ lên núi, thì dù có làm ngựa trâu cho bệ hạ cưỡi cũng là phước phận ba đời của hạ thần.
Những lời đường mật ấy làm bùi tai Tần Thủy Hoàng lắm. Ngài cảm thấy cái vinh dự tối cao của người làm vua. Ngài không ngờ rằng một kẻ đàng hoàng làm huyện lệnh, oai phong lẫm liệt trước dân chúng, lại run sợ xin làm trâu ngựa cho mình cưỡi. Ngài bất giác nhớ lại hồi còn nhỏ ở nước Triệu, ngài bị những đứa trẻ khác bắt nạt, phải bò làm ngựa cho chúng cưỡi. Sau này về Hàm Dương được làm thái tử, ngài cũng bắt thái giám làm ngựa cho mình cưỡi rồi mặc sức đánh đập họ, vậy mà họ cứ im thin thít, chẳng dám hé răng, chỉ khóc sụt sịt. Có thể nói không ai có cái cảm nhận sâu sắc đến như vậy đối với con người như thế nào là vinh, là nhục, là sang, là hèn. Nay nhìn thấy viên huyện lệnh đang phủ phục dưới chân mình, khiếp sợ trước vẻ uy nghiêm của mình, cam chịu làm trâu ngựa cho mình, ngài cảm thấy như đang sờ thấy sự tôn nghiêm tối thượng của của mình. Nghĩ đến đây, ngài mỉm cười nói với huyện lệnh:
- Thật hiếm có một người sẵn lòng hầu hạ trẫm như nhà ngươi, thật đáng khen. Nhưng trẫm làm sao có thể để cho ngươi làm ngựa cưỡi cho được? Vả lại trẫm là thiên tử, ngồi trên lưng người khác, phải khom khom cúi cúi, sao có thể quan sát chung quanh, trẫm nghĩ rằng cứ cưỡi ngựa là hay hơn cả. Thôi đứng dậy, đi làm việc khác đi!
Huyện lệnh lại khấu đầu cảm tạ nhà vua rồi đứng dậy nói:
- Nếu bệ hạ không chịu cho cõng, thì xin cưỡi con ngựa nhỏ của huyện nhà, thứ ngựa này đi núi rất thạo, vì chúng nhỏ con, quen đường, bước đi rất chắc chắn, hạ thần xin bảo đảm để bệ hạ và chư vị yên tâm và vừa lòng. Như vậy, xe ngựa của triều đình cũng được nghỉ ngơi, khỏi phiền đến họ nữa.
Nhà vua cười, hỏi:
- Nếu đã có ngựa chuyên đi núi như vậy thì sao lại còn định đưa người ra cõng?
Huyện lệnh giải thích rằng:
- Tâu bệ hạ, ở đây, loại ngựa ấy là do dân chúng kinh doanh, họ nuôi để cho du khách thuê, hạ thần nghĩ rằng đưa ngựa ấy cho bệ hạ và các đại thần sử dụng, e rằng thất lễ quá, nên mới chọn người khỏe để phục vụ sẽ tốt hơn. Bởi vì người cõng đều là binh sĩ, ăn mặc chỉnh tề, đi có hàng có lối, có uy thế oai phong, cũng làm rạng rỡ bộ mặt của huyện nhà.
Nhà vua nói:
- Lần này trẫm đến đây chủ yếu là lên núi Thái Sơn làm lễ “phong thiền”, còn Phong Sơn là nơi đi qua tạm dừng chân và leo núi chuẩn bị trước mà thôi. Nếu nhà ngươi huy động quân đội sẽ gây ồn ào, làm cho dân chúng căng thẳng. Như vậy trẫm và các đại thần cũng không thoải mái gì cả. Chẳng phải là trái ngược với ý đồ di du ngoạn đó sao?
Nhưng khi nhà vua muốn được thoải mái, nhẹ nhàng, và được tự do hành động, thì các quan lại tùy tùng lại cảm thấy lo lắng, huống chi một huyện lệnh ở nơi sơn lâm cùng cốc này. Chỉ riêng cái việc nhà vua đặt chân đến đây, đã là điều vô cùng vinh hạnh đối với ông ta rồi. Nhưng việc bảo vệ an toàn cho nhà vua và quan khách triều đình là trách nhiệm hết sức nặng nề. Nay nhà vua không cho quân đội hộ giá, nhỡ ra có..., nhỡ ra có... ông ta không dám nghĩ tiếp nữa. Đang do dự thì có mấy tiếng chuông vọng đến, ông ta mới sực tỉnh và tâu với nhà vua:
- Huyện nhà núi nhỏ đất hẹp, dân ít được giáo dục, không am tường lễ nghi. Nếu họ thấy bệ hạ và đoàn xa giá rất đông, họ sẽ đến tận nơi để chiêm ngưỡng, mà dân thì bao giờ cũng rất ô hợp, khó lòng ngăn cản được họ. Họ sẽ gây ồn ào huyên náo, phiền nhiễu thánh giá. Đó thật là tội lớn của hạ thần, dù có chết muôn lần cũng không thể chuộc lại được. Nay hạ thần vẫn muốn đưa binh sĩ hộ giá, cầu xin bệ hạ minh xét.
