← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI TÁM ĐỐT NÚI TƯƠNG SƠN, GẶP NẠN LANG SA-ĐÀO HỒ LAN TRÌ, THẦN BIỂN GIEO HỌA-------

Việc tìm đỉnh đồng ở Tứ Thủy bất thành, đã bộc lộ nhược điểm ghê gớm của Tần Thủy Hoàng trong việc đam mê chuyên chính, thích bợ đỡ, cậy thế khoe khoang công lao và xử thế tàn bạo. Việc huy động hàng nghìn thợ lặn và tiêu tốn tiền bạc của dân để ném vào một cuộc tìm kiếm hoang đường ở sông Tứ Thủy, kết cục để lại một trò cười cho thiên hạ, mất hết thanh danh. May mà nhờ ông thầy bói nhanh trí, mượn uy quỷ thần, đổ trách nhiệm cho ông tổ nhà Chu là Chu Vũ Vương, mới vớt vát được phần nào thể diện, để “thu dọn chiến trường” và rút êm về Hàm Dương. Lúc đó, bản thân Tần Thủy Hoàng cũng phần nào tự thấy mình hơi nôn nóng, lại cạn nghĩ, nên vội bày ra trò ồn ào náo động trước mắt bàn dân thiên hạ, gây ra hậu quả nực cười. Từ nay, phải cẩn trọng hơn. Nhưng khi về phòng riêng, các phi tần và cung nữ lại vẫn khép nép, ngoan ngoãn vâng lời ngài; các đại thần vẫn nịnh hót, bợ đỡ hết lời như không có bất cứ chuyện gì vừa xảy ra; cho nên, ngài vẫn ngựa theo đường cũ, vẫn hiện nguyên hình, độc tài độc đoán, ngang ngược tung hoành.

Vì vậy, để xua bớt tâm trạng buồn chán do không tìm được đỉnh, nên sau khi rời Bành Thành, ngài đi về phía Nam, qua sông Hoài, vào đất Sở cũ, để thăm phong cảnh núi Hoàng Sơn (thuộc tỉnh Hồ Nam hiện nay). Ở miền Nam này có rất nhiều danh lam thắng cảnh, sông núi hài hòa, cây rừng xanh tốt, tùng bách vươn cao, hoa đào đùa rỡn, với người du khách, cho lòng thỏa thích, thoải mái tâm tình. Đoàn xa giá đi qua Thiên Nam Môn, leo lên ngọn Cẩu Lũ, một trong những đỉnh cao nhất của núi Hoàng Sơn, rồi đến Đài Minh Kính (chỗ có vách đá có thể soi bóng như kính), cuối cùng leo lên ngọn Chúc Dung, được coi là ngọn núi hiểm trở và kỳ vĩ nhất.

Nhà vua đứng trên đỉnh ngọn, gió mát rười rượi, ngài phóng tầm mắt nhìn xuống một vùng nông thôn rộng lớn, những làn khói mỏng manh bay lên từ mái nhà làng quê. Cảnh trí điền viên thật tuyệt vời. Nhất là ở cách chân núi không xa, có một dòng sông vắt ngang như một dải lụa ngoằn ngoèo chạy từ Nam lên Bắc; nước suối phản chiếu ánh mặt trời lung linh như ánh bạc. Đấy là sông Tương Giang. Nhìn dòng sông Tương Giang, nhà vua lại nhớ Trác Lục trước đây đi chinh phục miền Tây Nam, bình định người Man Di, đã đào con sông ở quận Quế Lâm, khơi thông sông ngòi ở khu vực Tây Nam rộng lớn, thúc đẩy giao thông đường thủy và kinh tế vùng này phát triển. Còn Tương Giang là dòng sông khá rộng, nước sâu và chảy xiết, đang ngày đêm không ngớt đổ về Động Đình Hồ. Những làn gió nhẹ đang lướt qua trước mắt ngài, đều mang theo hơi ướt của Tương Giang và sông hồ ở miền Tây Nam, để men theo triền núi Nam Nhạc, thổi ra núi Nhạc Ly - phần đuôi của Nam Nhạc, rồi mất hút. Nhà vua cảm thấy tự hào vì đã mang ân trạch ban phát đến tận nơi xa xôi này. Vì vậy, sau khi xuống núi, đoàn xa giá của ngài - xin nhắc lại, gồm hàng vạn người đi xe ngựa và bộ binh, kỵ binh - đi đến Trường Sa (nay là thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam).

Nhà vua muốn đến xem cái quận huyện mới thành lập ở đây. Thái thú quận Trường Sa đi theo đoàn để hướng dẫn lên núi Nhạc Ly Sơn. Đứng trên Nhạc Ly Sơn có thể ngắm nhìn cảnh đẹp mùa thu của sông Tương Giang. Mặc dù không được báo trước, thái thú Trường Sa không kịp chuẩn bị nơi nghỉ cho nhà vua, nhưng ông ta vẫn hết sức mời ngài và đoàn xa giá ở lại nghỉ ngơi vãn cảnh vài ngày; và nói rằng sẽ lập tức sửa soạn nơi ăn chốn nghỉ cho đoàn. Vả lại nếu nhà vua và đoàn xa giá của ngài ở lại, thì thái thú có dịp để bày tỏ lòng trung vua kính chủ của mình; qua đó được đánh giá cao, có lợi cho con đường công danh. Nhưng nhà vua đang lúc cao hứng du ngoạn, nên không ở lại, ngài chỉ sai Vương Quản và Ngỗi Trạng ghi lại những công việc chu đáo vừa qua của thái thú, và ngài đích thân trọng thưởng cho ông ta. Sáng hôm sau, sau hai b ữa tiệc rượu với các món ăn miền Nam rất thịnh soạn, đoàn xa giá lại gấp gáp lên đường, đi nhanh đến Động Đình Hồ.

