HỒI THỨ HAI MƯƠI BẢY DỰNG ĐÀI LANG NHA, TỪ PHÚC LÒE PHÉP THUẬT-LẶN SÔNG TỨ THỦY, HOÀNG ĐẾ MẤT CÔNG TOI-------
Tần Thủy Hoàng sinh ra ở nước Triệu, lớn lên ở nước Tần, năm mười bảy niên hiệu Tần Thủy Hoàng, tức là năm ngài tròn ba mươi tuổi, bắt đầu đưa quân chinh phục sáu nước. Trong quá trình đó, ngài có đến kinh đô các nước này để tiếp nhận đầu hàng; đồng thời có đi xem xét các cung điện các nước này, cướp đoạt gái đẹp và châu báu ở các đô thành này, sau đó đưa về Hàm Dương. Tuy nhiên, nhìn chung, trong hơn mười năm ấy, chủ yếu vẫn là hoạt động trong nước là chính, chưa từng đặt chân đến miền biển, và ngài thường tỏ ra muốn đi du ngoạn vùng biển. Lần đi hành hương núi Thái Sơn này, ngài đặt chân đến đất nước Tề cũ, cũng đã gần cận kề với ven biển Đông rồi. Đến đây, ngài cảm thấy rất cao hứng, bèn ra lệnh cho đoàn xa giá đi về hướng Đông. Đoàn đi qua huyện Hoàng, huyện Thùy, đi ngang qua chân núi Thành Sơn, leo lên đỉnh núi Phù Sơn, dựng một tấm bia ở đó, ca ngợi công đức vương triều họ Tần.
Sau khi xuống núi, lại chuyển sang hướng Nam, đi men theo bờ biển Bột Hải, cuối cùng đến quận Lang Nha. Thái thú dẫn đầu quan chức địa phương và dân chúng ra nghênh đón nhà vua và đoàn xa giá, đưa đoàn về nghỉ tại quận đường và dịch quán. Tại bữa tiệc rất linh đình, thái thú giới thiệu với nhà vua cảnh đẹp của núi Lang Nha, nói rằng đây là ngọn núi nổi tiếng ở ven biển Đông và mời nhà vua lên núi du ngoạn, coi như ban ân trạch cho núi sông và cũng là tạo thành tích cho huyện quận. Nhà vua vui vẻ nhận lời.
Ngày hôm sau, đoàn xa giá đi về phía Đông Nam hơn mười dặm là đến núi Lang Nha. Nhà vua và mọi người lại hăng hái leo núi.
Núi Lang Nha cao khoảng năm dặm so với mặt nước biển, diện tích khoảng hơn hai mươi dặm vuông. Tuy không cao lắm nhưng chung quanh chỉ là những ngọn đồi thấp thoai thoải, một phía ngoảnh mặt ra biển; cho nên, trông có vẻ cao ngất nghểu. Nhà vua và các đại thần từ từ leo lên tận đỉnh núi, thấy những vách núi đá cheo leo, nhiều chỗ có cây cối um tùm, hoa đào đang nở rộ, tùng bách xum xuê. Thỉnh thoảng lại có những đám mây lướt qua đám rừng cây tạo cảm giác mới lạ lâng lâng cho mọi người. Nhà vua vui vẻ nói với mọi người:
- Mấy chục năm rong ruổi chinh chiến rồi ngồi lỳ trong cấm cung, ngập mình trong công việc, rất ít khi nhàn rỗi. Hôm nay du ngoạn cảnh đẹp mới thấy nơi này thật sự là danh lam thắng cảnh, đặt chân tới đây con người mới thấy nhẹ nhõm thư thái, cái gì cũng rất mới lạ.
Thừa tướng Ngỗi Trạng vội lên tiếng đáp lại:
- Lúc căng thẳng lúc thoải mái, đó là chuyện thường tình của nghề văn nghề võ. Bệ hạ nắm triều chính, điều hành quốc gia, tất phải tự mình lo liệu mọi việc; đêm ngày lo nghĩ, vất vả liên miên, kẻ bầy tôi rất kính phục. Nay đã “phong thiền” thế càn khôn [i] đã định, nay ngự giá tuần du để thư thái tâm tình. Chúng thần được đi theo hầu hạ, được tắm gội trong đức độ khoan dung của thánh thượng, như cây cỏ hứng gió mát ngày xuân. Thật hạnh phúc muôn phần.
- Đây là nơi ven biển xa xôi, không bị binh đao quấy nhiễu, hẳn phải là nơi địa lợi nhân hòa, dân sinh trù phú, thật đáng để tuần du thưởng ngoạn! - “Ngũ đại phu” Triệu Anh và Dương Cầu vừa dạo bước vừa chuyện trò.
- Hai vị đại nhân chưa hiểu hết dấy thôi. Nơi này tuy sơn thủy hữu tình, cảnh trí tươi đẹp, đất dai phì nhiêu nhưng mùa màng thu hoạch lại ít lãi, cho nên nhiều người làm nghề nông ở đây đã bỏ đi nơi khác. Họ đến Mặc Thành và Cử Thành để làm nghề công thương, chỉ còn rất ít người ở lại đây làm nghề nông. - Thái thú quận Lang Nha vội bước tới nói về tình hình nông nghiệp đang sa sút và nhân khẩu đang suy giảm ở đây cho hai vị đại nhân nghe.
Nhưng nhà vua lúc ấy đang ở gần đó cũng nghe thấy, ngài bèn hỏi:
- Tại sao đất đai ở đây tốt như vậy, cảnh vật đẹp như thế, rất dễ trồng trọt, sao người ta vẫn bỏ đi?
Viên thái thú nói:
- Con người đi hay ở, có liên quan chặt chẽ với tình hình xã hội có an ninh hay không? Nước ta có câu: “Loạn nhỏ thì ở trong thành, loạn to thì về nông thôn”. Mười mấy năm qua, quân đại Tần ta chinh phục sáu nước, xã hội thì bị xáo động trong một thời gian lâu dài. Vì vậy rất nhiều người ở các đô thị lớn đưa nhau về thôn quê. Lang Nha là một xã vùng ven biển, nên rất nhiều người chạy về đây, làm cho sản xuất nông nghiệp ở đây rất phát đạt. Nay chiến tranh đã chấm dứt, xã hội đã ổn định; vì vậy người ta lại đưa nhau về đô thị, làm các ngành nghề khác. Do vậy, nhân khẩu Lang Nha bị giảm sút, nông nghiệp tiêu điều. Tài nguyên ở đây phong phú, nhưng nhân lực rất thiếu. Đó là hiện tượng không bình thường; cho nên cảnh tuy đẹp nhưng không có sức sống. Sự di chuyển tự do của nhân khẩu, nếu không có chính sách và luật pháp can thiệp và hạn chế, thì không ai làm gì được. Ngay hạ thần là thái thú quận cũng vậy.