Nhà vua lập tức hiểu ý ông ta và hỏi lại:
- Nói vậy, nhà ngươi định có cách gì để bảo vệ an toàn?
Huyện lệnh bước lên một bước rồi nói rất hào hứng:
- Vừa nghe tiếng chuông trên núi, hạ thần nghĩ ra một phương kế. Đó là hạ thần sẽ cáo thị cho dân chúng trong khu vực núi Trâu Phong này biết rằng trong ngày lễ Thanh minh vừa qua, các thầy cúng làm lễ tế trời đất ở đây và đã nhận được lời thần chú nói rằng năm nay sẽ có tà ma đến gây tai họa, phải mời thầy cúng đến lập đàn để cúng tế trời xanh; quan đầu huyện phải tắm gội và chủ tế, cầu thần thánh phù hộ, loại trừ ác quỷ…
- Nhà ngươi nói huyên thuyên gì vậy, chuyện đó có liên quan gì tới việc leo núi của ta? - Nhà vua hỏi.
- Bệ hạ không biết đấy thôi. Bọn ngu dân ở nơi hẻo lánh này tuy không biết lễ nghi, nhưng lại rất tin quỷ thần, chỉ cần hạ thần đưa ra cáo tri nói rằng có các phương sĩ đến cúng tế thần linh và được thần linh nhập vào người, thì tất cả những người trần mắt thịt đều lánh xa để nơi này sạch sẽ, thanh tịnh. Nếu ai vi phạm, làm bẩn mắt thần linh, tai họa sẽ giáng xuống, không chạy đâu cho thoát được. Dù có gan cóc tía cũng không dám đến xem vụng trộm. Trong khi đó, hạ thần sẽ được tự do hầu hạ thánh giá đi du ngoạn trên núi mà chẳng phải lo ngại gì cả - Huyện lệnh giải thích cho nhà vua.
- Xem ra cái kế sách ấy cũng được, nhà ngươi cũng lao tâm khổ tứ, lắm mưu nhiều kế, cũng khá được việc đấy chứ.
Nhà vua nghĩ rằng viên huyện lệnh này mượn quỷ thần đe dọa dân chúng để bảo vệ an toàn cho mình, kể ra cũng thông minh, nhưng cũng có chỗ không thật hay ho cho lắm. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy người này rất trung thành và yêu kính nhà vua, nên ngài cũng ban khen và khích lệ ông ta.
Huyện lệnh vui mừng bái tạ nhà vua rồi vội về nha môn để viết cáo thị cho dân chúng. Viết xong, cho dán ở khắp các chỗ qua lại đông người, các ngã ba đường trong toàn huyện. Đồng thời còn sai người đến tận từng nhà ở khu vực núi Trâu Phong, vừa đánh thanh la ầm ĩ, vừa ra lệnh cho dân chúng phải đi khỏi nhà, năm ngày sau mới được trở về, lý do là chạy trốn tà ma ác quỷ đến gây tai họa. Bản cáo thị như sau:
Tại lễ đầu xuân trên núi, thần linh dự báo chẳng lành.
Năm nay yêu tinh hạ giới, nói rằng tai họa giáng lâm.
Nay lập đàn tại Phong Sơn, phương sĩ cầu khẩn thánh thần.
Nhập vào người ở trần gian; đuổi yêu tinh trừ tai họa.
Dàn lễ phải được trong lành, đạo pháp mới hiển uy linh.
Nay cấm năm ngày lên núi, mọi việc làm ăn tạm ngừng.
Những ai không có việc cần, xin miễn lên núi lần khân.
Ai dám vi phạm lệnh này, sẽ bị thân nát nhà tan.
Cáo thị cả huyện toàn dân, nghiêm chỉnh tuân thủ thi hành.
Bên dưới bản cáo thị có đóng dấu vuông ba tấc của huyện nom rất oai nghiêm. Nhiều người dân xem xong, có người rụt vai sợ hãi, có người lắc đầu thở dài; có người nửa tin nửa ngờ; nhưng tất cả đều chấp hành bản cáo thị và đều đi khỏi nơi cư trú ở Phong Sơn năm ngày, để tránh tai họa. Bây giờ huyện lệnh mới yên tâm, luôn luôn bám sát phía sau nhà vua và các đại thần, giảng giải cho họ về những cổ tích và thắng cảnh ở Phong Sơn. Ông ta còn thưởng tiền cho các phương sai trông coi đền đài sở tại, yêu cầu họ tế thần liên tục năm ngày và viết một số lời dự báo nói rằng sau khi cúng tế thần linh, đã đuổi yêu tinh đi rồi, nên dân chúng có thể về làm ăn bình thường, an cư lập nghiệp.