Trước đó, khi đến đất nước Sở cũ, “trung xa phủ lệnh” Triệu Cao đã sai người đến báo cho thái thú Nam Quận và huyện lệnh Vân Mộng, bảo họ điều động hơn một nghìn chiếc thuyền để đoàn xa giá sử dụng. Khi đoàn người xe ngựa rầm rập kéo đến bên bờ Động Đình Hồ, thái thú và huyện lệnh cùng các quan lại địa phương ùa ra cung kính đón chào nhà vua, vén rèm che và chỉ tay về phía mặt hồ. Nhà vua ngước mắt nhìn ra mặt hồ, thấy hàng nghìn chiếc thuyền đang đậu san sát bên nhau như một mảng vây cá khổng lồ. Cột buồm dựng đứng trên thuyền nườm nượp như một rừng cây, trông rất hùng vĩ đẹp mắt. Nhà vua rất vui và luôn mồm khen thái thú và huyện lệnh. Ngài còn hỏi ở đây còn có thắng cảnh núi non sông ngòi nào nữa không. Viên thái thú lễ phép tâu rằng ở đây là nơi sông Tương Giang chảy vào hồ, cách đây khoảng ba mươi dặm là núi Tương Sơn, còn gọi là Thanh Thảo Sơn. Khung cảnh ở đó tuyệt đẹp trên có đền Tương Kỷ, là một di tích cổ rất nổi tiếng, nên đến thăm quan. Nhà vua nghe vậy bèn quyết định sáng hôm sau sẽ đi thuyền du ngoạn trong hồ, rồi lên núi Tương Sơn. Các “học sĩ” đi theo đoàn đề nghị, nên làm lễ “tế sông” trước, cầu xin “thần sông” phù hộ cho sóng yên gió lặng, để ngày mai đi thuyền được an toàn. Đó là do bài học ở Thái Sơn, khi làm lễ “phong thiền” ở đó đã chặt cây cối, đào đất đá làm đường, trước khi làm những việc đó, lại không làm lễ tế thần nên bị gió mưa quật cho tơi tả. Vì vậy, lần này nhà vua sai Lý Tư viết bài văn “tế sông”, bản thân ngài “trai giới” và tắm gội sạch sẽ, sau đó đưa mấy vị cận thần ra tận bờ hồ làm lễ: đốt hương, dâng rượu và tam sinh (bò dê lợn) rồi đốt văn tế và cúng vái. Sau đó về nơi nghỉ đêm.

Sáng sớm hôm sau, sau khi vội vàng ăn sáng, vua tôi và phi tần lần lượt lên thuyền nhổ neo và xoay cột buồm chèo thuyền ra phía giữa hồ nước mênh mông. Thuyền nào cũng có nhiều người bơi chèo phía trước và người cầm lái phía sau, nước cứ bắn tung lên ở hai bên mạn thuyền. Hàng nghìn cánh buồm căng gió đưa thuyền lướt rất nhanh như mũi tên bay. Từng đoàn chim hải âu cứ bay lượn trên đỉnh cột buồm, tưởng chừng như chúng là bầy chim thần đang dẫn đoàn thuyền đến một chốn nào đó thần bí, huyền diệu lắm.

Đoàn thuyền cứ thế lướt sóng không ngừng tiến lên về phía trước. Bỗng một cơn gió mạnh từ phía Bắc thổi đến ào ào, hoàn toàn ngược chiều với hướng thuyền đang đi, thuyền đi chậm lại. Nhưng gió ngày càng mạnh. Các thủy thủ cố gắng vật lộn với gió bão, vất vả lắm mới cho thuyền nhúc nhích dần dần. Nhưng cuối cùng thì gió lật chìm một số thuyền, hơn một trăm phi tần và tướng sĩ bất hạnh chết chìm. Nhà vua ngồi trên chiếc thuyền lớn nhất, vừa rộng vừa dài, đáy thuyền bằng phẳng, nhưng vẫn trùng triềng chao đảo trước cơn bão đang tung hoành. Nhà vua lại không biết bơi nên ngài rất lo. Ngài hoang mang đến nỗi không còn biết đến tôn nghiêm và thể diện là gì, vội vàng chạy đến quỳ xuống và ôm chặt lấy hai chân người cầm lái, nhắm nghiền hai mắt, toàn thân run cầm cập. May mà người cầm lái cũng như thủy thủ trên thuyền này đều rất giỏi tay nghề và can đảm. Họ nhìn đúng hướng gió, xoay cánh buồm để gió thổi về một phía, tuy hơi lệch nhưng vẫn đủ sức đẩy thuyền đi lên. Như vậy, thuyền vẫn tiến theo hướng hơi chệch với hướng gió và khoảng một canh rưỡi giờ sau (tức là hơn 4 giờ hiện nay), đoàn thuyền đến núi Tương Sơn. Nhà vua được Lý Tư và Triệu Cao dìu hai bên đưa lên bờ. Vừa bước lên đất liền, đã vội tìm một chỗ ngồi nghỉ hồi lâu rồi mới từ từ bước lên sườn núi để lên đỉnh Tương Sơn. Lúc ấy gió đã nhẹ bớt rất nhiều, nhưng lại làm cho nhà vua sinh nghi. Ngài quay lại hỏi viên “học sĩ” cùng đi:

- Tối hôm trước là tế vị thần sông nào?

Học sĩ đáp:

- Thần sông ở đây gọi là Tương Quân và Tương Phu Nhân. Hai vị thần này ở đây đã lâu.

Nhà vua chau mày nói:

- Tương Quân và Tương Phu Nhân? Hình như trẫm đã có nghe nói, nhưng không biết các vị thần này như thế nào?

- Đó là hai người con gái của vua Nghiêu, người con đầu tiên là Nga Hoàng, người thứ hai là Nữ Anh. Vua Nghiêu thấy Thuấn có hiền đức nên truyền ngôi cho Thuấn, và gả hai người con gái cho Thuấn. Về sau vua Thuấn đi kinh lý miền biên cương miền Nam đất Sở và chết ở cánh đồng Thương Ngô, tên hiệu là Trọng Hoa. Hai người vợ nghe tin vua Thuấn chết, đã khóc lóc thảm thiết, nước mắt rơi đầm đìa trong đám trúc tre, làm cho đám trúc tre này biến thành lốm đốm nhiều màu. Sau đó, hai người nhảy xuống Tương Giang chết theo nhà vua; rồi được tôn vinh là Tương Quân và Tương Phu Nhân.

Viên “học sĩ” may mà được nhà vua hỏi đến nên nói một lèo về lai lịch của thần sông Tương Giang. Lẽ ra thì như thế là xong, nhưng vẫn tiếc rẻ nên lại nói thêm:

- Câu chuyện này ở trong sách “Sở Từ. Cửu Ca” của đại phu nước Sở là Khuất Nguyên, chắc là bệ hạ đã đọc rồi.

- Đọc rồi! Đọc rồi! Quả nhân mỗi ngày phải lo trăm công nghìn việc, sao mà nhở hết được những chuyện cổ tích trong dân gian như vậy?

