← Quay lại trang sách

HỒI THỨ HAI MƯƠI CHÍN HỎI TỘI VIỆC ĐỐT SÁCH CHÔN TRÒ-DỰNG CUNG XÂY LĂNG, XA HOA CỰC ĐỘ--------

Tần Thủy Hoàng sau khi làm xong hai việc dựng bia đá ở núi Kiệt Thạch, cử hai nhóm đạo sĩ ra biển tìm tiên và xin thuốc rồi mới quay về Hàm Dương. Khoảng hơn một năm sau lại đi kinh lược Lĩnh Nam. Chính quyền các quận mới lập như Mân Trung, Quế Lâm, Tương Quận, Nam Hải được củng cố, kinh tế phát triển, đồng thời đánh đuổi được quân Hung Nô ở Tây Bắc, mở rộng vùng Du Trung vốn là đất Tề cũ tới phía đông triền sông Hoàng Hà thành ba mươi tư huyện, và việc xây dựng Vạn lý Trường thành do Mông Điềm trông coi đã cơ bản hoàn thành. Khi đó lão thừa tướng Vương Quán dâng sớ cáo lão về quê. Thủy Hoàng lần lượt cho Lý Tư, Phùng Khứ Tật làm tả hữu thừa tướng. Vì việc này, mùa hè năm ba mươi, Thủy Hoàng bày ngự yến trong cung Hàm Dương vui vẻ mừng công. Toàn thể bá quan văn võ trong triều đều dự, còn có cả bảy mươi vị tiến sĩ tham gia. Tất cả ăn uống vui vẻ, thưởng thức ca múa, quần thần thay nhau ca ngợi công lao to lớn của Thủy Hoàng, lần lượt nâng cốc chúc “Thánh thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”. Thủy Hoàng sung sướng gật đầu vẫy tay, đáp lễ quần thần.

Bộc xạ Chu Thanh Thần rót đầy một chén ngự tửu, cung kính bưng tới trước bàn tiệc của Thủy Hoàng rồi tâu:

- Ngày xưa bờ cõi nước Tần ta không quá một nghìn dặm, lại ở vào một góc, thế hẹp khó phát triển. Từ ngày bệ hạ lên ngôi tới nay, sáng suốt như thần thánh, diệt tan sáu nước, bình định khắp nơi, đánh đuổi man di, những chốn mặt trăng mặt trời chiếu tới thẩy đều thần phục. Lại còn xóa bỏ phân phong chư hầu, đổi thành quận huyện, người người yên vui, không còn chiến tranh. Sự nghiệp lớn lao, lưu truyền muôn đời. Ngay cả Tam hoàng Ngũ đế khi xưa cũng không sánh nổi thánh đức bệ hạ được. - Nói xong nâng chén rượu dâng lên Thủy Hoàng rồi lại nói - Xin bệ hạ ban ơn, uống cạn chén rượu này!

Quần thần hùa theo, đồng thanh ca ngợi Thủy Hoàng. Thủy Hoàng nét mặt rạng rỡ, đón lấy chén rượu của Chu Thanh Thần, ngẩng đầu uống cạn, xong cười và phán rằng:

- Quả nhân lo khôi phục gây dựng tổ nghiệp, đã ngày đêm suy nghĩ, hết lòng với xã tắc, mới có được ngày nay. Được Chu khanh phò tá, hết lòng làm tròn phận sự, có nhiều công lao, tất cả đều góp công, cho nên trẫm bày tiệc ban yến để khắp thiên hạ cùng chúc mừng, quần thần đều vui vẻ - Nói đoạn nâng cao chén rượu, nhìn khắp lượt quần thần, rồi uống một hơi cạn, tỏ ra vô cùng sung sướng.

- Tạ ơn thánh thượng!

- Chúc bệ hạ vạn thọ vô cương!

Quần thần đua nhau uống theo, đua nhau chúc tụng, hết đợt này đến đợt khác. Thật là tưng bừng náo nhiệt!

Mãi sau mới dừng nâng chén chúc tụng, khi đó từ phía bàn các tiến sĩ một người rất nho nhã đứng lên. Ông ta mũ cao đai rộng, cử chỉ nghiêm túc, đầy vẻ một nhà nho. Ông đứng nghiêm chính giữa điện đường, cung kính chắp tay tâu với Thủy Hoàng:

- Thần là Thuần Vu Việt có lời bẩm tấu, chẳng hay, bệ hạ có muốn nghe hay không?

Thủy Hoàng thấy là một tiến sĩ, bụng đã nghĩ thầm: Lần trước phong thiền Thái Sơn, bọn tiến sĩ các ngươi dẫn sách kinh điển, ngăn ta làm đường cho xe lên núi, khi xuống núi gặp phải mưa bão, lại còn được dịp nói bóng gió mỉa mai. Đến Tương Sơn lại khuyên ta cúng thần sông, kết quả là hai người phi của Thuấn vẫn gây sóng to gió lớn, suýt nữa thì hất trẫm xuống hồ Động Đình. Hôm nay ban yến, cho các ngươi ăn uống sướng miệng, chắc hẳn muốn bày tỏ cảm tạ ân đức đây. Hẳn phải là những lời tán tụng rồi. Nghĩ vậy, ngài bèn mỉm cười bảo:

- Tiến sĩ có cao kiến gì, quả nhân sẵn sàng nghe.