Từ lâu nay, Tần Thủy Hoàng hết chinh chiến rồi về sống trong cung cấm, cuộc sống đơn điệu, khô khan, hà khắc. Nay đi ra ngoài, lại lên chốn núi non thắng cảnh, tiếp xúc với thiên nhiên ngoại giới, ngài cảm thấy con người mình trở nên thanh tao trang nhã, nên dọc đường ngài luôn luôn cười nói vui vẻ với những người xung quanh. Nhưng khi ngài thấy huyện lệnh bảo các phương sĩ viết những điều dự báo giả, mượn danh thần linh để lừa bịp dân chúng, thì ngài có ngay ấn tượng không tốt. Ngài cho rằng, mặc dù làm như vậy là để bảo vệ ngài, nhưng lại coi chuyến đi của ngài đến đây là “yêu tinh giáng trần” để dọa dân chúng, đuổi họ đi, đó chẳng phải là bôi nhọ và chế giễu thiên tử đó sao? Khi ngài đang tức giận và sắp lên cơn phẫn nộ thì vừa đến cổng đền chính ở Phong Sơn. Ngài trước mắt nhìn thấy tấm biển đề mấy chữ Tề Lỗ Nhị Phong (Phong cảnh nước Tề và Lỗ). Ngài bất giác giật mình, bỗng nhớ lại rằng nơi này trước là đất của nước Tề, vừa mới bị ngài chinh phục. Ở đây, dân chúng ngày xưa được Tề Hoàn công và Mạnh Thường Quân dạy dỗ nên họ không cam tâm hàng phục nhà Tần. Nếu không, làm gì có những dũng sĩ liều mình muốn đâm chết ngài như Kinh Kha? Chẳng may mà vùng núi Phong Sơn này lại xuất hiện những nhân vật tương tự và lại biết ngài đến chơi núi ở đây thì biết đâu lại chẳng xảy ra chuyện cầm dao găm xông vào ngài mà đâm chém? Cho nên xét cho cùng thì việc huyện lệnh này sai người đóng giả quỷ thần để giấu kín việc làm thật sự của mình, nhằm bảo vệ xa giá, âu cũng là một ý tưởng rất hay. Vậy mà ngài suýt nữa đã hiểu sai ông ta, thật là thiếu bình tĩnh. Nghĩ vậy, ngài càng thấy vừa lòng với tên huyện lệnh.
Khi xuống núi và trở về cung điện cũ của nước Lỗ ngày xưa, nhà vua cho gọi huyện lệnh đến, khen ông ta được việc, còn giữ ông ta lại cùng ăn tối. Lúc đang ăn, ngài còn hứa sẽ thăng cấp thái thú quận Tề cho viên huyện lệnh. Huyện lệnh lập tức bỏ mâm quỳ mọp xuống bái lạy và cảm tạ nhà vua. Trong lòng ông ta rất mừng. Bởi vì việc tiếp đãi nhà vua và các trọng thần của triều đình lần này, sở dĩ đầu xuôi đuôi lọt, thuận buồm xuôi gió, lại còn được nhà vua ban khen và hứa hẹn thăng cấp, đó là vì ông ta biết cái “thuật” làm quan. Tức là, đối với cấp trên thì phải biết hạ mình đến mức có thể làm bàn đạp cho họ bước lên trên, làm trâu ngựa cho họ ngồi. Còn đối với cấp dưới thì có thể xuất phát từ danh và lợi của cá nhân mình để không phải chỉ là đóng giả quỷ thần để lừa bịp thiên hạ, mà lúc cần thiết còn có thể bất chấp dùng đạo lý để dùng bàn chân đẫm máu mà mở con đường tiến thân cho cá nhân. Chẳng phải Lý Tư cũng đã làm như thế đó sao? Những ý tưởng và thủ đoạn như vậy, là mánh lới kiểu ngậm máu phun người rất phổ biến của hết thảy những quan lại thèm khát quyền lực, và những kẻ làm con nhưng bất hiếu bất mục. Những chuyện như vậy vẫn xảy ra luôn luôn ngay trước mắt vị bạo chúa rất sắc sảo nhạy bén như Tần Thủy Hoàng và tỷ lệ thành công cũng rất lớn. “Trung xa phủ lệnh” Triệu Cao là một trong những nhân vật tiêu biểu về lĩnh vực này. Ngài huyện lệnh Trâu Thành này cũng lĩnh hội các bí quyết tiến thân đó, và cũng quyết tâm khổ công tìm tòi và dốc hết mọi mánh khóe “võ nghệ” để ngoi dần lên bậc thang danh vọng.