Nhà vua cảm thấy người học sĩ nọ vô tình hay hữu ý nói khích bác ngài nên rất bực mình, ngài trả lời xẵng giọng. Ngài nghĩ lại rằng chính ông “học sĩ” này hôm trước đã nêu lên việc tế thần sông, nếu không thì hai vị nữ thần kia không biết trước có ngài qua sông ra hồ du ngoạn; và có lẽ sẽ không có trận gió bão nổi lên nửa chừng làm cho ngài phải hốt hoảng cuống cuồng lên như vậy. Ngài đinh ninh rằng trận cuồng phong hôm nay là do hai vị nữ thân kia gây ra để cản đường ngài. Ngài càng suy nghĩ càng tức anh ách, ngài quên hết tất cả những gì mà đêm hôm ở Bành Thành ngài đã suy nghĩ rất nhiều và đã quyết tâm sửa đổi tính nết, bớt kiêu bớt nóng, bình tĩnh ôn tồn, nén lòng kiên nhẫn. Ngài nổi giận lôi đình chửi bới rằng:

- Ở núi Thái Sơn, vì chặt hết cây cỏ, đào bới đất đá, nên bị gió lớn mưa to. Các vị thần mà địa giới ấy tôn thờ, cũng như những lời răn đe của các vị ấy, trẫm đều chấp nhận cả. Việc mất chiếc đỉnh ở sông Tứ Thủy là việc làm của Chu Vũ Vương, là một bậc thân vương từ thời cổ, trẫm cũng chẳng oán trách làm gì Còn ở đây, Nga Hoàng và Nữ Anh là đàn bà, lại đã được ta cúng tế, tại sao không để cho gió lặng sóng yên để đón thánh giá của trẫm, mà lại nổi cuồng phong lên để nhấn chìm phi tần và tướng sĩ của ta, còn làm cho trẫm mất hồn bạt vía, thật là tội ác tày trời!

Nói xong bèn quay lại ra lệnh cho thái thú Nam Quận và huyện lệnh Vân Mộng:

- Lập tức đưa ba nghìn phạm nhân đến chặt hết cây cỏ trên núi Tương Sơn, cho bật gốc lòi đất đỏ ra!

Lúc bấy giờ nhà Tần thi hành pháp luật rất nghiêm, số người bị tù tội rất đông, cho nên ba nghìn phạm nhân được đưa đến rất nhanh chóng, chặt cây cỏ trên núi Tương Sơn trong một khoảng rộng hai mươi dặm vuông, chẳng sót một cây nào, mặt đất cũng đào bới lên cho tróc hết rễ. Nhà vua còn ra lệnh đốt cháy cây cỏ vừa chặt, thiêu trụi cả những cây cổ thụ cao chót vót ở quanh đó, đất đá bị đốt nóng, nứt nẻ ra và biến thành màu đỏ gạch. Nhà vua còn đến tận đền Tương Sơn ra lệnh cho tướng sĩ phá hủy đền thờ, ném cả tượng Tương Quân và Tương Phu Nhân vào đống lửa. Lửa cháy ngùn ngụt ba ngày ba đêm, chiếu đỏ rực cả bầu trời. Nước Động Đình Hồ và sông Tương Giang ánh lên màu đỏ tươi như máu. Thật khủng khiếp!

Tần Thủy Hoàng vô cớ nổi giận lôi đình, tàn hại tất cả những gì của đất trời ở núi Tương Giang, rồi từ Nam Quận đi qua Vũ Quan trở về Hàm Dương.

Cuộc đại tuần du kéo dài tám tháng của Tần Thủy Hoàng kết thúc. Mặc dù chuyến đi này xảy ra một việc chẳng vui vẻ gì, nhưng nhìn chung đây là một chuyến đi rất đáng hài lòng. Trước hết, những nơi chủ yếu đều có dựng bia khắc chữ hết lời ca ngợi công đức của nhà vua. Nội dung các bài văn bia đều tuyên truyền và đề cao các chế độ và chính sách mới của Tần Thủy Hoàng cũng như kết quả việc thực hiện những chính sách và luật pháp mới đó. Qua chuyến đi, nhà vua cũng tận mắt nhìn những thành quả của các quận huyện mới được thành lập theo chủ trương của ngài. Ngoài ra còn thấy rõ những hiện tượng rất đáng mừng do việc di chuyển hàng chục vạn hộ giàu, tách họ ra khỏi nơi mà họ bóc lột dân đầu đen bằng ruộng đất của triều đình ban cho họ. Việc thực hiện chính sách dân đầu đen tự sở hữu ruộng đất của mình cũng đem lại kết quả tương tự. Hai chủ trương vừa kể (di chuyển hộ giàu và dân dầu đen có quyền sở hữu ruộng đất), đã làm cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển.

Những điều mắt thấy tai nghe ấy không bao giờ có thể thu hoạch được, nếu chỉ ngồi ở triều đình hoặc trong nội cung. Đặc biệt, việc đi thăm quan các danh lam thắng cảnh cũng tạo điều kiện để tiếp xúc với tự nhiên rộng lớn, mở rộng tầm mắt, khơi thông nhiều mối quan hệ. Vì vậy, nhà vua vẫn rất vui vẻ, và chỉ nghỉ ngơi ba tháng ở Hàm Dương rồi mở đầu cuộc tuần du lớn thứ hai.

Đó là mùa xuân năm hai mươi chín niên hiệu Tần Thủy Hoàng. Năm ấy, nhà vua bốn mươi hai tuổi. Chuyến tuần du này xuất phát từ Hàm Cốc Quan, đi qua quận D ĩnh Xuyên thuộc nước Hàn cũ, rồi đến huyện Dương Vũ thuộc đất Tề cũ. Vùng này phần lớn là cao nguyên đất đỏ, địa thế bằng phẳng, tầm nhìn rộng lớn. Lại đang mùa cây cỏ đâm chồi nẩy lộc đón xuân, liễu rủ xanh rờn, hoa đào hé nụ, yến đang làm tổ, vịt chạy từng đàn. Vì vậy đoàn thánh giá vua tôi đi đến đâu cũng đều gặp những cảnh đẹp ngày xuân, đem lại cảm giác sảng khoái và ấm áp của hương vị xuân sang. Nhưng khi đi qua huyện Dương Vũ (nay là phía Đông Nam huyện Nguyên Dương tỉnh Hà Nam) rồi đi về phía Đông khoảng ba mươi dặm nữa, thì gặp một thung lũng hai bên là đồi núi trùng điệp, cây gai góc mọc rậm rạp um tùm, lại còn cả một rừng lau sậy bạt ngàn, những tấm thảm rêu xanh ẩm ướt trơn nhầy, hoặc những hang động ngoằn ngoèo tối tăm mù mịt, tạo cho con người cảm giác thần bí hiểm trở huyền ảo. Giữa hai sườn núi là một khoảng trống không rộng lắm, trải đầy cát vàng, không hề có một gốc cây ngọn cỏ, chỉ có một con đường cho xe chạy (trì đạo), chạy từ Tần đến nước Tề và Lỗ. Đất ở đây cằn cỗi nên không thể trồng trọt. Hai bên đường không có thôn xóm dân cư, người đi lại cũng rất hãn hữu, chỉ có tiếng chim ri kêu chiêm chiếp rền rĩ và tiếng gầm rú của cáo và sói. Hai thứ tiếng của chim muông thú rừng nhưng hoàn toàn không ăn nhịp với nhau. Ngoài ra, chẳng có một động tĩnh gì khác.