Thuần Vu Việt thấy Thủy Hoàng vui vẻ như thế, cảm thấy thật là một dịp tốt hiếm có, nhất định phải nói cho hết để vua nghe ra, đặng làm tròn trách nhiệm bầy tôi. Ông liền rất đĩnh đạc tâu rằng:

- Bệ hạ dọc ngang trời đất, nắm chắc Càn Khôn, tài cao chí lớn, sự nghiệp vĩ đại; muôn dân thần phục, bốn biển thanh bình. Nhưng ngu thần thiển nghĩ, Thương, Thang, Cơ, Chu lập nghiệp trị nước đều lâu dài hàng nghìn năm. Mấu chốt của thành công đó là ở chỗ con cháu vua tôi có công đều được cắt đất phong hầu, như cành lá cùng một cội gốc, trợ giúp nhau cùng tồn tại. Nay Thánh thượng đã có cả bốn biển, làm vua cả thiên hạ, nhưng các hoàng tử đều chưa được phong vương, suốt đời ăn lộc hoàng gia, không có chức có quyền gì, chẳng khác chi bách tính. Nếu như gặp phải Tề Điền Thường giết Giản Công, sẽ là cái họa lục Khanh Chí, Phạm, Trung Hành, Hàn, Triệu, Ngụy chia cắt nước Tần, thì con cháu vua và tổng tộc làm sao có thể dấy binh bảo vệ được hoàng đế? Thể chế cổ xưa được noi theo hàng nghìn năm, tất có điều phải trong đó. Cho nên người xưa dạy: Cái lợi không tăng lên dược mười lần, thì không thay đổi điển chế. Sự nghiệp không làm theo cổ xưa mà trường cửu được, thần chưa bao giờ nghe thấy cả. Nay Thanh Thần cứ một mực nịnh hót để cho nhà vua vui vẻ, mà không can ngăn nhà vua xem xét sửa đổi cái sai của điển chế, không nhìn vào tình trạng nguy khốn, cố làm ra vẻ yên bình, dùng những lời nói ngon ngọt để che lấp tô vẽ các sai trái. Đó thực sự không phải bề tôi trung thần. Kính mong bệ hạ minh xét, không để bị mê hoặc. Được vậy thì nước đại Tần chúng ta thật là may mắn!

Thuần Vu Việt dám cả gan nói những lời dại dột như vậy, còn hàm ý châm chọc đả kích công việc triều chính. Không những Chu Thanh Thần tức giận câm bặt như hến, bực bội ra mặt mà ngay cả Thủy Hoàng và Lý Tư cũng cảm thấy đột ngột. Hơn nữa mũi nhọn lại chĩa thẳng vào chế độ quận huyện mà Thủy Hoàng và Lý Tư đều rất đắc ý. Do đó có thể thấy đây là luận điệu cũ rích mấy năm trước của cựu thừa tướng Vương Quán và vương thúc Doanh Tần Tử Khang. Năm ấy tuy đã thất bại trong nghị sự triều đình và im hơi lặng tiếng nhiều năm, nhưng một khi gặp được hoàn cảnh và thời cơ, như buổi ngự yến có vua tham dự, quần thần đông đủ thế này, thì bọn họ lại không thể không ngóc đầu dậy, tô son trát phấn cho chế độ phân phong đã bị phế bỏ nhiều năm, mưu toan lại bước lên vũ đài chính trị, mà kết quả của nó chỉ là làm đảo ngược lịch sử mà thôi. Vì vậy, lời tấu của Thuần Vu Việt có tính chất tiêu biểu. Nếu không phản kích lại, e những lời nói sai trái này sẽ gây ra hỗn loạn về tư tưởng... Nghĩ tới đây Thủy Hoàng và Lý Tư thực sự phẫn nộ về những ý kiến của Thuần Vu Việt. ông ta không còn là học giả, cũng không chỉ là con mọt sách, ăn sống nuốt tươi lời người xưa nữa, mà là đại diện chính trị của phe bảo thủ và ngoan cố rồi, muốn lấy xưa phủ định hiện tại. Nhưng Thủy Hoàng lại nghĩ, mọi người chưa được chuẩn bị về tư tưởng, nếu bây giờ tỏ thái độ ngay, tuy có thể giành được hiệu quả nhanh chóng bề ngoài, nhưng thực tế vấn đề chưa được giải quyết căn bản. Nếu như muốn xoa dịu mâu thuẫn, điều hòa xung đột, không gì tốt hơn bằng dắt dẫn tranh luận đi vào chiều sâu - trước hết hãy để cho họ nói ra tất cả những gì họ muốn nói rồi sau ta sẽ trừng trị. Việc quân không loại trừ đánh lừa kia mà. Hừ!