Theo ước lệ, trước khi lên núi làm lễ “phong thiền”, người chủ tế phải tắm gội sạch sẽ, phải thành tâm quả dục (trong lòng phải trong sạch và phải hạn chế dục vọng). Cho nên, trong mấy ngày hôm nay, Tần Thủy Hoàng không cho phi tần hầu hạ lúc ngủ, mà chỉ thắp hương để ngủ. Ngài nằm trên chiếc giường mà ngày xưa vua Lỗ Khoản Công từng nằm trên đó. Ngài lim dim hai mắt, nghĩ ngợi miên man, nên không chợp được mắt. Ngài cảm thấy rằng mình là chúa tể của cả thiên hạ, nay đến đây chơi núi, nhưng lại tiến hành dưới cái vỏ huyền bí, thật là chẳng hay ho chút nào. Vả lại, việc ngài đến núi Phong Sơn ở huyện Trâu Thành này là một vinh dự cho địa phương, lẽ ra họ phải hết sức biết ơn, phải ca ngợi công ơn to lớn của ngài, vậy mới không phụ lòng của ngài đã cất công đến đây. Nghĩ đến đây, ngài không những không xóa bỏ được những quan niệm cũ, ngược lại càng suy nghĩ nhiều hơn. Cứ trăn trở như vậy mãi cho đến sáng. Lúc ấy, ngài sai thị vệ cho gọi Lý Tư đến, nói rằng:
- Lần này trẫm đến Phong Sơn và nghỉ ở đây, nay đã tắm gội sạch sẽ để chuẩn bị lên Thái Sơn làm lễ “phong thiền”. Mấy hôm nay lên núi xem khung cảnh, cảm thấy rất ngoạn mục. Thực ra ngọn núi này rất bình thường, nay được thánh giá đến thăm, mang ơn đức đến cho cây cỏ ở đây. Vậy cũng nên viết văn ghi lại, ca ngợi công lao thống nhất sơn hà, đề cao sự nghiệp chinh phục sáu nước, toàn thiên hạ đều biết ơn, toàn dân đen đều thần phục. Như vậy mới không phụ lòng trẫm đã mất ba ngày tuần du ở đây như là một quân chủ đại vương quốc. Ơn trạch của trẫm, chắc là các khanh đều hiểu cả. Nay hãy dùng bút viết thành văn để ca tụng.
- Sở dĩ có nước đại Tần hôm nay là nhờ tài dọc ngang trời đất và quyết chí làm nên nghiệp lớn của bệ hạ. Vi thần xin vâng mệnh thánh thượng đem hết tài mọn bút nghiên để ca ngợi ơn đức thiên thu, và công lao muôn đời của thánh thượng.
Lý Tư cảm kích vô cùng trước thái độ tâm trạng và sự tín nhiệm của nhà vua. Ông hứa sẽ không phụ lòng thiên tử và sẽ làm tốt công việc này.
Nhà vua lại khuyến khích Lý Tư, ngài ban cho Lý Tư một vò rượu, một hộp thịt ướp để bổ dưỡng. Lý Tư về phòng mình đóng kín cửa suy nghĩ, từ chối khéo việc ngồi nghe huyện lệnh, huyện úy và giám úy kiểm điểm công việc của họ trước mặt nhà vua. Tả thừa tướng Ngỗi Trạng thay mặt Lý Tư làm công việc thường ngày, bản thân ông ngồi viết văn bia. Sau một đêm thức trắng suy nghĩ cân nhắc, viết di viết lại ba lần, cuối cùng rượu và thịt ướp của nhà vua đã biến thành những áng văn tuyệt mỹ. Sau khi hoàn chỉnh bản thảo, ông còn xem đi xem lại mấy lần cho đến khi hoàn toàn thỏa mãn, rồi mới dâng lên nhà vua. Tần Thủy Hoàng xem xong gật đầu nói được, rồi gọi huyện lệnh đến, bảo phải chọn người khắc chữ đẹp nhất để khắc vào bia, dựng lên đỉnh núi Phong Sơn. Bài văn bia như sau:
Đất nước của hoàng đế, đã có từ lâu, đời trước xưng vương. Nay dẹp phản nghịch, chấn động bốn phương, võ nghệ cao cường, tướng tài ra trận, phụng mệnh đức vua, thấm thoắt mười thu, diệt hết chư hầu. Năm nay hai sáu (năm hai mươi sáu niên hiệu Tần Thủy Hoàng), trời ban tôn hiệu, đạo hiếu hiển minh, tuần du viễn trình, hiếu lễ Thái Sơn; ban ân phát huệ, đến tận Phong Sơn, quần thần đông đủ, cùng nhau suy ngẫm, nghĩ lại thuở xưa, từ thời thái cổ, chia đất chia nước, tranh đoạt lẫn nhau, đầu rơi máu chảy, kể đến vạn đời, đến thời Ngũ đế, vẫn không thấy ngừng. Nay Thủy Hoàng Đế, nhất thống sơn hà, chấm dứt can qua, diệt trừ tai họa, bảo vệ “đầu đen”, ân trạch lâu dài, quần thần ca ngợi. Nay khắc bia đá, ghi lại chuyến thăm.
Bài văn bia là thể thơ viết theo kiểu chữ triện do Lý Tư, người sáng tạo ra chữ triện thời nhà Tần, viết ra, có hành văn rất thông suốt, trôi chảy, ngữ điệu rất kêu, câu chữ rất chỉnh tề, đồng nhất; nội dung phong phú. Trong đó, tác giả nhắc lại lịch sử phân tranh lâu dài trước đây giữa các nước, dìm nhân dân trong nước sôi lửa bỏng. Sau đó hết lời ca ngợi Tần Thuỷ Hoàng đã tiêu diệt sáu nước thống nhất thiên hạ, lập nên chiến công vĩ đại chưa từng có. Đây là tấm bia đầu tiên ghi chép công lao của Tần Thủy Hoàng nhân chuyến tuần du của ngài. Xét về nhiều mặt, áng văn bia này có ý nghĩa lịch sử to lớn, có giá trị nghệ thuật rất cao; đây là báu vật quý giá về chữ viết (thư pháp) của Trung Quốc. Đáng tiếc là tấm bia này bị phá hủy trong chiến tranh Nam Bắc Triều. Hậu thế nói rằng đó là hậu quả của cơn thịnh nộ của trời đất và của con người giáng xuống tên bạo chúa Tần Thủy Hoàng và tên quan lại độc ác Lý Tư.