Khoảng giờ Thân chiều hôm ấy, đoàn xa giá của nhà vua từ Dương Vũ rầm rộ đi vòng vèo mãi rồi đến thẳng thung lũng. Nhà vua ngồi trên xe sáu ngựa, thỉnh thoảng vén màn rèm xe nhìn ra ngoài, ngắm cảnh núi non hai bên và hướng đi của đường xe chạy (trì đạo). Mấy hôm nay, ngài luôn đi qua những bình nguyên mênh mông bát ngát, tầm mắt luôn luôn nhìn xa tận chân trời, nhưng nhìn mãi rồi cũng thấy đơn điệu, chán ngắt, chẳng hứng thú gì nữa. Hôm nay đi vào một vùng đồi núi nhấp nhô, tuy tầm mắt bị thu hẹp lại, nhưng hai bên lại có cỏ cây hoa lá xum xuê, đủ màu sắc của rừng cây tươi tốt, rất đáng để hưởng ngoạn. Ngài bèn bảo Triệu Cao cho xe chạy từ từ, để có thể ngắm nhìn thật kỹ phong cảnh hai bên. Sau khi xe chạy chậm lại, ngài dần dần phát hiện ra rằng ở đây có chỗ vách núi cao vút lên rất cheo leo hiểm trở, cây tùng cổ thụ mọc uốn khúc, cây rừng rậm rạp, mỏm đá gồ ghề trùng điệp, có vẻ quen quen, hình như đã nhìn thấy cảnh này ở đâu rồi thì phải. Ngài cố vắt óc nhớ lại, xem thử đã di lại đoạn đường này vào lúc nào? Sau một hồi lâu hồi tưởng, ngài bỗng nhớ ra rằng khi ngài ba mươi tuổi, quốc úy Úy Liêu từng đưa ngài đi qua đây để đến Dương Địch, kinh đô nước Hàn, nhận đầu hàng của vua Hàn Vương An, sau khi Nội Sử Đằng tấn công tiêu diệt nước Hàn. Khi đó, Úy Liêu là người phụ trách quân sự của triều đình. Úy Liêu nói với ngài rằng địa hình địa thế chỗ này rất kín đáo và hiểm trở, là vị trí tốt nhất để đánh trả quân địch. Mười một năm trước đó, tức năm thứ sáu niên hiệu Tần Thủy Hoàng, liên quân hợp tung năm nước Hàn, Ngụy, Triệu, Vệ, Sở tấn công nước Tần, quân Tần đã đón đánh chính diện và đẩy lui liên quân. Sau đó đưa quân mai phục ở hai sườn núi chỗ này. Liên quân rút lui, lọt vào ổ mai phục và bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân Tần đại thắng. Quốc úy Úy Liêu là người vạch kế hoạch và chỉ huy chiến dịch thắng lợi này. Ông ta nhớ rất kỹ mọi chi tiết của chiến dịch, như địa điểm, quá trình, địa hình, địa thế, cho nên khi giới thiệu với nhà vua, ông cũng nói rất cụ thể, sinh động, tạo cho nhà vua ấn tượng rất sâu sắc, khiến ngài cứ nhớ mãi. Vì vậy, khi đi qua nơi này, ngài nhìn thoáng qua là cảm thấy quen quen, mặc dù sau đó phải nghĩ lại khá lâu mới khẳng định được đây là nơi đã diễn ra trận chiến thắng to lớn năm nào. Lúc này, ngài bỗng nhớ đến quốc úy Úy Liêu, ông đã mất cách đây hai năm. Ngài vẫn còn ấn tượng rất tốt và cảm phục Úy Liêu, con người có tầm mắt siêu xa, rất thông minh, kiên định và bình tĩnh. Nhờ tài trí đó của Úy Liêu mới tìm được nơi hiểm yếu này để mai phục và diệt gọn hàng chục vạn quân địch. Nhìn lại tất cả các trận đánh từ trước đến nay diễn ra ở đây, không có đội quân nào dù tinh nhuệ đến đâu, khi đã lọt vào ổ mai phục ở hai sườn núi này thì đều tiến thoái lưỡng nan và cuối cùng đều thất bại thảm hại. Nay chiến tranh đã qua khá lâu rồi, nhưng thế lực tàn dư của sáu nước biết đâu vẫn còn lẩn quất đâu đây, vẫn còn lợi dụng địa thế hiểm trở nơi này để tác oai tác quái. Nghĩ vậy nhà vua bảo Triệu Cao cho xe chạy nhanh lên và hết sức canh phòng cảnh giác.

Quả nhiên không sai, lúc xe vừa tăng tốc thì có hai tên thích khách xuất hiện. Đó là Trương Lương và trợ thủ của ông ta là đại lực sĩ Đông Hải.

Trương Lương xuất thân là quý tộc nước Hàn, ông nội là Trương Khai Địa, từng là thừa tướng cho các đời vua nước Hàn: Thiệu Hầu, Tuyên Huệ Vương và Tương Ai Vương. Cha là Trương Bình làm thừa tướng cho vua Tương Ly Vương và Điệu Huệ Vương. Trương Bình bị bệnh chết năm hai ba niên hiệu Điệu Tương Vương. Hai mươi năm sau đó, Tần diệt Hàn. Lúc ấy Trương Lương còn rất trẻ, chưa giữ chức vụ gì ở triều đình nước Hàn. Trương Lương có dáng người thanh nhã tuấn tú, duyên dáng như con gái, nhưng kiến thức sâu rộng, rất có chí hướng, từng ra sức ủng hộ Hàn Phi; đề nghị nhà vua Vương An chiêu hiền đãi sĩ, để tự lực tự cường nhưng bị Vương An không chấp nhận. Sau khi Hàn Phi bị hãm hại ở nhà tù Vân Dương nước Tần, Trương Lương đoán trước rằng nước Hàn thế nào cũng bị thôn tính. Vì vậy, khi kinh đô Dương Địch bị quân Tần đánh chiếm, vua Vương An đầu hàng, Trương Lương bèn bán hết gia sản và mang theo số tiền lớn bỏ trốn, giấu mình nhiều năm trong dân gian. Trương Lương bỏ nhiều tiền để nhờ các dũng sĩ nghĩa hiệp ám sát Tần Thủy Hoàng, trả thù nhà nợ nước.

Lúc còn nhỏ, một hôm Trương Lương gặp một cụ già mặc quần áo vải thô. Khi đi đến trước mặt Trương Lương, cụ già cố ý đánh rơi đôi giày đang đi và nói với Trương Lương:

- Này cháu, nhặt giúp ông đôi giày.