Chủ ý đã định, Thủy Hoàng ra bộ hòa nhã nói với quần thần:

- Hôm nay ban yến mừng công, vua tôi cùng vui, không phải là ngày triều chính bàn định việc nước, trình tâu những điều hay lẽ phải. Ý kiến của hai khanh Chu, Thuần trái ngược nhau, lúc này không cần bàn cãi nữa để khỏi ảnh hưởng tới không khí vui vẻ của buổi yến tiệc. Sau đây Tả thừa tướng Lý Tư sẽ chủ trì việc này. Vào buổi chầu sau chư khanh sẽ nêu ý kiến, thả sức trình bày; để thu thập được ý kiến rộng rãi và nhiều điều bổ ích, làm rõ đúng sai, trẫm phải chọn cái tốt để noi theo. Chư khanh thấy thế nào?

Quần thần nghe xong nhất trí tán thưởng, không còn ai tâu trình gì nữa. Tất cả đều dồn hết hứng thú vào ăn uống rượu thịt. Yến tiệc xong xuôi, mọi người tạ ơn Thủy Hoàng rồi ai về nhà nấy. Quần thần phần lớn chịu ơn của nhà vua, được dự ngự yến, đều rất hài lòng và ngủ rất ngon lành, chỉ có hai người không chợp được mắt. Một là Chu Thanh Thần, vốn muốn nịnh hót tâng bốc Thủy Hoàng, mong được thánh thượng ban khen và đồng liêu ngưỡng mộ. Nào ngờ lại bị lão già khốn khiếp Thuần Vu Việt mỉa mai cho một trận, tức giận ăn không được, ngủ chẳng xong, thao thức suốt cả đêm. Một người nữa là Thuần Vu Việt. Sau khi bột phát lên tiếng về danh nghĩa phản bác Chu Thanh Thần, thực chất là chỉ trích Thủy Hoàng đã làm ngược lại chế độ cổ xưa, rời bỏ kinh sách, thấy Thủy Hoàng đã không nổi giận, lại còn ra lệnh cho Lý Tư chủ trì buổi triều chính lần sau, tiếp tục lắng nghe ý kiến mọi người, thì tưởng rằng tác phong Thủy Hoàng đã có chuyển biến lớn, cho rằng mình phải nắm lấy cơ hội này can gián tiếp thánh thượng, khuyên ông phế bỏ chế độ quận huyện, khôi phục chế độ phân phong. Được thế thì công lao mình có thể sánh kịp các bậc khanh tướng... ông suy nghĩ miên man, phấn khởi không ngủ được, chỉ đợi chờ sớm tới buổi chầu lần sau.

Tội nghiệp cho ông lão tiến sĩ Thuần Vu Việt quá đỗi ngây thơ. Trong buổi chầu mà ông mỏi mắt trông chờ họp vào bảy ngày sau, ông không thấy Thủy Hoàng mỉm cười nữa, và chính ông cũng không được tấu trình. Chỉ thấy Tả thừa tướng Lý Tư đĩnh đạc từ bàn văn bước ra đứng giữa cung đình, tay cầm một văn bản đã viết sẵn, sang sảng tuyên đọc: “Công việc ba đời họ Thương Chu, chẳng đáng noi theo. Hiện giờ học trò không học cái ngày nay mà lại học cái cổ xưa, lấy cái cổ xưa phủ định cái ngày nay, mê hoặc dân chúng, nói ra toàn những đạo cổ xưa có hại đến ngày nay, tô vẽ hoang đường làm rối loạn sự thật. Đề cao tự học, nhạo báng sự nghiệp bệ hạ đã xây dựng. Nay hoàng đế đã có cả thiên hạ, định rõ phải trái, thống nhất quy chế. Nhưng có những kẻ kết bè với nhau làm bậy, dạy người ta phải nhận pháp chế, thấy triều đình ban bố pháp lệnh thì lập tức chê bai bằng các học thuyết của mình, trong nhà thì chỉ trích, ngoài đường thì bàn tán xì xào, khoe khoang học thuyết chủ trương của mình, lừa dối thiên hạ để cướp lấy tiếng thơm, tâng bốc tà thuyết dị đoan của mình là cao thượng, lôi kéo nhiều nhà nho nói năng sàm bậy. Những hành vi đó nếu không ngăn cấm thì thế lực của quân vương sẽ bị hạ thấp và khi đó thì thế lực của đám hư nho cùng bè đảng sẽ ngoi lên, cho nên phải lập tức cấm chỉ”.