Sau khi khắc bia và dựng trên núi Phong Sơn ở huyện Trâu, mấy vạn người của đoàn xa giá Tần Thủy Hoàng đi đến huyện Bác An (nay là huyện Thái An). Tại đây Tần Thủy Hoàng cho gọi các nho sinh (các nhà nho học, các học trò của đạo Nho) và “học sĩ” sở tại, tất cả bảy mươi người, đến tụ tập tại chân núi Thái Sơn. Nhà vua muốn hỏi ý kiến họ về nghi thức làm lễ “phong thiền”.
Bởi vì trước khi xuất phát, các quan chủ quản lễ nghi (gồm các quan phụng thừa và nho sinh) đã giở hết sách có liên quan như sách “Tam Phần”, “Ngũ Điển”, “Lễ Ký”, “Xuân Thu”, “Luận Ngữ”, và các sách kinh điển từ thời Thương, Chu. Qua những sách đó, có quá nhiều những tư liệu về tế lễ, nhưng lại không có những ghi chép chính xác và đầy đủ về lễ “phong thiền”. Vì vậy, các quan chức hữu quan chỉ vạch ra một chương trình đại thể, dựa theo nghi lễ cúng tế ở thái miếu mà thôi. Nay đến huyện Trâu, tả thừa tướng Ngỗi Trạng và hai vị “Ngũ đại phu” Triệu Anh và Dương Cầu đã hỏi huyện lệnh về việc làm lễ “phong thiền” ở núi Thái Sơn nên tiến hành như thế nào?
Huyện lệnh nói rằng ở địa phương này có nhiều lão nho sinh rất giỏi, họ có thể giải đáp vấn đề này. Vì vậy khi đoàn xa giá đến chân núi Thái Sơn, liền dừng lại và cho mời các nho sinh đến để hỏi ý kiến. Bảy mươi vị nho sinh cung kính vái lạy Tần Thủy Hoàng rồi trả lời các câu hỏi. Cuối cùng họ cử ra mười mấy vị có uy tín nhất để tâu trình với nhà vua như sau: “Từ sau vua Thành Vương trở đi, thiên tử yếu thế dần, các chư hầu nổi lên tranh giành lẫn nhau, nước nào cũng đòi làm bá chủ. Từ đó, chiến tranh liên miên trong suốt mấy trăm năm, không một ngày nào được bình yên. Các nước thời nhà Chu là như vậy, luôn luôn biến động, nước nào cũng lo tự bảo vệ bản thân, chẳng biết đến cúng tế, lễ nhạc là gì nữa, càng không hiểu chuyện “phong thiền”; ngay cả Trọng Vi (Khổng Tử) cũng không hiểu rõ”.
Tần Thủy Hoàng nghe các vị nho sinh nói vậy, bèn nói:
- Đã vậy thì cứ dựa theo các nghi lễ do các “phụng thừa” vạch ra, tức là bắt chước lễ tế thái miếu và lễ tế săn bắn cuối năm và lễ tế trời hàng năm. Trong đó, trẫm sẽ cầu khấn trời đất, đắp đất vào đỉnh núi Thái Sơn; thế cũng tạm coi là theo đúng lễ nghi cổ xưa. Khổng Tử nói: “Tuy không trúng, nhưng cũng không xa”. Trẫm sẽ làm như thế vậy!
Các lão nho sinh gật đầu nói:
- Bệ hạ nói rất hợp với những điều mà lão phu được biết. Nếu xét theo nghĩa của từ, thì “phong” có nghĩa là đưa hai tay đắp đất vào chỗ đang đứng để cho nó cao lên. Trong năm dãy núi lớn, thì Thái Sơn là cao nhất. Nay bệ hạ là đấng chí tôn cao nhất trong tất cả mọi người, bệ hạ đứng trên núi Thái Sơn để đắp đất cho cao hơn nữa, như vậy chỉ cách trời trong gang tấc. “Thiền” vốn là chữ “thiện” [iii], là san bằng mặt đất làm nơi cúng tế. Mạnh Tử nói: Dưới gầm trời này, không nơi nào không phải đất đai của nhà vua. Cho nên, việc mở mang bờ cõi là công việc của thiên tử. Như vậy vừa “thiện” (san đất) vừa “phong thiền” (đắp đất) đó là công việc tế trời đất của thiên tử. Những chi tiết của nó, có thể không có nhiều tư liệu, nhưng ý nghĩa của nó thì có thể hiểu được. Nay bệ hạ đến đây “phong thiền” tuyên cáo với thiên hạ, để cảm tạ trời đất, mang lại phúc đức cho muôn dân, để lại ân trạch cho nghìn đời.