Trương Lương ngạc nhiên, đang định ra tay quật cho ông ta một cú điếng người, nhưng thấy ông ta đã già rồi nên phải nhịn và đến cúi xuống nhặt giày đưa cho ông ta. Cụ già liền nói:

- Giúp ông đưa giày vào chân!

Trương Lương đã nhặt giày, cũng đành phải quỳ xuống giúp ông ta đi giày. Ông già duỗi chân để Trương Lương đưa giày vào chân, rồi vừa đi vừa cười. Trương Lương cảm thấy lạ lùng bèn theo sau ông già để theo dõi. Ông già đi một lúc rồi quay lại nói với Trương Lương:

- Chú bé này nếu được giáo dục tốt thì sẽ thành tài đây. Sáng sớm năm hôm sau, chú lại đến đây gặp lão nhé.

Trương Lương rất kinh ngạc, bèn quỳ xuống đáp:

- Xin vâng.

Sáng sớm năm hôm sau, Trương Lương đến đúng hẹn, nhưng ông già đã đến đó từ trước. Lúc thấy Trương Lương, ông già ôn tồn nói rằng đã hẹn rồi sao lại đến muộn. Rồi quay người đi còn dặn lại rằng năm ngày sau đến sớm một chút.

Năm hôm sau, Trương Lương nghe gà gáy là dậy đi, nhưng ông già vẫn đến sớm hơn. Cụ nổi nóng nói rằng Trương Lương vẫn đến muộn. Nhưng lại dặn năm hôm nữa đến sớm hơn. Lại năm hôm nữa, nửa đêm Trương Lương đã lên đường đến chỗ hẹn. Đến nơi, chờ một lúc cụ già mới đến. Thấy Trương Lương đến trước, cụ rất mừng. Cụ nói:

- Muốn làm nên sự nghiệp, phải kiên nhẫn như thế.- Sau đó đưa cho Trương Lương một cuốn sách viết trên các thanh tre. Cụ dặn:

- Đọc và hiểu cuốn sách này thì có thể làm thầy học cho nhà vua đấy. Sau đó mười năm, nhà vua ấy sẽ cầm quân làm nên sự nghiệp. Mười ba năm sau đó, cậu đến dưới chân núi Cốc Thành ở Tế Bắc sẽ gặp một ông già tên là Hoàng Thạch, đó chính là lão phu đấy!

Nói xong đi luôn, không dặn dò gì thêm nữa, và sau cũng biệt tăm. Sau đó, Trương Lương giở sách ra đọc, đó chính là cuốn “Thái Công binh pháp” (sách của Hoàng Thạch). Trương Lương biết rằng đây là cuốn sách rất kỳ lạ nên chăm chú đọc, cuối cùng đã trở thành “công thần khai quốc” có công phò tá Hán Cao Tổ (tức Lưu Bang, 247-195 trước Công nguyên. Người sáng lập nhà Hán - ND) làm nên sự nghiệp đế vương.

Nhưng lúc này, việc trước mắt của Trương Lương là tìm cách giết cho được Tần Thủy Hoàng. Trước đó, khi còn theo học ở Noài Dương, Trương Lương có quen một người tên là Thương Hải Quân, có tinh thẩn nghĩa hiệp (làm những việc chính nghĩa, hào hiệp). Trương Lương kết bạn với Thương Hải Quân, và nói rõ cho Thương biết ý đồ giết Tần Thủy Hoàng. Thương giới thiệu cho Lương một đại hiệp sĩ. Trương lại bàn chuyện ám sát Tần Thủy Hoàng với đại lực sĩ. Đại lực sĩ rèn một cái chùy 120 cân, có thể ở xa phóng vào người, vì cho rằng không thể tiếp cận Tần Thủy Hoàng, một người luôn có canh phòng rất cẩn mật. Hai người (Trương Lương và đại lực sĩ) thường xuyên thăm dò tình hình đi lại của vua Tần và biết được ông ta sẽ đi ngang qua Bác Lang Sa này. Hai người mai phục ở một vị trí kín đáo nhất trên sườn núi và chờ đợi.

Đoàn xe Tần Thủy Hoàng đã đến và đang đi qua mặt hai người. Nhưng bỗng họ rất do dự, vì xe sáu ngựa của Tần Thủy Hoàng lại có sáu xe. Sáu xe hoàn toàn giống nhau về kiểu dáng, màu sắc, cờ, và trang trí. Hai người không biết Tần Thủy Hoàng đang ngồi ở xe nào, nên rất lúng túng. Đúng lúc ấy, Tần Thủy Hoàng ra lệnh cho xe chạy nhanh, hai người càng sốt ruột, bèn ném chùy vào chiếc xe đi đầu tiên. Đại lực sĩ quả có con mắt rất tinh, sức khỏe phi thường, nên quả chùy rơi trúng xe kêu rầm một tiếng rồi toàn xe gẫy tan. Cái xe sau đột ngột dừng lại, ùn tắc một chỗ, ngựa hý, người kêu, rất hỗn độn. Tiếp đó là kỵ binh, bộ binh dồn dập sục sạo trên vách núi. Hai người đã chuẩn bị từ trước, nên khi thấy chùy trúng mục tiêu, đã chạy thoát theo một con đường mòn nhắm sẵn từ trước.

Đáng tiếc là chiếc xe tan tành ấy không chở Tần Thủy Hoàng mà là một quan tùy tòng. Đương nhiên người này cũng chết phòi óc máu chảy lênh láng, còn Tần Thủy Hoàng thì bình yên vô sự, mặc dù ngài có bị ngã một cú rất đau vì xe ngài đi sát sau xe trúng chùy. Nhưng cú ngã đó khiến ngài tức điên người nên thét ầm lên như con sói gầm, ra lệnh cho đội quân dũng sĩ sục sạo sườn núi để bắt cho được thích khách. Nhưng lúc ấy Trương Lương và trợ thủ của mình đã cao chạy xa bay rồi. Họ đã kịp chạy đến nhà một người bạn có tên là Hạng Bá.

Không tìm được thích khách, đương nhiên là Tần Thủy Hoàng càng tức giận hơn, ngài bèn ra lệnh “lục soát trong cả nước trong mười ngày”. Vẫn không tìm ra. Ngài đành chịu, và thôi không truy cứu nữa, cho qua xong chuyện, thật là đầu voi đuôi chuột.