Nhà vua nghe nói vậy cũng gật đầu khen viên thái thú rất hiểu biết và vấn đề do ông ta nêu lên, rất đáng quan tâm. Ngài bèn gọi thượng khanh Lý Tư và Vương Mậu đến, chỉ thị cho hai người:
- Trong thời gian chiến tranh trước đây, chúng ta tập trung vào việc công thành chiếm đất, giành chính quyền, bỏ qua mất khai thác tài nguyên và nhân lực để sử dụng hợp lý và có hiệu quả. Nay thiên hạ đã thống nhất. Việc đổi mới thể chế chính trị, pháp luật, văn hóa, giao thông, đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp. Về kinh tế tài chính, do tịch thu tài sản sáu nước, lại di chuyển và tập trung mười mấy vạn hộ giàu về Hàm Dương, làm cho quốc khố cũng đầy ắp. Không ngờ các quận huyện cũng có hiện tượng tương tự, rất nhiều người ở nông thôn cũng di chuyển đến các đô thị, bỏ tiền của ra làm nghề công thương, thúc đẩy kinh tế đô thị phát triển, nhưng lại gây ra tình trạng giảm sút nhân khẩu ở nông thôn, làm suy yếu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sự mất cân đối giữa thành thị và nông thôn đó, không có lợi cho việc xây dựng kinh tế và ổn định xã hội, cần nhanh chóng ban hành chính sách và luật pháp thích hợp và có biện pháp có hiệu lực để cải thiện tình hình này.
Hai vị thượng khanh nghe nhà vua nói vậy, bèn phát biểu quan niệm của mình. Một vị nói:
- Tâu bệ hạ, tình hình của quận Lang Nha đúng như nhận xét của bệ hạ, nhưng hạ thần cho rằng sở dĩ đô thị có sức hấp dẫn như vậy là do thu nhập ở đô thị cao hơn. Trong khi đó chính sách nông nghiệp của triều đình chỉ chú trọng việc thu thuế trên sản lượng, còn sở hữu ruộng đất vẫn thuộc quyền nhà nước, vì đều là ruộng đất do triều đình ban cho công thần và những người có tước vị. Những người này không có quyền sở hữu ruộng đất; vì vậy họ không thật gắn bó với ruộng đất và không an tâm với nghề nông. Đó là một nguyên nhân quan trọng gây nên hiện tượng di chuyển nhân khẩu. Trước tình hình đó, hạ thần đề nghị giải quyết vấn đề sở hữu ruộng đất để ơn định nhân khẩu nông nghiệp. Có như vậy sản xuất nông nghiệp mới phát triển.
Nhà vua suy nghĩ chốc lát rồi mới hiểu ra vấn đề. Ngài nói:
- Trước đây ta quá chú trọng việc căn cứ vào công lao để phong tước ban lộc, mà không quy định “thuộc quyền” (quyền sở hữu) ruộng đất, người được “cho đất” đó chết đi, ruộng đất lại thuộc về nhà nước. Lợi ích mà người được “cho đất” cũng không nhiều và không bền vững. Đây thật là một nhược điểm. Trong khi đó, nước ta luôn luôn coi nghề nông là cái gốc để dựng nước. Các khanh phải mau mau vạch chính sách, để cho các chủ đất có “thuộc quyền” ruộng đất thật sự, như vậy họ sẽ an cư lạc nghiệp. Còn tình hình thực tế của quận Lang Nha, số nhân khẩu đã bỏ đi, nay đương nhiên không thể gọi họ về được nữa. Vậy có thể đưa ba vạn hộ từ nơi khác về đây, cho họ có quyền sở hữu ruộng đất. Như vậy, chẳng bao lâu sẽ phục hồi được sản xuất ở đây.
Ngoài ra, để tỏ lòng quan tâm của nhà vua đối với dân chúng, ngoài việc thực hiện chính sách “dân có thực quyền ruộng đất”, ngài còn cho mỗi “lý” (một lý gồm một trăm hộ) trong toàn quốc sáu thạch gạo và hai con dê. Tuy mật ít ruồi nhiều, chỉ là muối bỏ biển, song cũng thể hiện sự quan tâm và trọng thị của Tần Thủy Hoàng đối với nông nghiệp - cái gốc để dựng nước.
Việc thực thi chính sách “dân có thực quyền ruộng đất” (sử kiềm thư tự thực điền) [ii], đã chấm dứt chế độ nô lệ đã tồn tại hàng nghìn năm trước đó, và làm xuất hiện giai cấp địa chủ, có quyền sở hữu ruộng đất, đặt nền móng cho vương triều phong kiến nhà Tần. Đó cũng là một sự kiện trọng đại mà Tần Thủy Hoàng đã làm trong cuộc tuần du lên núi Thái Sơn.
Lại nói về việc leo núi Lang Nha. Khi lên tới đỉnh núi và đứng trên nền đài cao được xây đắp trên đỉnh núi, nhà vua nhìn ra biển cả mênh mông, những đợt sóng nhấp nhô chạy dài từ ngoài khơi rồi ập vào bờ. Bọt sóng trắng xóa tung tóe rồi bốc vút lên cao, giống như ngọn tháp thủy tinh sáng loáng. Nhưng trong nháy mắt lại sụp đổ tan biến như những mảnh vụn của hàng nghìn hàng vạn viên ngọc đang rào rào rơi xuống đất như sao sa. Tiếp ngay đó là đợt sóng mới ập đến và chôn vùi những gì còn lại của đợt sóng trước. Cứ thế, những tháp thủy tinh nổi lên rồi sụp xuống, trùng trùng điệp điệp, không bao giờ ngừng...
Nhà vua đang say sưa ngắm nhìn sự vận động liên tục, không ngừng của những đợt sóng vỗ bờ, thì ngay dưới chân ngài, sóng biển cũng đang ập đến, rồi lại tan biến rồi lăn dần ra xa. Lúc này, nước thủy triều đang xuống, sóng biển không dồn dập ào ào như lúc thủy triều lên, mà cứ lăn tăn lùi dần xa ngoài biển khơi. Lúc này tầm mắt và tâm trạng nhà vua cũng dần dần trải rộng theo làn sóng, ngày càng xa. Từ trong tâm khảm của mình, ngài cảm thấy lòng mình rộng mở, khoáng đạt, bao dung, như đang dang rộng cánh tay để ôm cả vũ trụ vào lòng mình. Nào là núi non, sông ngòi, thành ấp, ruộng đồng cung điện, phi tần [iii], vàng bạc, châu báu... tất cả đều là của ngài. Ngài là chúa tể và là người sở hữu tất cả những thứ đó. Không những là hiện tại, mà cả trong tương lai, là chúa tể vĩnh hằng.