Nhà vua hơi cau mày suy nghĩ, vẻ mặt của ngài hơi sốt ruột. Ngài đang nghĩ rằng ngay cả cái ý nghĩa của nó mà mình cũng không hiểu được, vậy thì “phong thiền” làm gì? Nay nhà ngươi đã không thể nói rõ tại sao phải làm như vậy, thì huênh hoang những học vấn thối tha ấy làm trò gì? Hay là để đùa giỡn với một dũng sĩ oai hùng từng giành được thiên hạ trong giây lát như ta đây? Thật là gan cóc tía! Giọng điệu mới to tợn làm sao? Nghĩ đến đây, ngài bèn chẳng đếm xỉa đến các nho sinh ấy nữa. Ngài quay sang ra lệnh cho tả thừa tướng Vương Oản thông báo cho “Vũ thành hầu” Vương Ly đưa quân cấp tốc sửa sang lại đường cho xe ngựa, để có thể cho xe lên tận đỉnh núi.
Không ngờ các nho sinh sở tại đã phản đối quyết định đó của nhà vua. Sở dĩ các lão nho sinh phải giải thích cho nhà vua hiểu ý nghĩa của hai chữ “thiền” và “thiện” là do “bệnh nghề nghiệp”, chứ không phải do muốn thuyết giáo theo kiểu “tầm chương trích cú” hay là để đề cao cá nhân gì cả.
Đó là bởi vì, kể từ khi Tần Thủy Hoàng đích thân nắm việc triều chính đến nay, ngài thực hiện luật pháp rất nghiêm khắc, trừng trị nặng nề những kẻ vi phạm pháp luật. Ngài chỉ trọng dụng những người theo thuyết “pháp trị” như Lý Tư, Triệu Cao và khinh bỉ học thuyết “nho giáo” nêu cao “lòng nhân và yêu người”, nêu cao “vương đạo” (đạo nhân nghĩa). Các “học sĩ” tại triều đình bị coi là những đồ trang sức hữu danh vô thực; các nho sinh ở các địa phương lại càng bị ghẻ lạnh chẳng được ban cho một chức tước gì dù là nhỏ nhất, đành phải dựa vào việc dạy tư để kiếm sống. Họ lo học thuyết Khổng Mạnh thất truyền nên dạy học rất cẩn thận. Mỗi một từ đều được giải thích rất rõ ràng về nguồn gốc, ý nghĩa, diễn biến và các từ “phát sinh” từ nó... Họ giảng giải kỹ như vậy là cốt để học trò có thể ghi nhớ, trả lời được câu hỏi, và vận dụng được các từ ngữ ấy. Hôm nay, nghe nói nhà vua Tần Thủy Hoàng gọi đến để hỏi về việc “phong thiền”, các nho sinh vừa mừng vừa sợ. Họ nghĩ rằng đây là cơ hội để đề cao học thuyết Khổng Mạnh, tranh thủ khôi phục địa vị cho các nhà nho. Vì vậy họ hăng hái đến dự họp, vái đại lễ chào nhà vua, hy vọng nhà vua có ấn tượng tốt. Nhất là khi nói về lễ “phong thiền”, mặc dù họ không thật hiểu chi tiết, nhưng lại giải thích rất tỉ mỉ về ý nghĩa và lai lịch của nó. Cũng vì thế mà nói rằng các vị nho sinh này đã phạm vào cái “bệnh nghề nghiệp”, giống như dạy học trò, cứ nói rất nhiều, lặp đi lặp lại; nói từ từ, chậm rãi, vừa nhẹ nhàng gật đầu vừa giảng giải, nhiều lúc rất say sưa. Khi họ phát hiện ra rằng nhà vua ngồi đó, chẳng chú ý gì lắm, thậm chí còn có vẻ không muốn nghe họ nói, họ mới ngừng việc giải thích đang tâm đắc của họ. Họ nói mấy lời nịnh hót nhà vua cốt để thoát ra khỏi sự lúng túng. Nhưng đã quá muộn, nhà vua chẳng nói chẳng rằng, dù chỉ là vài lời miễn cưỡng cho xong chuyện. Ngài chỉ ra lệnh cho quân lính sửa lại đường sá để đi xe lên núi.