Lúc ấy Trương Lương trốn ở Hạ Phi (nay là Tây Nam huyện Phi, tỉnh Giang Tô), giấu kín họ tên nên cuối cùng cũng không bị phát giác. Còn vị lực sĩ kia thì trốn ra bờ biển Đông, làm thuê cho một nhà làm muối, suốt ngày đốt lò chưng nước biển, hơi nước bốc lên ngùn ngụt, luôn luôn không nhìn thấy rõ mặt người. Quân của quận huyện nhận lệnh của triều đình, kéo đi lục soát khắp nơi. Khi đến lò chưng nước biển lấy muối thì bỏ đi vì hơi nước nồng nặc, rất khó chịu, làm cho đại lực sĩ cứ cười sặc sụa mãi. Sau này, đại lực sĩ lại gặp Trương Lương và tham gia đội quân của Lưu Bang, thường xung phong giết địch, lập nhiều chiến công, sau chẳng may trúng tên chết khi phá vây ở Huỳnh Dương. Lúc ấy Lưu Bang đang thua, chỉ lo chạy thoát thân, toàn bộ tài liệu sách vở mất hết. Sau khi nhà Hán được thành lập, Hán Cao Tổ thường hát bài “Đại phong ca”. Mỗi khi hát xong, lại nhớ đến hàng nghìn hàng vạn tướng sĩ đã hy sinh thân mình để giành lại giang sơn cho ngài, bèn sai bộ phận hậu cần sưu tầm tên họ của những người đã hy sinh, nhưng kết quả rất ít. Trương Lương cũng rút lui sau khi giúp Lưu Bang dựng nên cơ nghiệp, nên cũng không nói họ tên người đại lực sĩ ấy cho triều đình biết. Vì vậy, vị anh hùng ấy đành vô danh.

Sau khi bị kinh hoàng vì đòn tập kích bằng chùy ở Bác Lang Sa và sau đó lục soát cả nước bất thành, Tần Thủy Hoàng cho dựng hai tấm bia ở núi Chi Phù (ở tỉnh Sơn Đông) khi ngài tuần du qua nơi này. Núi Chi Phù ở gần biển thuộc nước Tề cũ, cách Đông Bắc huyện Phúc Sơn ba mươi lăm dặm; ba phía núi giáp biển, chỉ phía Nam là liền với đất liền. Núi cao chín dặm, rộng năm mươi dặm vuông, cảnh trí rất đẹp. Sở dĩ nhà vua tới đây là sớm muốn nhìn thấy biển, mong muốn nhìn thấy đoàn thuyền do Từ Phúc dẫn đầu, quay về và mang theo thuốc trường sinh bất lão cho ngài. Hơn nữa, cũng muốn đến nơi yên tĩnh này để nghỉ ngơi mấy ngày sau chuyện đáng buồn nói trên. Ngài ở lại bảy ngày. Trong thời gian đó, ngài sai Lý Tư khắc hai tấm bia: “Đông Quan khắc thạch” và “Chi Phù khắc thạch”. Ngoài phần nội dung tương tự với mấy tấm bia trước, còn viết thêm phần chửi mắng sáu nước chư hầu, nhấn mạnh phải kiên quyết đè bẹp những thế lực còn muốn chống lại nhà Tần; kêu gọi “đốt cháy cường bạo, cứu giúp đầu đen, cố định bốn cực”, để từ đó “thực thi pháp luật, phổ cập thiên hạ, mãi là chuẩn tắc”.

Nhà vua đích thân đôn đốc việc dựng hai tấm bia đó, dường như đó là hai tấm bùa chú, luôn luôn bảo vệ và che chở cho mình dù gặp rủi ro đến đâu cũng đều tai qua nạn khỏi. Yên tâm tin tưởng ở phù phép mới đó, ngài lại tiếp tục lên đường đi xuống phía Nam và đến núi Lang Nha một lần nữa. Trong mười mấy ngày ở chân núi Lang Nha, ngài trèo lên đài Lang Nha nhiều lần, cố mong Từ Phúc trở về, nhưng “có nghìn cánh buồm đi qua, nhưng đều không phải” (Ghi lại nguyên văn của Tần Thủy Hoàng - ND). Ngài thất vọng, không thể kiên nhẫn được nữa, đành phải về Hàm Dương theo con đường đi qua Hằng Sơn, Thượng Đảng.

Tần Thủy Hoàng là một con người rất chú trọng thực tế, tác phong làm việc rất thiết thực, cụ thể, và đã làm nên nhiều việc lớn về chính trị, quân sự, kinh tế. Nhưng về tư tưởng lại là một người rất ảo tưởng, suy nghĩ rất nông cạn, lung tung, hồ đồ. Ngài quá tin vào những lời nói mê sảng, hoang đường của Từ Phúc, rồi đưa theo mấy nghìn người theo Từ Phúc ra biển tìm thuốc trường sinh bất lão. Từ Phúc đi một năm rồi mà biệt vô âm tín. Vậy mà ngài không chịu bình tĩnh suy nghĩ lại, để dứt khoát từ bỏ ý nghĩ vô nghĩa ấy; ngược lại, cứ hy vọng hão huyền và đeo đuổi mãi, chờ người thần ở đảo tiên sẽ ban phước lành cho mình. Rồi, “vì không tìm được, cứ trằn trọc trở mình” (Nguyên văn trong sách Kinh Thi - ND), ngài vắt óc suy nghĩ, bỗng bật ra một sáng kiến: xây một khu tiên cảnh ở trần gian.

Ngài giao cho Triệu Cao chuẩn bị công việc này. Theo yêu cầu của nhà vua, cảnh trí và cung điện trên “đảo tiên nhân tạo” này phải hoàn toàn dựa theo sự mô tả của Từ Phúc. Mặc dù trước đó, thừa tướng Vương Quản và thượng khanh Lý Tư đã nhiều lần tâu với ngài rằng quốc khố và kinh phí đã cạn kiệt lắm rồi. Vì thời gian qua đã chi tiêu quá nhiều cho việc xây đắp Trường Thành, làm đường cho xe chạy nhanh (trì đạo) và xây cung điện. Nhưng ngài lại quá đam mê cuộc sống xa xỉ, muốn làm gì thì phải làm cho được, không ai ngăn cản nổi nữa. Ngài căn bản bỏ ngoài tai mọi lời khuyên can của bề tôi, cứ đôn dốc công việc xây dựng “tiên cảnh ở trần gian”

Sau khoảng một năm khẩn trương xây dựng, công trình hoàn thành. Vị trí tại địa giới huyện Hàm Dương. Đây là một cái hồ nhân tạo, từ Đông sang Tây dài hai trăm dặm; từ Bắc xuống Nam rộng hai trăm dặm, đưa nước sông Vị Thủy vào, một hồ nước bát ngát mênh mông, được đặt tên là “Lan Trì” (hồ hoa lan). Trong hồ có đảo, đặt tên là đảo “Bồng Doanh”, tức là “Bồng Lai” và “Doanh Châu”. Còn có một con cá voi bằng đá dài hai trăm trượng, một nửa nổi trên mặt nước, sống động như thật.