Lúc này, ngài nghĩ đến lai lịch của cái đài cao trên đỉnh Lang Nha và người tạo dựng nên nó, đó là vua Câu Tiễn nước Việt. Cách đây 250 năm; sau khi tiêu diệt nước Ngô, vua Câu Tiễn nước Việt, một người có chí lớn và hoài bão hùng cường đã đến ngọn núi Lang Nha này và xây một đài cao trên đỉnh núi, cũng gọi là đài Lang Nha (Núi Lang Nha thuộc địa phận huyện Giao Nam, phía Đông tỉnh Sơn Đông, nhìn ra biển Hoàng Hải. Năm 219 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng đến đây - ND). Việt vương Câu Tiễn đã lấy tư cách là nước bá chủ để lập đàn tế trời trên đài Lang Nha này. Hôm làm lễ, Câu Tiễn đứng làm chủ tế có vua quan chư hầu tham dự, cùng giết bò, lấy máu bò bôi lên chuông rồi đánh chuông để tế trời và cúng tiên tổ; còn chích máu ăn thề, thiết lập đồng minh, cùng phò tá nhà Chu. Do vậy, đài Lang Nha trở thành cột mốc lịch sử ca ngợi công đức của Việt vương Câu Tiễn. Nhưng đó chẳng qua chỉ là di tích lịch sử đã mấy trăm năm rồi. Nay ngài đã ngự trị trên lãnh thổ mênh mông của nước đại Tần, trong đó, nếu như nước Việt vẫn còn, thì cũng chỉ là một khoảnh đất cỏn con, Việt vương Câu Tiễn sao có thể sánh kịp, ngay cả Tam Hoàng Ngũ Đế cũng còn thua kém rất xa. Vì vậy, hôm nay tới đây, ngài phải để lại cái gì ở đây để lưu truyền hậu thế. Ngài bèn cho gọi các đại thần đến bàn bạc, mọi người nhất trí ủng hộ chủ trương đó và giao cho Lý Tư chấp bút.
Nội dung của tấm bia này là tổng hợp hai bài văn bia trước và có bổ sung. Có một chi tiết khác là ở dưới bài văn bia chính còn có danh sách họ tên các đại thần văn võ từng theo xa giá lên núi Lang Nha và tham gia cuộc họp do nhà vua triệu tập để bàn về việc viết văn bia, cũng như các ý kiến của họ và quyết nghị của cuộc họp này. Cho nên, đây không phải là một bài văn bia thông thường, mà là một bản “biên bản hội nghị” được ghi chép đầy đủ, rõ ràng, sinh động, rất có giá trị văn học và có ý nghĩa lịch sử. Sau đây xin trích một phần (lược bỏ nội dung chính):
…Từ khi vua Tần giành được thiên hạ, đặt danh hiệu là hoàng đế đi thăm hỏi đất đai phía Đông và đến Lang Nha. Đi theo ngài và dự họp trên bờ biển này có Liệt hầu Vũ thành hầu Vương Ly, Liệt hầu Thông vũ hầu Vương Bôn, Luân hầu Kiên thành hầu Triệu Hợi, Luân hầu Xương vũ hầu Triệu Thành, Luân hầu Vũ tín hầu Phùng Vu Trạch, thừa tướng Ngỗi Lâm (Trạng), thừa tướng Vương Oản, Khánh Lý Tư, khanh Vương Mậu, Ngũ đại phu Triệu Anh, Ngũ đại phu Dương Cầu. Cuộc họp viết: “Những người làm “đế” thời xưa, đất không đầy nghìn dặm, các nước chư hầu mỗi người giữ thành của mình, có nước triều công (đế) có nước không, nhưng xâm phạm lẫn nhau, luôn gây bạo loạn, chém giết không ngừng. Nay khắc vào đá để ghi nhớ Ngài. Xưa có Ngũ Đế, Tam Hoàng, mỗi vị hiểu biết một cách, phép tắc không rõ ràng, thường mượn cái uy của quỷ thần để ức hiếp những miền xa, thật không xứng danh, nên không được lâu bền, cuối cùng bị chết, chư hầu bội phản, pháp lệnh bất thành. Nay hoàng đế thống nhất bốn biển, đặt ra quận huyện, thiên hạ hòa bình, rạng danh tông miếu, thực hành đạo đức, tôn hiệu đại thành. Quần thần ca tụng công đức hoàng đế, khắc vào đá vàng, lưu lại hậu thế.
Đoạn văn nói trên đây cho thấy, Tần Thủy Hoàng thường tự huênh hoang cho rằng công đức của mình hơn hẳn Tam Hoàng Ngũ Đế, nên cho rằng tất cả các mốc son lịch sử huy hoàng trước đây, đều không thể hơn mình, không thể vượt lên trên công đức của mình. Ngay cả cái đài Lang Nha cổ đại này, làm sao có thể tương xứng với tấm bia đá ghi công đức của ngài để tồn tại trên đỉnh núi nổi danh này. Vì vậy, ngài làm một việc lớn thứ hai, đó là hoàn toàn phá bỏ đài Lang Nha do vua Câu Tiễn nước Việt xưa đã xây đắp, để làm một đài Lang Nha khác, hoàn toàn mới, cũng chính ngay trên vị trí cũ. Để cho đài mới tương xứng với tấm bia mới, và lưu lại muôn đời. Ngài yêu cầu phá sạch và dọn sạch nơi đài cũ, xây đài mới thật đẹp, hùng vĩ. Từ nền đến mái, lan can, đỉnh vòm đều phải có hình dáng oai phong. Phần chính của đài được xây bằng đá, mỗi viên dài tám thước, rộng bốn thước, dày một thước rưỡi. Đài có ba tầng (ba cấp) mỗi tầng cao ba trượng (tam cấp). Tầng trên cũng bằng phẳng, rộng rãi. Trên mặt bằng này xây một cái đình, có lan can bao quanh, để tựa vào lan can ngắm nhìn bốn phía.
Thừa tướng Vương Oản, đình úy Lý Tư ngồi tính toán công việc, thấy công trình rất lớn, không thể làm xong trong thời gian ngắn, bèn xin ý kiến nhà vua xem có nên cứ tiếp tục cuộc tuần du, đợi khi nào đài được làm xong mới quay lại tổ chức lễ “lên đài”, “dựng bia” hay không. Ai ngờ, lần đầu tiên nhà vua lại rất thoải mái về thời gian, ngài lưu lại ở ngay Lang Nha. Hàng ngày, nhà vua còn lên đỉnh núi để ngắm cảnh mặt trời mọc ở biển Đông và những bọt sóng vàng óng ánh dưới nắng chiều, hoặc chơi cờ, tổ chức yến tiệc, nghe nhạc, có vẻ như thoải mái và vui thích hơn ở Hàm Dương.