Tiếp đó, Lý Tư đưa ra dự thảo sắc lệnh đốt sách:

“Thần thỉnh sử quan, trừ những sách ghi chép lịch sử nước Tần ra, những sách sử khác đều đốt hết. Không phải là quan tiến sĩ do triều đình bổ nhiệm, tất cả những ai tàng trữ “Kinh Thi”, “Kiều Thư”, “Luận ngữ”, “Mạnh Tử” và Bách Gia Chư Tử, đều phải mang nộp cho lại úy quận, huyện địa phương để đốt. Kẻ nào dám tuyên truyền thi, thư, chém đầu! Kẻ nào lấy cổ phỉ báng kim, tru di ba họ! Lệnh đốt sách công bố ba mươi ngày, kẻ nào không đốt, thì thích chữ vào mặt sung quân, phát vãng đến Trường thành làm lao dịch. Quan lại biết sự việc không trình báo, là đồng lõa với kẻ phạm pháp. Nhưng cũng có sách không bị đốt, tức là những sách y dược, sách hướng dẫn trồng trọt. Những người nào học pháp luật, thì bái quan lại địa phương làm thầy để học pháp luật nước Tần”.

Lý Tư tuyên đọc xong, Thủy Hoàng phê chuẩn ngay, ra chiếu thư toàn quốc chấp hành. Trận hủy diệt văn hóa truyền thống Trung Quốc chưa từng có kể từ thời thượng cổ, trung cổ đến ba đời Hạ, Thương, Chu, cho tới cuối đời Chiến Quốc và Sơ Tần bắt đầu. Thế là bốn phương sợ hãi, muôn dân khiếp đảm. Trong thời hạn ba mươi ngày, chỉ riêng thành Hàm Dương đã giao nộp, bắt nộp hơn hai vạn xe sách gồm các loại thi, thư và Bách Gia Chư Tử. Các loại sách viết bằng tre, bằng vải, lụa đều có cả Thủy Hoàng hạ chiếu điều động lực lượng quân đội đào hơn mười chiếc hố lớn diện tích hơn ba mẫu ở ngoài thành Hàm Dương. Để phô trương thanh thế, “nêu gương” cho cả nước, Lý Tư cho dựng một đài cao tại chỗ đốt sách, mời Thủy Hoàng và quần thần văn võ đến giám sát. Sách chất cao như núi trong mười chiếc hố lớn. Hàng vạn quân lính bên tay cầm đuốc vây quanh các hố, chờ lệnh thi hành. Quần chúng nghe tin đến xem đốt sách, quây kín vòng trong vòng ngoài có tới mười mấy vạn người, chẳng khác gì binh lính đang dàn đội hình đối mặt với quân thù.

Thủy Hoàng ngồi chính giữa đài cao quan sát. Cảnh tượng và thế trận uy nghiêm hùng tráng như thế này, trước đây chỉ có hai lần. Lần thứ nhất là xe ngựa phanh thây Lao Ái trước cung Hàm Dương hai mươi nhăm năm trước. Lần thứ hai là cuộc tàn sát lớn đối với vương tộc quan lại nước Triệu cùng tám mươi ba gia đình họ ở Hàm Đan, kinh đô nước Triệu mười lăm năm trước. Lần này tuy không phải là giết người, nhưng lại tàn khốc hơn cả giết người. Ông đã hủy diệt trong chốc lát tinh hoa văn hóa dân tộc, rường cột và món ăn tinh thần mà cả dân tộc đã dựa vào đó để sinh tồn, phát triển trước khi có nhà Tần. Khi Lý Tư phát lệnh, hàng vạn bó đuốc lập tức được ném vào những núi sách. Chỉ trong giây lát, lửa bốc ngút trời, khói bay mù mịt. Trong khi dân chúng đứng xem đau lòng rơi lệ, che mặt khóc than, thì Thủy Hoàng lại cười ngặt nghẽo độc ác, nhìn Lý Tư như tán thưởng, dường như vô cùng phấn khởi sung sướng vì đã giành được thắng lợi.