Người đời sau truyền lại rằng, sau khi đào xong “Lan Trì”, Tần Thủy Hoàng đã đến đó học đạo thuật để cầu tiên, và có người thật ở Thái Nguyên tên là Mao Doanh nói rằng cụ của ông ta là Mao Mông đã đi tu ở đó (Lan Trì) và thành tiên rồi bay lên trời. Vì vậy có bài ca dao:

Mông Mao đã biến thành tiên,

Cưỡi rồng bay vút lên trên thiên đàng.

Tại Huyền Châu và Xích Thành,

Vua theo gương cũ, muốn lên tiên thần,

Đổi “tháng chạp” thành “gia bình”.[i]

Theo sử liệu đúng là sau khi đào xong Lan Trì, vào năm ba mươi mốt niên hiệu Tần Thuỷ Hoàng, ông ta đã đổi tên gọi tháng Chạp năm đó, không gọi là “lạp nguyệt” [ii] như cũ, mà gọi là “gia bình” (chúc mừng hòa bình). Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của thơ ca, thì thời nhà Tần chưa có thể thơ thất ngôn (bảy chữ), cho nên, đạo sĩ Mao Doanh nói trên sớm nhất cũng ra đời khoảng cuối thời Hán đầu thời Đường, không thể là người thời Tần. Cho nên, bài ca dao trên là do người đời sau bịa ra để gán cho Tần Thủy Hoàng. Nhưng nội dung nói Tần Thủy Hoàng mộ đạo cầu tiên là chuyện có thật. Điều nực cười là Tần Thủy Hoàng càng cầu tiên phù hộ để trường sinh bất lão, thì càng gặp nhiều tai họa, có khi suýt chết.

Vì hồ Lan Trì quá lớn, lại là nơi có đảo tiên, nên không thể đưa quân đội đến bảo vệ. Tần Thủy Hoàng rất cẩn thận mỗi lần đến đảo để cầu tiên, đều mặc quần áo rất xuềnh xoàng để che mắt thiên hạ và chỉ đưa theo bốn võ sĩ để bảo vệ. Một hôm, trong đêm khuya ngài đi qua một đoạn đường nào đó trên đảo tiên, bỗng từ phía sau hòn núi nhân tạo (giả sơn) có ba lực sĩ đeo mặt nạ xông ra và nhào vào đâm ngài. Lúc ấy, ngài đi cầu tiên, nên không mang vũ khí, lại bị bất ngờ, không kịp trở tay chống đỡ, chỉ vội tránh sang ngay một bên và kêu cứu. Bốn võ sĩ cũng xông ra đánh nhau với ba tên lực sĩ kia và đuổi được chúng đi.

Lần này, Tần Thủy Hoàng sợ hãi hơn lần ở Bác Lang Sa, đến nỗi toàn thân toát mồ hôi đầm đìa, còn “tè” ra cả quần. Mùi nước đái cay xè xè xông lên, ngài vừa xấu hổ vừa tức giận điên cuồng, ngài ra lệnh lục soát hai mươi ngày trong cả nước, nhưng vô hiệu.

“Lan Trì”, đảo tiên Bồng Doanh và cá voi khổng lồ, tuy đẹp như cảnh tiên, nhưng nói cho cùng thì đó chỉ là cảnh giả tạo, chỉ có thể làm nơi du ngoạn, yến tiệc ca múa, hoàn toàn không thể mọc cánh lên tiên được. Thêm vào đó, chính nơi đảo tiên từng có ba tên thích khách trùm đầu định giết nhà vua; vì vậy ngài cũng dần dần giảm mất hứng thú dối với nơi ấy. Và ngài chỉ còn hy vọng vào việc tìm thầy bói (phương sĩ), nhờ họ cầu tiên xin thần dược để được trường sinh bất lão. Triệu Cao là người rất giỏi nắm được ý đồ của nhà vua và luôn luôn tìm mọi cách làm vừa lòng ngài. ông ta bỏ một khoản tiền lớn để mua chuộc bọn phương sĩ Lư Sinh, Hầu Sinh, Phí Trúc, Thái Sinh và cấu kết với họ, rồi ra sức đề cao mấy người này với nhà vua, nói rằng đây là những vị “đạo trưởng” rất uyên thâm, v.v... Nhà vua liền tiếp kiến mấy vị phương sĩ đó ngay tại đảo tiên và nói với họ rất khẩn thiết rằng:

- Quả nhân muốn tìm được phương thuật trường sinh bất lão đã sai Từ Phúc đi tìm ngoài biển, nhưng không thấy trở về. Nay các tiên sinh có cách gì giúp ta hay không?

Lư Sinh chắp tay vái lễ rồi tâu:

- Hạ thần nghe nói từ núi Kiệt Thạch đi ra biển không xa, có một hòn đảo nhỏ. Có hai phương sĩ tên là Tiễn Môn và Cao Thệ sống ở đó. Hai người này thường qua lại Bồng Lai và gặp gỡ các tiên ở đó, rồi dần dần trở thành tiên.

Ngài vội hỏi tiếp:

- Hai người ấy thành tiên bằng cách nào?

- Hai người này đều là phương sĩ, nhờ thành kính tu luyện nên thành tiên. Có thể mời họ truyền dạy thì có thể học được thuật trường sinh bất lão. - Lư Sinh giải thích cho nhà vua.

- Đạo trưởng nói rất phải. Nhưng làm thế nào để gặp và học được đạo của hai vị tiên ấy? - Nhà vua bắt đầu sốt ruột, nôn nóng.

- Các hạ thần sẽ đi thăm dò trước, mùa xuân sang năm sẽ đi thuyền ra biển, tìm hiểu thực tế của Tiễn Môn và Cao Thệ. Sau sẽ về bẩm báo với bệ hạ. Xin bệ hạ cứ ở nhà thành tâm cầu nguyện và chờ tin mừng. - Lư Sinh đã có chuẩn bị từ trước, nên tỏ ra rất tích cực ủng hộ chủ trương của nhà vua và sẵn sàng hành động.

- Vậy thì rất tốt. Bây giờ trẫm sẽ đến núi Kiệt Thạch long trọng tiễn đưa các tiên sinh, để bày tỏ lòng tôn kính đối với vị tiên cao quý. - Nhà vua tỏ ra rất tin tưởng các phương sĩ và ủng hộ công việc của họ.

Lư Sinh và đồng nghiệp nhận lời nhà vua, vừa mừng vừa lo. Một lần nữa chắp tay vái chào nhà vua và nói:

- Bệ hạ đã có lòng thịnh tình như vậy, chúng thần sẽ đi khắp biển Đông để tìm cho được hai vị tiên, đưa đến gặp bệ hạ, để báo đáp ân huệ của thánh thượng.

Nhà vua vui vẻ gật đầu liên tục, tỏ ra rất tán thưởng và ban cho họ nhiều vàng bạc châu báu để động viên khuyến khích họ.