Một buổi chiều nọ, trời rất oi bức, nhà vua ngủ trưa xong thức dậy, ngài cùng Triệu Cao đến xem tình hình thi công đài Lang Nha. Ngài bước chậm rãi đến phía Đông nền đài, đưa mắt nhìn ra phía chân trời xa xa trên mặt biển mênh mông. Lúc ấy vào khoảng giờ Thân (khoảng 3 - 5 giờ chiều), nắng hè vẫn gay gắt, chiếu rọi trên từng đợt sóng lăn tăn ánh bạc, đập vào mắt như ngàn vạn ánh sao lấp lánh đang chờn vờn lướt nhanh trên mặt nước biển xanh biếc. Để tránh ánh nắng chói chang, nhà vua nhíu cả hai mắt, nghển cao đầu để nhìn ra xa hơn, xa hơn, ra tận chân trời. Nước biển bốc hơi dưới ánh nắng ngày hè, từng đám hơi nước tụ thành từng làn mây nhẹ nhàng trôi lơ lửng trên không, tạo cảm giác bay bổng lâng lâng cho con người, xua tan không khí oi nồng. Nhà vua hít thở một hơi dài, khoan khoái, rồi bỗng ngài xõa tóc tung bay trước làn gió biển mát dịu. Khi ngài gạt những chùm tóc đang xõa xuống trước mắt, che mất tầm nhìn, bỗng ngài nhìn thấy ở phía chân trời hình như đang có một đội binh mã đang giao chiến ác liệt. Ô kìa! Mà rõ ràng là quân đội kiêu dũng nhà đại Tần đấy mà. Cũng mũ sắt đen, áo giáp đen, cờ hiệu màu đen, ngựa sắt giáo vàng. Họ đang quyết tử xung phong. Còn quân đối phương thì ăn mặc hỗn tạp, nhìn không rõ là của nước chư hầu nào. Họ không thể chống cự nổi quân Tần nên đang thua và lùi dần, lùi dần. Nhìn đến đây, ngài bất giác thét lớn: “Giết! Giết! Giết! Đi theo trẫm truy đuổi đến cùng bọn giặc kia, nêu cao uy vũ của ta!”. Đội quân mờ ảo ở xa tít chân trời hình như có nghe lời nhà vua ra lệnh, nên họ ồ ạt xông lên, đuổi theo sát quân thù.
Nhà vua đang hưng phấn vì quân mình toàn thắng thì mắt ngài lại nhìn thấy một cảnh trí tuyệt vời khác. Đó là thành quách trùng điệp, cung điện nguy nga, trụ đá hoa khổng lồ, tất cả đều rực rỡ huy hoàng, long lanh tráng lệ, hùng vĩ hào hoa, thật là kỳ quan hiếm thấy, không đâu sánh bằng, xứng đáng với vị hoàng đế cực kỳ tôn vinh. Ngài đang tập trung theo dõi những hình ảnh kỳ vĩ đang diễn ra trước mắt mình, bỗng một đàn chim hải âu bay qua, che mất tầm nhìn của ngài. Ngài bèn né người sang một bên để tiếp tục ngắm nhìn cảnh tượng mà mình đang say sưa, nhưng trong nháy mắt, tất cả đều tan biến trong mây trời. Trước mắt ngài lại xuất hiện những hòn đảo với cỏ cây hoa lá xum xuê, rợp bóng thông tre; những lá cờ phất phơ trước gió xen giữa những ngôi nhà tường đỏ ngói xanh, đàn hạc tung cánh, suối chảy róc rách. Thật là tiên cảnh, làm cho ngài tỉnh táo hoàn toàn. Ngài cố đưa mắt nhìn cho rõ những hình ảnh tuyệt vời đang ẩn hiện trong không trung, nhưng bỗng một đám mây lơ lửng bay qua che khuất ánh mặt trời và tất cả đều biến mất.
Nhà vua đứng ở đó, ngài sững người ra một lúc, cho đến khi trời đã xế chiều, ngài mới vội quay người lại gọi Triệu Cao. Vị hoạn quan này vẫn luôn luôn im lặng bám sát sau lưng ngài, nhưng vì những giây phút vừa qua, ngài chăm chú ngắm nhìn những hình ảnh do trí tưởng tượng quá mãnh liệt của ngài tạo ra, cho nên ngài quên khuấy mất con người hầu hạ gần gũi nhất của mình. Nhà vua vui vẻ mỉm cười gật đầu khi nhìn thấy Triệu Cao, sau đó đi về phòng mình ở nha môn quận đường Lang Nha. Tối hôm đó, khi ăn tối xong, ngài liền gọi thái thú quận lên gặp. Ngài nói về những ảo ảnh mà ngài nhìn thấy trên bầu trời mặt biển, và hỏi tại sao. Thái thú trả lời rằng trên không trung mặt biển Lang Nha, năm nào cũng có cảnh quan như thế xuất hiện mấy lần. Nghe nói đó là do con sò biển thổi gió biến thành những hình ảnh đó, gọi là “hải thị lâu”. Tức là ảnh giả, ảnh ảo, do ánh nắng soi vào mặt nước biển rồi rọi lên không trung, tạo nên muôn hình vạn trạng rực rỡ, giống như nhà cửa cung điện. Những hình ảnh đó dự báo điềm lành hay điềm gở thì ông ta không biết được. Nhưng ở quận này có một thầy cúng tên là Từ Phúc rất giỏi pháp thuật, có lẽ giải đáp được vấn đề nan giải này. Nhà vua nghe vậy cả mừng, ra lệnh cho thái thú gọi ngay Từ Phúc đến gặp. Viên thái thú này vốn rất thông minh lanh lợi, biết rằng nếu làm cho nhà vua vui vẻ, mọi việc đều như ý muốn, thì vận may sẽ đến với ông ta, thăng quan tiến chức là cái chắc. Vì vậy, khi gặp Từ Phúc, thái thú nói hết cho Từ Phúc biết tất cả những gì mà nhà vua nói với ông ta; lại còn nói nhà vua rất ưa thích nịnh hót, đến đâu cũng dựng bia đề cao công đức của mình; và lại hay tin quỷ thần, ham muốn trường sinh...
Từ Phúc nắm được những điều bí ẩn ấy bèn chuẩn bị sẵn mọi chuyện trong đầu. Khi đến gặp nhà vua, ông ta tỏ vẻ rất cao đạo nghiêm trang, đi đứng đàng hoàng, thoải mái tự nhiên. Sau khi bảo khách ngồi xuống, nhà vua nói về cảnh tượng nhìn thấy và hỏi Từ Phúc. Từ Phúc suy nghĩ một lát rồi tỏ vẻ rất kinh ngạc, ông ta bẩm tấu với nhà vua:
- Đó là do thượng giới chiếu ánh sáng thần linh xuống tận đáy biển, làm kinh hãi những con sò thần. Những sò thần liền luyện khí cầu tiên và hà hơi lên tận thiên đình. Lúc ấy, những người có duyên phận với tiên giới, đều có thể nhìn thấy những hình ảnh kỳ lạ do sò lần tạo ra. Đó gọi là “hải thị thận lâu” vậy.
- Đạo trưởng nói chí phải - Nhà vua vội tiếp lời và nói tiếp - Mắt trẫm nhìn thấy không chỉ là hình ảnh lạ kỳ mà còn thấy hình như đội quân của trẫm và cung đình ở Hàm Dương cũng xuất hiện ở đấy mới lạ chứ? Điều này thì trẫm không thể hiểu nổi.
Từ Phúc nắm chặt tay tỏ vẻ cung kính với nhà vua rồi nói:
- Một khi đã có duyên phận với tiên giới, thì có nông có sâu. Người nào chỉ có quan hệ nông cạn, hời hợt, thì chỉ nhìn thấy những cảnh vật bình thường như núi sông cây cỏ, lâu đài đình các, để họ biết rằng giữa dân gian và trên trời cao vẫn có những chỗ rất giống nhau, vì vậy phải an phận thủ thường, tu tâm hướng thiện, chớ ham tranh giành, nếu không thì sống cũng như chết rồi vậy.