Các nho sinh này dù sao cũng là người sở tại, họ có cái ưu thế là thiên thời địa lợi. Mặc dù họ chưa tận mắt nhìn thấy, nhưng ít nhất thì họ cũng từng được tận tai nghe cha anh kể lại cách thức làm lễ “phong thiền” ở núi Thái Sơn, một tục lệ đã ngàn đời nay. Nay thấy Tần Thủy Hoàng cho chặt cây, san đất, đắp đường cho rộng thêm, để cho xe ngựa lên núi; họ nghĩ rằng làm như vậy là trái với truyền thống. Với tư cách là học trò của thuyết Khổng Mạnh, họ đương nhiên phản đối cách làm đó, nhằm bảo vệ sự tôn nghiêm của lễ giáo. Nghĩ vậy, họ không hẹn nhau nhưng đều tự động đến gặp nhà vua và nói rất trịnh trọng rằng:
- Theo ghi chép trong sách sử của bản huyện, thì xe được dùng để “phong thiền” thời cổ, đều dùng cỏ “bồ” để bọc trục xe vì sợ trục xe sẽ đè nát cây cỏ và đất đá trên núi, đàn tế phải được quét dọn sạch sẽ; phải dùng rơm rạ và cây đậu phơi khô để bên chiếu lót ở đàn tế và người quỳ trên chiếu đó để hành lễ. Vì các loại chiếu đó nhẹ và mỏng, không làm hư hại những thứ bên dưới nó. Nay bệ hạ cho chặt cây cỏ, đào đất đá để làm đường cho xe ngựa chạy, e có lẽ trái với chế nghi cổ xưa và làm thương tổn đến lễ nghi nhà Chu.
Nhà vua vốn đã chẳng khoái gì cái lối nói văn vẻ mà ngài cho là thông thái rởm của các nho sinh. Nay lại thấy họ cản trở công việc của mình, ngài tức giận lộn ruột, không thể chịu nổi nữa. Ngài quát mắng:
- Các ngươi không hiểu rõ các chi tiết và cách thức hành lễ, sao cứ huyên thuyên về những chuyện không được làm thế này, không được làm thế nọ, phải chăng là để gây khó dễ cho đại lễ “phong thiền” của ta? Thôi, hãy mau đi khỏi nơi này. - Nói xong, ngài ra hiệu cho các thị vệ đưa bảy mươi nho sinh đi ra xa một trăm bước, ngay cả những người cao tuổi và đáng được trọng vọng nhất, cũng đều bị đuổi đi, không ai được đi theo xa giá để tham gia hành lễ.
Quân lính nhanh chóng sửa sang xong đường xe đi, và nhà vua dẫn đầu đoàn xa giá đi từ phía Nam triền núi để lên thẳng đỉnh núi. Đoàn có các văn võ trọng thần như hai vị thừa tướng Vương Oản và Ngỗi Trạng, thượng khanh Lý Tư, Vương Mậu, Liệt hầu “Vũ thành hầu” Vương Ly, Thông vũ hầu Vương Bôn, Luân hầu Kiến thành hầu Triệu Hợi, Xương vũ hầu Triệu Thành, Vũ tín hầu Phùng Vu Trạch, Ngũ đại phu Triệu Anh, Dương Cầu. Lúc này, đài tế bằng đất cũng đã làm xong, mọi thứ đồ tế đã bày biện đầy đủ, gồm đèn hương, bài vị, đầu bò, đầu dê, ngũ cốc, tơ lụa, châu ngọc. Thừa tướng Vương Oản điều hành, nhà vua chủ tế.
Vì không có những tư liệu về chi tiết hành lễ, nên nhà vua dựa theo nghi thức hành lễ được áp dụng khi làm lễ tế trời ở cố cung Ung Thành nhà Tần. Sau khi tế xong, ngài cho tuyên đọc bài văn bia thứ hai do Lý Tư viết. Bài này chủ yếu nói về đại lễ “phong thiền” ở núi Thái Sơn; đồng thời cũng ca ngợi thành tựu huy hoàng của Tần Thủy Hoàng về các chính sách kinh tế văn hóa, đề cao Tần Thủy Hoàng là một nhà vua hết sức có đức độ, biết chăm lo việc triều chính, yêu dân, thay cũ đổi mới, ra sức làm cho nước mạnh dân giàu; và kêu gọi cả nước đại Tần vĩnh viễn ghi nhớ công lao của ngài, vĩnh viễn đi theo con đường của ngài, vĩnh viễn không bao giờ thay lòng đổi dạ, truyền lại mãi mãi vạn đại thiên thu. Rõ ràng là bài văn bia đã tô son trát phấn cho Tần Thủy Hoàng như thần thánh. Sau đây là bài văn:
Hoàng đế lên ngôi, đặt ra pháp luật, bề tôi tu chỉnh. Năm thứ hai sáu, thống nhất chư hầu, nơi nơi thần phục. Nay ngài khởi hành, tuần du viễn phương, trên núi Thái Sơn, miền Đông đất nước. Bầy tôi theo giá, nghĩ lại cội nguồn, sự nghiệp của Ngài, công đức cao dày, đạo nghĩa rộng lớn; đâu đâu cũng hợp, có thể noi theo. Đại nghĩa sáng ngời, truyền cho hậu thế, đời đời không đổi. Hoàng đế anh minh, đã bình thiên hạ, lại biết trị nước, ngày đêm suy nghĩ, lo việc lâu dài, dạy bảo muôn dân, dựng nước hưng thịnh, xa gần phân minh, thánh ý rành rành. Sang hèn gắng sức, nam nữ giữ lễ, chăm lo chức phận. Nay bảo trong ngoài, giữ gìn trong sạch, cho tận hậu thế, đất trời biến đổi, cũng theo chiếu dụ, vĩnh viễn tuân theo, những lời răn dạy.