Trong thời gian đó, cả nước từ trên xuống dưới, tại quận, huyện, xã, thôn, từ quận thú, giám úy, huyện lệnh, huyện úy tới xã trưởng, đình trưởng, lý trưởng thực thi lệnh trên, đua nhau hành động. Trước hết ra lệnh cho mọi người tự giác mang nộp, sau đến từng nhà, từng hộ cưỡng chế lục soát bắt nộp. Đối tượng đầu tiên đương nhiên là các gia đình thư hương dòng dõi thi lễ. Vốn dĩ từ khi Thủy Hoàng lên cầm quyền, Nho gia đã bị ghẻ lạnh. Trừ một số rất ít sử quan, tiến sĩ nhận chức ở phủ đệ các cấp ra, đại đa số tín đồ Khổng Mạnh không được làm quan chức gì, đành phải kế thừa truyền thống cha ông, dựa vào việc mở trường tư thục, sinh sống bằng chút thù lao ít ỏi. Nhưng bây giờ do ông học sĩ Thuần Vu Việt nọ đã chẳng hiểu lẽ “ra cửa phải trông trời, vào nhà phải quan sát” lại dám nói những lời nghịch nhĩ động chạm tới thánh thượng, bị phán xét là phạm thượng làm loạn, đại nghịch bất đạo. Để đến nỗi khiến cho những tác phẩm “Thi”, “Thư”, “Lễ”, “Xuân thu”, “Luận ngữ”, “Mạnh Tử”, vốn được Nho gia tôn sùng và coi là chuẩn mực, cả đến sách của Bách Gia Chư Tử cũng bị đốt sạch sành sanh. Cuộc tấn công nặng nề, mang tính hủy diệt như thế này, thật sự làm cho những thư sinh chân yếu tay mềm quen “ôn lương cung, kiệm, nhượng” này không chịu đựng nổi. Để cứu vãn, bảo tồn di sản văn hóa, bảo tồn lý tưởng và niềm tin, một số người bất chấp nguy hiểm tính mạng, tìm mọi cách cất giấu những bộ sách quý lại. Một tiến sĩ ở Tề Nam, Tề Quận tên là Phục Thắng, tự là Tử Tiện, sau khi nghe có lệnh đốt sách đã vội xây một bức tường kép trong phòng mình, giấu bộ sách “Thượng Thư” vào đó, khi quận úy đưa lính tráng tới lục soát bắt nộp, ông ta giả câm giả điếc, hỏi gì cũng lặng thinh, cuối cùng qua được mắt bọn quan lại sau khi Tần bị diệt, nhà Hán ra đời, Hiếu Văn Đế khôi phục lại Nho học, cho người đi tìm sách “Thượng Thư”, nhưng tìm đâu ra. Khi đó cụ Phục Thắng mới lấy sách “Thượng Thư” từ trong tường ra, nhưng không còn đầy đủ nữa chỉ còn hai mươi chín thiên. Ông cụ lúc đó đã hơn chín mươi tuổi, đã thông qua con gái, đọc truyền miệng cho Triều Thác, một học giả đời Hán ghi lại sách này được gọi là “Thượng Thư kim văn”.

Mục đích đốt sách của Thủy Hoàng chủ yếu nhằm tiêu diệt học thuyết Nho gia. Khúc Phụ Khổng Phụ nước Lỗ là nơi phát tích Nho gia, đương nhiên đó là mục tiêu tấn công đầu tiên. Khổng Phụ cháu tám đời của Khổng Tử vốn đã từng được Thủy Hoàng triệu kiến, tôn là Văn thông quân nước Lỗ, bổ nhiệm chức Thiếu phó. Một tiến sĩ là Trần Dư Phong báo cho ông biết tin đốt sách, và cho hay Thủy Hoàng muốn đốt hết sách các triều trước mà ông lại chính là người giữ sách Nho gia chính tông, điều này thật là nguy hiểm. Khổng Phụ đã trả lời, điều đáng sợ là Thủy Hoàng muốn đốt hết sách trong thiên hạ, vì không làm như vậy sẽ trở thành tai họa cho ông ta, cho nên việc trước tiên phải cất giấu kỹ sách, quan chức tìm không thấy, thì chẳng còn nguy hiểm nữa. Thế rồi ông vội vàng giấu “Luận ngữ”, “Thượng Thư”, “Hiếu kinh” vào trong tường ghép nhà mình, sau đó đến sống ẩn náu ở Tùng Dương, lén lút dạy hơn một trăm học trò học thuyết Nho gia. Còn một người nữa tên là Khổng Đằng, cũng giấu “Thượng Thư”, “Hiếu kinh” và “Luận ngữ” trong tường kép ở sảnh đường Khổng Phủ. Tới thời Hán Vũ Đế, Lỗ Cung Vượng dỡ nhà Khổng để mở rộng cung thất của mình, đã tìm thấy trong tường ghép những bộ sách “Thượng Thư”, “Lễ Ký”, “Xuân thu”, “Luận ngữ”, “Hiếu kinh”. Những sách này đều viết bằng sơn, nét hạ bút manh, nét dừng bút nhẹ, hình chữ giống như con nòng nọc, cho nên gọi là “Khoa đấu văn”.