- Như đạo trưởng nói thì duyên phận của trẫm cũng giống như vậy chăng? - Nhà vua tò mò muốn hỏi cho rõ hơn về bản thân mình.
- Bệ hạ thật thông minh nhạy cảm, bần đạo chỉ mới nói sơ qua thế mà đã lĩnh hội sâu sắc đến thế. - Từ Phúc bắt đầu múa môi múa mép, nịnh bợ tâng bốc - Những ai có duyên phận sâu sắc với tiên giới, thì có thể nhìn thấu những đám mây trên bầu trời mặt biển, thấy những hình ảnh như thật, nào là cầm quân thắng địch, giáo vàng ngựa sắt, uy vũ kiêu hùng, chinh phục sáu nước, thống nhất sơn hà.
Nhà vua gật đầu liên tục, miệng nói:
- Nói có lý! Nói có lý!
Từ Phúc tiếp tục nói, vừa nói vừa dẫn chứng:
- Bệ hạ vừa đặt tên hiệu là hoàng đế, dựng tượng đồng để bảo vệ xã tắc. Vậy thì nghìn vạn thành quách, chín tòa cung điện đều quy thuộc sở hữu của bệ hạ, phú quý vinh quang, tối cao vô thượng. Đó là cảnh tượng thứ hai trên bầu trời phản chiếu sự cường thịnh hiện hữu của bệ hạ.
- Vậy thì các vị tiên nơi thượng giới làm sao biết được trẫm đang ngắm nhìn biển cả để phản chiếu cảnh tượng ấy? - Nhà vua vẫn chưa rõ.
- Bệ hạ là con trời, ánh hào quang của vận may và điều lành của bệ hạ chiếu thẳng lên trời xanh nên các “tiên nhân” đón nhận được, và tiếp đó là sự gặp nhau giữa hơi thở của sò thần và linh cảm của bệ hạ, những hòn đảo thần tiên hiện ra, và những tưởng tượng siêu phàm đã dẫn dắt bệ hạ đi đến tiên cảnh của trường sinh bất lão.
Nhà vua nghĩ lại trước đây ngài dốc sức chinh chiến, diễu võ dương oai rồi thỏa sức hưởng thụ, đề cao công đức; nhưng cũng trải qua những năm tháng hết sức căng thẳng và mệt mỏi để liên tục đối phó với thù trong giặc ngoài. Nay tuổi đã ngoại tứ tuần, cái tuổi hay suy ngẫm về nỗi đắng cay của cuộc đời, ngài càng cảm thấy mình phải trả cái giá quá ư to lớn để bảo vệ cơ nghiệp vĩ đại của tổ tiên và thống nhất thiên hạ. Vì vậy ngài hoàn toàn có quyền chiếm hữu cho riêng mình tất cả những gì hiện có trên thế gian này như đất nước, cung đình, mỹ nữ, châu báu, ngọc ngà; và phải được tận tình hưởng thụ. Ngài mong rằng tìm được một phương pháp nào đó để kéo dài tuổi thọ đến mức có thể trường sinh bất lão. Hôm nay mắt ngài nhìn thấy các hình ảnh trên mặt biển thực ra là những ảo ảnh lộn xộn phức tạp do ánh sáng bị nước biển phản chiếu tạo nên. Nhưng vì tâm tưởng của ngài rất mâu thuẫn và phức tạp, nên “tượng do tâm sinh” (hình ảnh do tâm tưởng tạo ra), và ngài lại mô tả những hình ảnh đó như là những sự vật có liên quan chặt chẽ với những trải nghiệm thực tế của ngài. Bây giờ, những chuyện đó lại được Từ Phúc phóng đại, tô vẽ và lôi cuốn, càng làm cho ngài thèm khát được trường sinh bất lão. Vì vậy, ngài vội nói với Từ Phúc tìm kiếm một phép kỳ diệu nào đó giúp ngài kéo dài vĩnh viễn cuộc sống. Từ Phúc thấy nhà vua khẩn thiết yêu cầu, bèn thuật lại một cuộc đi chơi kỳ lạ như sau.
Mấy năm trước, ông ta đi thuyền đến hái thuốc ở một hòn đảo ở gần đó, nhưng bị một cơn bão thổi mạnh và trôi phiêu bạt đến một đảo tiên. Phong cảnh trên đảo rất đẹp, bốn mùa đều tươi tốt như ngày xuân. Ở đó, các em bé tóc còn để chỏm hay người già tóc đã bạc phơ, các thiếu nữ ngây thơ hay bà già lọm khọm, tất cả đều căng đầy nhựa sống, sôi nổi nhiệt tình, đạo mạo thần tiên, siêu phàm thoát tục, khiến ông ta khâm phục vô cùng, chỉ muốn ở lại đó không về nữa. Nhưng những người ở đó lại nói rằng ông ta vẫn chưa trút hết duyên nợ với cõi tục nên không thể ở lại nơi ấy được, chờ khi nào thời cơ chín muồi sẽ báo mộng cho ông ta đến đó. Lúc chia tay họ cho ông ta một viên thuốc, ông ta uống vào thấy trẻ ra rất nhiều. Các “tiên nhân” trên đảo còn dặn dò rằng nếu thấy ai có duyên phận và muốn tìm thuốc trường sinh bất lão, thì có thể nhờ ông ta đến đó mà xin.
Những điều huênh hoang khoác lác, ba hoa chích chòe của Từ Phúc lại làm cho nhà vua rất tâm đắc. Ngài vội nhổm người dậy, chắp hai tay nài xin Từ Phúc đi ra biển khơi giúp ngài làm công việc trọng đại nhất trong đời này. Từ Phúc nói, hiện nay những người trên đảo tiên chưa báo mộng cho ông ta. Nếu đi ngay thì không biết có tìm được họ hay không, bởi vì ở biển Đông có ba hòn đảo tiên, có tên là đảo Bồng Lai, Phương Trượng, và Doanh Châu. Lần trước ông ta chỉ mới trôi dạt đến một đảo nhỏ được coi là cổng vào các đảo tiên. Hơn nữa lại là do gió thổi dạt đến, không thể nhớ rõ phương hướng. Lần này đi phải tìm kiếm khắp nơi trên biển cả mênh mông may ra mới tìm được các đảo tiên ấy. Vì vậy không thể ngày một ngày hai mà xong. Khó nhất là phải có ba nghìn thiếu nữ và ba nghìn thiếu nam, ngồi trên một trăm chiếc thuyền lớn có lầu che, phải thành tâm chay giới, đốt hương khẩn cầu, mặt hướng tiên đảo, mang theo chiếu thư của nhà vua, như vậy mới mong các “tiên nhân” nhận giúp đỡ và ban thuốc tiên trường sinh bất lão. Bản thân Tần Thủy Hoàng vốn rất ưa những lời nịnh hót đại ngôn, lại thích làm gì cũng rầm rầm rộ rộ, huy động thật đông người để ra oai uy vũ. Bây giờ nghe Từ Phúc nói phải thành lập một đoàn thuyền lớn, lại lấy danh nghĩa hoàng đế đại Tần, thì ngài ưng ý lắm. Vì vậy, ngài chấp nhận mọi yêu cầu của Từ Phúc và giao cho Lý Tư và Ngỗi Trạng cùng với thái thú quận Lang Nha nhanh chóng giải quyết các công việc do Từ Phúc yêu cầu.