Tế lễ xong, nhà vua đứng trên đàn tế, nhìn lên bầu trời bao la một màu xanh biếc. Ánh mặt trời len lỏi xuyên qua tầng mây, chiếu rọi muôn màu tia nắng chói vàng, ánh lên trên nền áo long bào màu đen nháy của ngài, làm nổi bật hình con rồng vàng đang muốn bay bổng trên không trung. Cả đất trời này chỉ mình ngài duy nhất đang ở trong tư thế cưỡi rồng bay xa bay cao. Vinh dự biết bao! Sung sướng biết bao! Tất cả đều đang phủ phục dưới chân ngài. Dải đất mênh mông của đại Tần đang trải rộng dưới chân ngài. Tất cả hầu như là những vật nhỏ xíu, cỏn con, chỉ mình ngài là đấng chí tôn. Do vậy, ngài cảm thấy chuyến hành hương núi Thái Sơn lần này có ý nghĩa hết sức trọng đại. Nó nhắc nhở ngài phải ra tay chuyên chế hơn nữa; phải nắm chặt trong tay mình toàn thiên hạ; mọi của cải trên trời này phải thuộc về cá nhân ngài; tất cả của ngon vật lạ, ngài phải được tự do hưởng thụ; mọi gái đẹp trong thiên hạ, đều là đồ chơi của riêng ngài; mọi sinh linh trên mặt đất này, ngài có thể mặc sức chà đạp, giày xéo.
Nghĩ đến đây, ngài bỗng hứng lên, ngài nghển cổ và dang rộng hai cánh tay, rồi hắng giọng thổi sáo mồm rất kêu và dài. Nhưng tiếng sáo mồm của ngài sao mà gay gắt và chói tai đến thế! Nghe như trong ấy có tiếng thét khủng khiếp của bạo chúa, giống như tiếng gào của sói trong đêm khuya hoang vắng.
Lúc này các thị vệ đã thu dọn xong mọi thứ đồ tế, các quan đã tề tựu trên xe, và ngài cùng mọi người đi từ sườn phía Bắc để xuống núi. Khi vừa xuống được lưng chừng thì mây đen kéo ập tới sấm chớp ầm ầm, mưa bão giội nước xuống như thác đổ. Từng cơn gió mạnh thổi tung tất cả các mui xe, mưa xối xả làm ngập nước bên trong thùng xe, ngay cả con người kiên cường dũng mãnh như Tần Thủy Hoàng cũng không thể trụ vững được. May mà bên đường có một cây thông rất cao lớn xum xuê, đủ để che kín một vùng rất rộng, dễ có đến mấy mẫu đất. Nhà vua nghĩ rằng cây thông khổng lồ này có công bảo vệ thánh giá, cho nên ngài phong chức cho nó là “Ngũ đại phu”. Lúc ấy, các vị nho sinh bị nhà vua xua đuổi, cũng đến trú mưa ở đó. Họ thấy vua quan đều ướt như chuột lột, nhếch nhác đến là thảm hại, họ bèn “đắc chí tiểu nhân”, đua nhau cười khinh bỉ. Họ nói: “Chà đạp lên cây cỏ nơi đất thánh, hủy hoại đất đai của núi Thái Sơn, làm trái với chế độ cũ, phá hoại lễ nghi của nhà Chu, nên trời đất mới trừng phạt. Khổng Tử nói: Trời ghét nó! Trời chán nó! Đó là nói về chuyện vừa xảy ra ở đây”.
Sau khi mưa tạnh, đoàn xa giá lại tiếp tục lên xe đi về một ngọn núi nhỏ, có tên là Lương Phụ, ở huyện Bắc Dương dưới chân núi phía Bắc núi Thái Sơn. Tại đây, đoàn xa giá lại san đất làm đàn tế để cúng trời đất, gọi là “lễ thiền tế đất”. Đến đây, đại lễ “phong thiền” ở núi Thái Sơn mới được coi như kết thúc tốt đẹp Nhưng nhà vua bị mưa bão “khiển trách”, bị cảm nặng, nên phải nghỉ lại mấy ngày, sau khi uống mấy thang thuốc của ngư y, mồ hôi toát ra đầm đìa, bệnh dần dần khỏi, mới lên đường tiếp tục cuộc hành trình.
Chú thích:
[i] Nhà vua có thể ngồi trong một trong ba mươi cỗ xe này hoặc bất cứ lúc nào cũng có thể thay đổi trong số ba mươi xe đó, để tránh bị những phần tử thù địch ám sát, bất ngờ tập kích - ND.
[ii] Lang trung: quan trông coi xe cộ, kỵ binh và các việc canh gác trong hoàng cung - ND.
[iii] Chữ "Thiền" và chữ "Thiện" trong tiếng Hán, viết khác nhau, đọc gần giống nhau, "Thiền" là ngồi im lặng, mặc niệm, tập trung tư tưởng vào một điểm nào để luyện ý. "Thiện" là dọn dẹp san bằng mặt đất để làm nơi cúng tế - ND.