Những nho sinh như Phục Thắng, Khổng Phụ, Khổng Đằng dũng cảm bất chấp hiểm nguy tìm mọi cách để giấu kinh điển Nho gia dĩ nhiên không phải là ít. Cũng có một số nho sinh biết tin muộn hơn, không kịp cất giấu sách, có người giấu đi rồi, nhưng bị tố giác, và bị phát hiện, nhìn những cuốn sách quý như tính mệnh mình bị cướp đi, bị ném vào lửa rừng rực cháy thành tro mà lòng đau như cắt như mất cha mất mẹ. Những người bất chấp nguy hiểm xông vào đống lửa cướp lại sách, bị giết ngay tại chỗ, bị tru di ba họ, bị thích chữ vào mặt phát vãng, đâu phải chỉ là con số hàng nghìn hàng vạn. Khi tình hình này được phản ánh tới Thủy Hoàng, ông ta như hiểu ra được đạo lý của Khổng Mạnh đã phải thốt ra: “Có người lấy sức mạnh thuyết phục người, có người lấy đức thuyết phục người. Thuyết người bằng sức mạnh thì không thể nào khiến người tâm phục được, sẽ thất bại. Lấy đức thuyết phục người, thì người ta trong lòng vui vẻ và thật sự cảm phục”. Thái độ của nho sinh đối với việc đốt sách chứng tỏ “không phải là tâm phục”, còn lâu mới tới mức “trong lòng vui vẻ và thật sự cảm phục”, vì thế ông ta càng ác cảm với nho sinh, càng thêm nghi ngờ. Tần Thủy Hoàng đang bực bội về chuyện đó, thì Lư Sinh, Hầu Sinh hai năm trước ra đi tìm tiên xin thuốc ngoài biển đã về đến Hàm Dương. Ông lập tức cho vời vào, trách hỏi họ làm sao bây giờ mới về, tìm tiên xin thuốc có kết quả gì không. Lư Sinh liền uốn ba tấc lưỡi khôn khéo tâu với Thủy Hoàng rằng:

- Chúng thần đi lại nhiều lần trên biển Đông, nhưng lần nào cũng gặp yêu quái trên đường. Chúng hô phong vũ, chặn không cho thuyền đi. Chúng thần không địch nổi đành phải trở về. Thật là làm nhục mệnh vua, nay xin nhận tội trước bệ hạ.

Thủy Hoàng nghe nói thế, liên tưởng ngay tới chuyện đi gặp thần biển ở núi Kiệt Thạch, liền tin ngay và không nghi ngờ gì. Xem ra muốn có thuốc trường sinh bất tử thì phải dựa vào tự thân tu luyện thành chân nhân thôi, cảm ứng được với chân nhân, trên thánh thần sẽ mang thuốc tới cho. Thủy Hoàng lo lắng hỏi:

- Như quả nhân đây, phải tu luyện bao lâu mới thành được chân nhân?

Lư Sinh thừa cơ tâu lấy lòng Thủy Hoàng:

- Bệ hạ là thiên tử tôn quý, bản thân đã là nửa tiên rồi. Chỉ cần thành kính tu luyện, thì ba năm sẽ thành chân nhân.

Thủy Hoàng cười bảo:

- Trẫm chinh chiến tiêu diệt sáu nước mất ba mươi năm mà tưởng như bóng câu qua cửa sổ. Ba năm tu luyện thành chân nhân, thời gian đâu phải dài, nhưng không biết phải làm như thế nào?

Lư Sinh nói:

- Bệ hạ gánh vác trách nhiệm nặng nề đối với quốc gia xã tắc, đương nhiên không thể hoàn toàn thoát ly việc triều chính được, nhưng phải cố cách ly với ngoại giới, tránh bị phiền nhiễu. Nơi ở không thể để phi tần và các quần thần được biết. Mọi việc chính sự đều làm ở cung Hàm Dương, do Lý Tư và Triệu Cao truyền đạt ý chỉ, một mình bệ hạ quyết đoán, không cần để triều thần bàn bạc.

Thủy Hoàng thấy cách tu luyện này phù hợp với thực tế bản thân, liền ngay hôm sau không lâm triều nữa mà để các quan đến cung Hàm Dương cầu kiến, thỉnh thị. Thủy Hoàng còn đổi cách xưng hô, nhận là “chân nhân” để mong tăng cường cảm ứng về tâm linh với chân nhân trên biển, đẩy nhanh quá trình tu luyện thành chân nhân. Lư Sinh và Hầu Sinh được Thủy Hoàng trọng thưởng cho ở lại quán dịch, sẵn sàng vào cung để Thủy Hoàng hỏi han.

Nào ngờ Thủy Hoàng là người hiếu động, ở mãi trong cung Hàm Dương thấy tẻ nhạt, mùa xuân năm thứ ba mươi nhăm bèn đến du ngoạn cung Lương Sơn, ở huyện Phù Phong. Một hôm Thủy Hoàng lên núi nhìn ra xa, trông thấy nghi trượng, ngựa xe, tôi tớ của Tả thừa tướng Lý Tư thanh thế hiển hách chẳng kém gì mình, bèn than thở: “Ông ta chẳng khác gì vua của một nước vạn cỗ xe rồi”. Có quan tùy tùng đem chuyện này nói lại với Lý Tư. Lý Tư cả sợ, cho dẹp bớt nghi thức. Biết chuyện, Thủy Hoàng tức giận cho rằng dứt khoát trong đám tùy tùng hôm đó đã có kẻ tiết lộ câu nói của ông với Tả thừa tướng, bèn ra lệnh ngay cho Ngự sử đại phu Phùng Kiếp tra xét việc này. Qua thẩm vấn, không có ai nhận, thế là Thủy Hoàng lập tức hạ chiếu chém tất cả ba mươi bảy người gồm hoàng môn, hoạn quan, cung nga có mặt trong chuyến theo hầu đi cung Lương Sơn hôm đó. Đạo sĩ Lư Sinh, Hầu Sinh bàn bạc riêng với nhau:

- Thủy Hoàng là người ngang ngược. Đánh diệt sáu nước, thôn tính thiên hạ, luôn làm theo ý riêng, cho rằng các bậc quân vương xưa nay không ai bằng mình. Chỉ tin dùng các quan nắm giữ hình ngục, ngục lại được sủng ái. Bảy mươi hai vị tiến sĩ chỉ để làm vì. Làm vua mà chỉ dùng hình phạt giết chóc để ra oai, trong triều ngoài nội trên dưới đều sợ mắc tội, chỉ mong giữ thân mình, không dám tận trung bảo vệ nước. Nhà vua đã hám quyền thế đến mức này, chúng ta hà tất phải đi tìm thuốc tiên cho ông ta làm gì? - Và hai người đã lặng lẽ trốn đi.

Thủy Hoàng nghe nói Lư Sinh, Hầu Sinh bỏ trốn thì đùng đùng nổi giận thét bảo: “Bọn Lư Sinh, Hầu Sinh là đồ vô lại, ta đối xử với họ không bạc, ban thưởng rất hậu hĩnh, vậy mà hôm nay lại phỉ báng ta, nói ta không nhân đức. Ta phải cho người xét hỏi bọn nho sinh ở Hàm Dương, xem họ có phải đã dùng lời lẽ yêu ma mê hoặc dân chúng, làm nguy hại sơn hà xã tắc không?”

Thủy Hoàng đã đích thân lệnh cho Ngự sử đại phu Phùng Kiếp tra hỏi từng nho sinh ở Hàm Dương. Các nho sinh không chịu nổi cực hình, đành phải tố giác lẫn nhau. Thủy Hoàng đích thân xét duyệt, lệnh chôn sống bốn trăm sáu mươi nhăm người tại Hàm Dương, đã can tội “phỉ báng”, “kéo bè kéo cánh”, “mê hoặc dân chúng”... Trong số này có nho sinh và cả đạo sĩ.

Đúng như câu nói đã được Khổng Tử cảnh báo: “Người quân tử có thể bị lừa dối theo cách của họ!”. Thủy Hoàng và Lý Tư nhằm trúng và lợi dụng những nhược điểm của nho sinh văn nhân là coi thường nhau, hay kêu ca oán thán, thường ngày thì bạo miệng, xảy chuyện thì nhút nhát. Thủy Hoàng đã kết hợp thủ đoạn cả cương và nhu, dụ dỗ, ép buộc bốn trăm sáu mươi nhăm nho sinh, đạo sĩ tố cáo, vạch tội lẫn nhau. Họ cứ tưởng rằng dù chủ động hay bị động, chỉ cần khai báo hoặc tố cáo “hành vi lời nói sai trái” là được miễn tội hoặc giảm nhẹ tội, cho nên đều cung khai, tố cáo hoặc nhận tội. Nào ngờ sau khi cung khai và ký tên, họ đều bị trọng tội và bị tử hình bằng cách chôn sống.

Sau khi nghe tuyên án, nỗi thất vọng, đau khổ, căm giận của họ không sao kể xiết, nhất là lúc vĩnh biệt người thân. Não nùng thay cảnh “Cha mẹ vợ con đi tiễn đưa, bụi mờ chẳng thấy cầu Hàm Dương. Níu áo giậm chân ngăn đường khóc, tiếng than vọng mãi tận trời xanh”!

Thủy Hoàng dựa vào ý kiến của Ngự sử đại phu Phùng Kiếp và Tả thừa tướng Lý Tư về vụ án nho sinh, đạo sĩ trên, lập tức hạ chiếu, xử cực hình chôn sống bốn trăm sáu mươi nhăm người này. Văn võ bá quan trong triều không ai dám nói gì, họ đều biết Thủy Hoàng đang trong cơn thịnh nộ, can gián chẳng những vô hiệu, mà còn có thể nguy hiểm đến bản thân, cho nên chỉ mong sớm được lệnh bãi triều, mau về nhà đóng cửa giữ mình. Vậy mà vẫn có một vị quan dám lên tiếng, đó là Phù Tô, con trưởng của Thủy Hoàng. Ông từ ban văn bước ra, tiến lên mấy bước, hô lớn một tiếng “Phụ hoàng!”. Sau đó vái dài quỳ xuống, khẩn thiết tâu:

- Phụ hoàng dẹp tan sáu nước, tới nay đã được mười năm, thiên hạ bước đầu ổn định, nhưng chúng dân nơi xa xôi vẫn chưa quy phục. Nay nên lấy lòng khoan dung đức độ rộng rãi để giáo hóa, để họ nghe theo và thần phục. Mà công đức giáo hóa thì Nho học đứng đầu, lấy nhân từ khoan thứ làm tư tưởng, lấy hiếu lễ làm gốc, tu thân tề gia, thì sẽ trung quân báo quốc. Nho sinh tiến sĩ khuyên ngăn, đều là vì phụ hoàng và xã tắc; lời nói có điều sai, lòng trung vẫn thấy rõ. Nếu xử cực hình, tội trạng quá nặng, e lòng dân xao xuyến, xã tắc không bình yên. Muôn vàn xin phụ hoàng nghĩ lại, khoan hồng xá tội. Nhi thần muôn vàn đội ơn. - Nói xong cất tiếng khóc ròng.