Sau một thời gian ngắn chuẩn bị khẩn trương, việc đóng thuyền và tuyển mộ thiếu nam, thiếu nữ đã hoàn tất, và đoàn thuyền đã khởi hành mười ngày trước khi đài Lang Nha khánh thành. Nhà vua và các đại thần ra tận bờ biển để tiễn chân, trao chiếu thư và ban phát vàng bạc cháu báu cho Từ Phúc, cùng các phương sĩ đi theo phụ tá và thiếu nữ, thiếu nam, để khuyến khích họ yên tâm hăng hái lên đường. Trống trên thuyền nổi lên, tiếng tù và dồn dập, khói hương nghi ngút, cờ bay rợp trời, gió triều lướt nhẹ, đoàn thuyền xa dần, xa dần, rồi mất hút trong biển trời bao la.
Mấy ngày sau, nhà vua vui vẻ chủ trì lễ đặt bia và khánh thành đài Lang Nha. Sau đó nghỉ ngơi vài ngày rồi khởi hành trở về Hàm Dương. Vì xa Hàm Dương lâu ngày, nhà vua muốn đi con đường nào thật ngắn để về kinh đô, nên đi qua nước Sở cũ rồi theo hướng Tây, rồi vào đất Tần. Sở dĩ Tần Thủy Hoàng muốn đi con đường này là muốn thực hiện một ý đồ ấp ủ từ lâu. Đó là, khi ngài lên ngôi năm mười ba tuổi, đã tham gia lễ tế trời và cúng tiên tổ ở thái miếu. Sau đó “trọng phụ” Lã Bất Vi đưa ngài đi theo đức vua Tần Chiêu Vương đánh diệt Tây Chu và chở chín cái đỉnh đồng ở kinh đô Tây Chu là Vương Thành (nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam) về Hàm Dương (nay thuộc địa điểm cách thành phố Hàm Dương 20 km về phía Đông Bắc, tỉnh Thiểm Tây) Đó là chín chiếc đỉnh tượng trưng cho quyền lực quốc gia của họ. Nhưng Doanh Chính đếm đi đếm lại chỉ có tám chiếc, bèn hỏi Lã Bất Vi sao thiếu một chiếc. Lã Bất Vi đã giải thích rất dài dòng. Câu chuyện như sau:
Năm năm mươi mốt niên hiệu Chiêu Vương, vua Tần Chiêu Vương sai tướng quân Doanh Cầu và Trương Đường đưa quân đánh Tây Chu. Vua Tây Chu đầu hàng, dâng cho nhà Tần ba mươi sáu thành trì và ba vạn nhân khẩu. Năm sau, Chiêu Vương lại sai Doanh Cầu và Trương Đường đưa quân đến kinh đô Vương Thành của Tây Chu, và lấy chín chiếc đỉnh đưa về Tần. Nhưng khi chở về mới thấy chỉ có tám chiếc, còn một chiếc không biết ở đâu. Tần Chiêu Vương hỏi Doanh Cầu và Trương Đường, hai người này đều nói là sau khi phá hủy tông miếu nhà Chu, và trước khi chở chín chiếc đỉnh ấy về, thì thấy tám chiếc còn nguyên vẹn, chỉ có mót chiếc bị ướt đầm đìa, chiếc đỉnh này tượng trưng cho Duyên Châu là nơi đặt kinh đô Tây Chu. Hỏi các quan lại Tây Chu đã đầu hàng, họ nói rằng đó là nước mắt của các tiên vương thương tiếc những chiếc đỉnh đã bị lấy đi. Lúc đó thì mọi người cho rằng đó là chỉ là nói cho vui miệng nên chẳng ai để ý. Nào ngờ đêm hôm ấy trời nổi mưa gió, sấm chớp ầm ầm, mãi đến sáng hôm sau trời mới tạnh. Khi đưa người ra khuân đỉnh thì chỉ thấy có tám chiếc, chiếc Duyên Châu không cánh mà bay. Đi lục soát xung quanh cũng chẳng thấy dấu vết gì khả nghi. Bèn bắt mấy viên quan Tây Chu đã đầu hàng, tra hỏi chiếc đỉnh biến mất đi đâu, nhưng họ đều nói không hề hay biết, chỉ trả lời rằng có thể mời thầy bói. Thầy bói đưa ra một mảnh tre trong đó khắc chữ nói nguyên nhân và địa điểm của chiếc đỉnh bị mất. Các tướng của Tần không dám tin nhưng rồi buộc phải tin và đành chở tám chiếc đỉnh về vậy, và mang theo tấm tre bùa chú của thầy bói đưa về cho nhà vua xem để đoán định. Vua Chiêu Vương cầm lấy tấm bùa chú, tấm bùa được viết như sau:
Doanh Tần diệt Chu, khó quên thâm thù.
Hủy đền cướp đỉnh. Đau lòng lệ rơi!
Vũ vương[iv] hiện về, đưa đỉnh đi xa,
Đỉnh thần yên nghỉ, Tứ Thủy Bành Thành!
Vua Chiêu Vương xem xong, ngài rất nghi ngờ. Bởi vì vong linh vua Vũ Vương sao có thể mang chiếc đỉnh to lớn như thế đi đâu được? Và tại sao lại vứt xuống sông Tứ Thủy [v] ở Bành Thành, Từ Châu xa xôi như vậy chứ? Còn tướng Doanh Cầu và Trương Đường là công thần đã có công diệt nhà Chu, là trụ cột của đất nước, hết mực trung thành, trung thực thẳng thắn, không đời nào lại có chuyện phản Tần theo Chu. Vả lại giấu một chiếc đỉnh thì có ăn nhằm gì. Vì vậy vua Chiêu Vương chỉ khiển trách hai người này không làm tròn chức trách, chứ không trừng phạt. Việc mất đỉnh trở thành một vụ án cứ treo mãi trong lịch sử.
Doanh Chính nghe Lã thừa tướng nói vậy, bèn quyết tâm sau này sẽ tìm được chiếc đỉnh bị mất đó, để thực hiện hoài bão nhất thống chín châu, chín đỉnh vẹn toàn. Nay “chín châu” [vi] đã được thống nhất, nhưng chín đỉnh không vẹn toàn; cho nên nhân chuyến trở về này, Tần Thủy Hoàng muốn đi qua Bành Thành, để tìm cho được chiếc đỉnh dưới sông Tứ Thủy, mang về Hàm Dương.