Lư Sinh và đồng nghiệp một lần nữa bái tạ nhà vua rồi ra đi. Sau đó, lập tức chuẩn bị cho chuyến viễn du ngoài biển.

Năm sau, tức là năm ba mươi ba niên hiệu Tần Thủy Hoàng, nhà vua lại dẫn đoàn tùy tùng đến tận núi Kiệt Thạch ở phía Bắc huyện Xương Lê thuộc đất nước Yên cũ, để làm lễ tiễn chân phương sĩ Lư Sinh và Hầu Sinh xuất hành ra biển và chúc họ sớm mang thắng lợi quay về. Để đến núi Kiệt Thạch, họ phải đi qua Hàm Cốc Quan, đến các huyện Mạnh Tân, Hàm Đan, Hằng Sơn, rồi đi tiếp sang phía Đông, đến đất Yên cũ, cuối cùng đến Kiệt Thạch.

Sau khi làm lễ tiễn chân Lư Sinh và Hầu Sinh, nhà vua và đoàn tùy tùng leo lên đỉnh núi Kiệt Thạch để theo dõi đoàn thuyền của Lư Sinh và Hầu Sinh, cứ ngước mắt nhìn theo đoàn thuyền xa dần, cho đến khi mất hút mới thôi. Theo thường lệ, Lý Tư lại chấp bút viết văn bia, khắc bia đá, dựng lên núi Kiệt Thạch. Bia viết:

Nay đưa ba quân, diệt Lao (Ái) vô đạo, thanh trừ phản nghịch - Vũ lực bạo tàn, chính trị nham hiểm, đều phải quy hàng - Bình xét công lao, thưởng cho trâu ngựa, ruộng tốt đất màu - Hoàng đế thu phục chư hầu, thái bình hồi phục - San phẳng thành quách, khơi thông sông ngòi, loại trừ hiểm trở. Địa giới đã định, dân không lao dịch, vỗ về xã tắc - Nam lo cày ruộng, nữ lo phận mình, người người có việc - Ruộng đất có chủ, làm ăn lâu dài, hết sức yên tâm - Quần thần ca ngợi, xin khắc bia này, lưu danh muôn thuở.

Về chuyến đi của Tần Thủy Hoàng đến núi Kiệt Thạch, có một chuyện thần thoại như sau:

Từ phía Đông Nam mặt biển mênh mông đến núi Kiệt Thạch ở huyện Lũy, có một hòn đá rất lớn và dài, nằm dài giống như một chiếc gối khổng lồ giữa biển. Có người nói đó là con đường “dũng đạo” (lối đi giữa, đắp cao hơn hai bên, dành cho vua quan đi), dài mấy chục dặm. Nếu từ con đường “dũng đạo” ấy nhìn thẳng ra phía trước, thì có một hòn đá khổng lồ khác, dựng đứng như một cột đá giữa biển. Khi nước thủy triều dâng lên cao, thì cột đá này chìm nghỉm. Khi nước xuống, cột lại trồi ra. Mọi người không biết nước biển chỗ ấy nông sâu ra sao, cho nên cứ gọi đó là “Trụ cầu của trời” (Thiên kiến trụ). Trụ cầu của trời xem ra thì rất giống do con người đẽo gọt nên, nhưng xem xét thật kỹ thì không phải; con người hoàn toàn không thể làm được như thế. Vậy mà trong sách “Tam Tề lược ký” lại viết rằng, Tần Thủy Hoàng đã bắc một chiếc cầu bằng đá khổng lồ trên mặt biển, và thần biển đã giúp ông ta dựng chiếc cột đá đó. Lúc ấy Tần Thủy Hoàng nói muốn gặp thần biển, thần biển trả lời rằng: “Mặt mũi ta rất xấu xí, ngài phải hứa với ta là không vẽ hình người của ta vào đá, ta mới gặp ngài”.

Tần Thủy Hoàng đồng ý và đi ngựa trên con đường “dũng đạo” ấy ra tận nơi cách xa bốn mươi dặm để gặp thần biển. Những người đi hộ vệ gần nhà vua, không ai làm gì cả. Nhưng những người thợ vẽ thì dùng chân bí mật vẽ hình người của thần biển. Thần biển phát hiện, bèn nổi giận quát mắng Tần Thủy Hoàng là hoàng đế mà không giữ lời hứa, thật là độc ác, rồi đuổi đi. Tần Thủy Hoàng sợ phát khiếp, vội quay ngựa chạy về chân trước vừa bước lên đất liền, chân sau vấp ngã xuống đất, vất vả mãi mới bước lên được bờ. Còn người thợ vẽ trộm thì chết chìm dưới biển. Lúc ấy, đá trên núi đều đổ nghiêng về hướng Đông, gần như sắp sụp đổ xuống biển. Đó là do cơn giận của thần biển đã làm rung chuyển núi đá, núi đá sợ hãi nên nghiêng ra phía biển, tạo thành cảnh quan kỳ vĩ như hiện nay.

Lúc ấy, vì Tần Thủy Hoàng sợ hãi quá nên sinh bệnh rất nặng, mặc dù ngự y Hạ Vô Thả đã “hết lòng cứu chữa”, nhưng vẫn không thể biết được hoàng đế mắc bệnh gì. Sau đó nhà vua phải tự mình viết một bài văn tế trong đó tự kiểm thảo sai lầm của mình, đưa ra biển đốt để tế thần, bệnh mới khỏi dần. Từ đó, Tần Thủy Hoàng càng mê tín hơn, càng tin thần tiên và trường sinh bất lão. Ngài lại thành lập một đoàn thuyền nữa ra biển tìm tiên và thuốc trường sinh bất lão. Đoàn thuyền này gồm một nghìn thiếu nam thiếu nữ, do các phương sĩ Hàn Chung, Hầu Cung và Thạch Sinh tiến cử. Khi Tần Thủy Hoàng và đoàn tùy tòng về Hàm Dương không lâu, có tin nói rằng đoàn thuyền này gặp gió to sóng dữ nên đã chết chìm, và làm mồi cho cá cả. Nhà vua rất buồn và than rằng tại sao trời không giúp ngài thực hiện ước vọng to lớn của ngài. Tuy nhiên, ngài không bao giờ tin rằng bản thân mình lại không có duyên phận với tiên.

Chú thích:

[i] Trong nguyên văn, bài ca dao trên theo thể thơ mỗi câu bảy chữ. Chúng tôi trích thành lục bát cho hợp với thể ca dao Việt Nam. Trong đó, Huyền Châu và Xích Thành, muốn nói hồ Lan Trì.

[ii] Người Trung Quốc từ xưa đến nay đều gọi tháng Chạp là "lạp nguyệt".