Sau khi đến Bành Thành (nay là thành phố Từ Châu, tỉnh Giang Tô), Tần Thủy Hoàng trai giới [vii], tắm gội, thắp hương cầu khấn, viết văn cúng tế thần sông Tứ Thủy, cầu mong ngài phù hộ, để tìm ra chiếc đỉnh đâu đó trong lòng sông. Huyện lệnh huyện Bành Thành thực hiện ý chỉ của nhà vua, tuyển mộ một nghìn thủy thủ rất giỏi bơi lặn, để xuống sông lặn tìm chiếc đỉnh thứ chín. Một nghìn tay lặn này chia thành từng nhóm mười người một, lần lượt nhảy xuống sông, và lặn xuống tận đáy; mỗi nhóm một khúc sông. Trong khi đó, nhà vua và các đại thần ngồi trên đài cao quan sát, bốn phía đài có đội dũng sĩ bảo vệ. Hai bên bờ sông có hàng vạn dân chúng theo dõi việc thợ lặn tìm đỉnh. Mỗi khi có một người ngoi lên mặt nước, thì lập tức có tiếng hoan hô vang lên từ đài cao và trong đám dân chúng, nhưng rồi lại chẳng thấy gì, và tiếp theo là những tiếng thở dài. Cứ thế, hoan hô rồi lại thở dài, thở dài rồi lại hoan hô, biết bao hy vọng chờ mong cứ tan biến dần theo những vất vả mệt nhọc của thợ lặn. Dân chúng hai bên bờ sông chán nản bỏ về dần. Đội quân dũng sĩ cận vệ cũng mệt mỏi chán chường. Các đại thần và thị vệ thì vẫn tỏ ra chăm lo công việc của mình, nhưng trong thâm tâm thì rất miễn cưỡng, họ phụ họa theo lời nhà vua. Họ chờ cho đến người cuối cùng của nhóm thợ lặn cuối cùng ló đầu lên mặt nước, anh ta giơ hai tay lên cao và cúi lạy tạ tội với nhà vua. Những người thợ lặn đã làm việc từ sáng đến tối. Và nhà vua cũng đã trực tiếp quan sát công việc của họ, ngài thấy mọi người đều rất cố gắng, nếu có đỉnh dưới đáy sông chắc không ai chịu ngoi lên tay không, vì ai tìm được đỉnh sẽ được thưởng lớn. Rõ ràng là không còn hy vọng. Nhưng nếu phải chịu bó tay ra về thì vẫn rất khó chịu. May là Tả thừa tướng Ngỗi Trạng đề nghị: Thanh tre bùa chú nói về địa điểm của đỉnh là do một thầy bói viết ra. Vậy thì mời một thầy bói khác bói lại xem sao. Nhà vua suy nghĩ chốc lát rồi thấy không còn cách nào khác, đành phải đồng ý, và ngài bảo huyện lệnh Bành Thành mời một thầy bói khác.
Vị thầy bói đến và thấy nhà vua mặt buồn rười rượi, chắc là đang sốt ruột muốn tìm được đỉnh đây. Biết vậy, thầy bói này liền phủ phục xuống đất tâu rằng:
- Bần đạo vinh hạnh nhận được lệnh của thánh thượng hỏi về đại sự “chín đỉnh”, nhưng bần đạo phận mỏng sức hèn, phép thuật yếu kém, khó có thể lên tới thiên đình. Cho nên xin làm đại lễ cầu hồn, mượn cái uy của bệ hạ, và linh thiêng của thánh thắn mới có thể gọi được hồn thiêng của Chu Vũ Vương hiện về, chỉ rõ nơi yên nghỉ của đỉnh đồng. Nếu không, một người trần mắt thịt như bần đạo không thể làm nên cơm cháo gì được.
Nhà vua thấy ông thầy bói này cũng khá là khiêm tốn, lại cực lực ca ngợi ngài hết lời, đương nhiên là ngài rất vui, bèn thưởng cho ông ta hai mươi dật vàng. Đồng thời ngài ra lệnh lập đàn tế ngay tại đài cao, nơi ngài đang đứng, để theo dõi việc mò tìm đỉnh; đốt nến hương cháy nghi ngút, nổi trống thùng thùng và hiến “tam sinh” (bò dê lợn). Ông thầy bói để tóc xõa, tay trái bấm các đầu ngón tay để đọc thần chú, tay phải cầm kiếm, vừa đi vừa nhảy múa, miệng bôi đầy máu tươi của “tam sinh”, hoác mồm, lè lưỡi, lẩm bẩm những câu thần chú mà may ra chỉ có ma quỷ mới hiểu nổi. Sau khi nhà vua ba lần nâng cốc lên trời chúc rượu và đốt bài vái tế do Lý Tư viết để cầu xin Chu Vũ Vương hiện hồn. Khi bài văn tế đang cháy xèo xèo, tro và khói đang bốc lên cao thì thầy bói cất tiếng nói:
- Văn tế đã thăng thiên, Vũ Vương sắp giáng thế, bệ hạ chuẩn bị hỏi hồn ngài về chiếc đỉnh thất lạc nhất định sẽ được trả lời chính xác.
Nói xong, bỗng ông ta ngã nhào xuống đất, toàn thân run lên lẩy bẩy, hơi thở hổn hển, rồi nói:
- Ta là Chu Vũ Vương Cơ Phát dây! Kẻ nào ở hạ giới này lập đàn tế trời để mời quả nhân về đây có việc gì thế?
Các đại thần có mặt nghe nói Vũ Vương đã hiện hồn về, bèn vội đỡ thầy bói dậy dìu đến ghế ngồi ở chính giữa. Lúc này thầy bói không run rẩy nữa, chỉ nhắm nghiền mắt lại và chờ có ai hỏi gì không.
Nhà vua tuy tự coi là đấng tối cao và mục hạ vô nhân, không coi ai ra gì, nhưng lại rất tin quỷ thần, nhất là khi ngài đang lo lắng điều gì đó, ngài càng rất mềm lòng. Chẳng hạn khi tránh mưa dưới cây thông ở núi Thái Sơn, ngài sợ quá nên hoang đường đến mức phong cây thông làm quan “ngũ đại phu” vì “có công cứu giá”, bộc lộ tâm trạng “ngoài mạnh trong yếu”. Lần này không tìm được đỉnh, tâm lý thất bại lo lắng đang day dứt ngài. Nay thấy thầy bói đang tỏ ra rất giống thần linh hiện về nên cũng tin phần nào, nên ngài vội chắp hai tay hỏi Vũ Vương:
- Xin hỏi Vũ Vương bệ hạ, ba mươi năm trước, cụ nội của ta là Chiêu Vương sai người đến Vương Thành lấy chín chiếc đỉnh, nhưng đỉnh Duyên Châu không cánh mà bay, không hiểu ngài có biết việc này hay không?
Nhà vua vừa nói xong, Vũ Vương bèn đáp:
- Có việc ấy!
- Nhưng không biết ai làm việc đó? - Nhà vua hỏi.
- Đúng là quả nhân làm đấy thôi. Nhà ngươi đã biết rồi sao còn hỏi làm gì? - Vũ Vương nói rất thẳng thắn, không kiêng dè gì cả.
- Bệ hạ làm? Vậy sao không giấu ngay tại chỗ, mà đưa đến tận sông Tứ Thủy là tại sao? - Nhà vua hỏi tiếp.
“Vũ Vương” không trả lời thẳng vào câu hỏi, chỉ hỏi vặn lại:
- Nhà ngươi có biết mối quan hệ giữa âm và dương ngũ hành và các phương hướng (phương vi) hay không?
- Quả nhân cũng có hiểu ít nhiều. - Nhà vua nghĩ thầm rằng ngài đã học “Thuyết ngũ hành” của Châu Diên, sao lại không biết.
“Vũ Vương” khẽ gật đầu rồi nói:
- Vậy thì rất tốt, quả nhân sẽ trả lời đầy đủ cho nhà ngươi. - Nói xong đưa tay ra hiệu cho mọi người rồi nói tiếp - Mau đưa lụa và bút đến đây, ta sẽ viết nhoáng một cái là xong.
Triệu Cao và Lý Tư vội đưa bút và lụa đến, “Vũ Vương” cầm lấy hai thứ đó, chẳng cần nghĩ ngợi gì cả, đằng hắng một tiếng rồi cứ cầm bút viết liền một mạch, viết xong vứt bút rồi lẩm bẩm mấy tiếng:
- Quả nhân đi đây!
Nói xong, lại ngã vật xuống, chân tay co giật một lúc, rồi đứng thẳng dậy, trở lại nguyên hình thầy bói. Ông ta hỏi mọi người:
- Chẳng hay Vũ Vương viết gì vậy?
Triệu Cao vội đưa tấm lụa cho ông ta. ông ta lướt qua, không thấy có gì khả nghi, bèn đưa tay nâng lên đưa cho nhà vua, và nói:
- Xin bệ hạ xem những lời của Vũ Vương.
Tần Thủy Hoàng cầm lấy mảnh lụa có bài viết của Vũ Vương. Nội dung như sau:
Tổ ngươi ba mươi năm trước,
Dấy binh đánh diệt đất nước nhà Chu.
Phá tông miếu, cướp đỉnh đồng,
Lòng ta đau đớn, ròng ròng lệ rơi!
Đỉnh thần lại quay về trời,
Ta đem ném xuống ở nơi giữa dòng[viii]
Từ Châu là đất miền Đông,
Có cây đào “mộc” có công diệt tà[ix]
Tần phía Tây, “Kim” mới là
Lấy “Kim” khắc “Mộc”, gây ra chiến trường.
Đào phun lửa, hộ đỉnh thần
Biến kim nóng chảy thành than lụi tàn.
Đỉnh kia nhờ vía thánh nhân!
Nghìn người thợ lặn cũng là công không.
Mất rồi xin chớ nhọc lòng,
Hà tất phải ki ếm phải mong làm gì!
Bài viết lời giải ngắn gọn, thuộc thể thơ, đã trả lời đầy đủ mọi câu hỏi của Tần Thủy Hoàng. Bài giải đáp này của Vũ Vương dựa vào quan hệ giữa thuyết ngũ hành và phương hướng để khẳng định rằng nước Tần ở phía Tây không thuộc “thủy” như người Tần vẫn nói theo Châu Diên thuộc “Kim” (theo canh, tân, bậc thứ bảy và tám trong mười con). Cách giải đáp này, đương nhiên Tần Thủy Hoàng không chịu, vì ngài theo cách giải thích “ngũ hành” của Châu Di ên, nhưng xem ra chỉ có dựa theo lời giải thích của Vũ Vương thì mới có thể trả lời được cái nghi án đã treo suốt ba mươi năm nay về chiếc đỉnh đồng không cánh mà bay. Như vậy, không những có thể rút khỏi Tứ Thủy Từ Châu này một cách thể diện, mà còn có thể thông báo cho thiên hạ biết rằng ngài còn cầu được thần thánh giúp sức, làm cho Chu Vũ Vương, người đã về chầu giời cách đây tám trăm năm, còn hiện về để trả lời các câu hỏi của ngài để làm rõ vụ nghi án lịch sử trọng đại này. Qua đó đủ thấy ngài có uy lực to lớn biết bao, có tài thần thông biến hóa biết bao. Còn có ai sánh kịp ngài? Như vậy là từ xấu hổ trở thành vui mừng, từ thất vọng trở thành thỏa chí. Ngài bèn trọng thưởng cho huyện lệnh Bành Thành và thầy bói. Một nghìn thợ lặn “không có công lao nhưng có khổ lao”, nên cũng được cấp tiền bồi dưỡng chu đáo. Thật là một trò kịch nhưng cũng rất vui. Người biểu diễn hay nhất trong vở kịch này là ông thầy bói. Ông ta rất giỏi tùy cơ ứng biến, chú trọng làm những việc mà người khác ưa thích, giả vờ có cô hồn về nhập vào mình để lòe bịp, làm chiến tranh tâm lý và chiến thắng. Cách làm khác Từ Phúc nhưng mục đích thì giống nhau.
Chú thích:
[i] "Càn khôn": tên quẻ “càn" và quẻ "Khôn" trong sách Chu Dịch. Càn là sự phát sinh của vạn vật (nguồn gốc); Khôn là sự phát triển của vạn vật. Càn Khôn là vũ trụ, thế giới, trăng sao, nhật nguyệt, cha mẹ, nam nữ - ND.
[ii] "Sử kiềm thư tự thực điền": có thể đây là nguyên văn từ thời Tần Thủy Hoàng; còn tất cả những trình bày ở trên, đều là cách diễn đạt của tác giả cuốn sách, theo cách nói hiện nay - ND.
[iii] Phi tần: phi là vợ lẽ của vua; vợ chính của thái tử. Phi của vua thì rất nhiều, và có nhiều cấp bậc khác nhau. Phi của thái tử, chỉ có một người. Thái tử cũng có nhiều vợ lẽ, nhưng gọi bằng tên khác "tần" cũng là vợ vua, hoặc là các phụ nữ giữ các chức vụ nào đó trong cung vua - ND.
[iv] Vũ Vương là vua đầu tiên, diệt nhà Thương sáng lập nhà Tây Chu. Tính đến khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi, nhà Chu đã tồn tại hơn 800 năm - ND.
[v] Chữ thủy ở đây có nghĩa là sinh sống. Tứ Thủy là sông Tứ hay gọi là sông Tứ Thủy cũng được, tuy có lặp lại chữ sông - ND.
[vi] Chín châu: truyền thuyết nói rằng từ thời thượng cổ nước Trung Quốc có 9 châu: Ký, Đoái, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Ngày nay nói "chín châu” có nghĩa là Trung Quốc - ND.
[vii] Trai giới: hạn chế việc ăn uống và tình dục.
[viii] Trong nguyên văn nói rõ là "giữa dòng” sông Tứ Thủy - ND.
[ix] Cây đào thuộc về "Mộc". Theo thuyết "Ngũ Hành" (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), mộc bị kim diệt. Nhà Chu ở phía Đông, có cây đào "mộc" nhưng đây là cây đào thần, trừ được tà ma, nên sau đã phun lửa vào "kim" (kim là nhà Tần, Tần ở phía tây nên thuộc "Kim"). "Kim" bị chảy thành than và đỉnh được bảo vệ vĩnh viễn - ND.