Những lời can gián thiết tha của Phù Tô không những chẳng mảy may lay chuyển được tính cách ngạo ngược của cha, mà đã chọc vào râu hùm. Thủy Hoàng cau mặt lại, giận dữ quát:

- Nho sinh, đạo sĩ phỉ báng triều chính, vu cáo khinh miệt trẫm, có mưu đồ gian trá, mê hoặc chúng dân. Ngự sử luận tội rất đúng, ai cho phép can dự vào? Ngươi thật to gan!

Phù Tô cảm thấy hơn bốn trăm con người này chết thật oan uổng, định nói thêm nhưng vừa buông được hai tiếng “Phụ hoàng” đã bị Thủy Hoàng quát bắt im ngay, và ra lệnh cho ông:

- Nhà ngươi đã làm mất thể thống, làm rối loạn việc triều chính, phải đi ngay Thương quận ở biên cương phía Bắc giúp Mông Điềm lo việc quân. Ngày mai lên đường, không được chậm trễ!

Sự việc đã thế này, Phù Tô biết chẳng thể nào cứu vãn được nữa, đành nuốt lệ khấu tạ phụ hoàng, bưng mặt khóc lóc ra đi.

Bốn trăm sáu mươi nhăm nho sinh, đạo sĩ mất hết hy vọng cải tử hoàn sinh đã bị chôn sống trong một hố lớn bên sông Vị Thủy, ngoại thành Hàm Dương.

Thủy Hoàng sau khi ngang ngược xử tử nho sinh, đẩy Phù Tô ra biên ải rồi, vẫn chưa nguôi cơn giận dữ. Từ việc đứa con đẻ của mình đã bất chấp nguy hiểm đứng ra xin cho nho sinh, Thủy Hoàng liên tưởng đến những người bất mãn với việc chôn học trò chắc chắn sẽ không ít, nhất là đám học trò của Khổng, Mạnh tuân theo sự dạy bảo của tổ tông: “Nếu vua coi bề tôi như chân tay, thì bề tôi coi vua như cha mẹ; nếu vua coi bề tôi như cỏ rác, thì bề tôi coi vua như kẻ thù”. Giờ đây, ông đã giết hại nhiều nho sinh như thế, thì những nho sinh coi ông như quân thù nhất định sẽ rất nhiều, nếu không tiêu diệt họ, thì đó là mối hiểm họa lớn nhất. Song những người này đã rút được bài học xương máu, rất ít phát biểu ý kiến bàn luận, không túm được sơ hở của họ thì không trị được họ, vì vậy phải đổi sang dùng cách khác mới có hiệu quả. Thế là Thủy Hoàng cho vời Lý Tư, Triệu Cao tới bí mật bàn bạc, vạch ra một kế hiểm độc, trái lẽ trời, ngược đạo lý, tức là chiếu chỉ cho các quận huyện trong cả nước: Vì lần này đã xử tử hơn bốn trăm nho sinh phạm tội, triều đình khẩn cấp cần người, tiến cử ngay những người Nho học giỏi giang tới kinh đô, xung vào làm việc tại các ban quan văn, sẽ được trọng dụng. Trải qua việc đốt sách trước đấy không lâu, các quận huyện đều biết rõ tình hình nho sinh địa hạt mình như lòng bàn tay, huống hồ đây là một dịp tốt để tỏ lòng trung thành với Thủy Hoàng, cho nên đều tức tốc tiến hành thi cử, chọn lựa đề bạt, nhanh chóng chuyển đám nho sinh này tới Hàm Dương, tất cả hơn bảy trăm người. Đúng thật là “hiền tài đều đã tới già trẻ đều đủ mặt”, quang cảnh thật vô cùng náo nhiệt. Thủy Hoàng hạ chiếu ban yến ở cung Hàm Dương để tiếp hơn bảy trăm vị đại nho, bá quan văn võ đều tham dự. Lọng cờ phơi phới, trầm đốt đầy triều, thật là một cảnh tượng tưng bừng. Hữu thừa tướng Phùng Khứ Tật dẫn đầu bá quan quỳ lạy Thủy Hoàng, tung hô vạn tuế, sau đó phát biểu chào đón hơn bảy trăm vị đồng liêu mới tới. Thủy Hoàng cũng nói mấy lời khích lệ. Đúng vào lúc mọi người đang đua nhau nâng chén rượu thịt hả hê, bỗng thấy một hoàng môn bưng chiếc khay có mấy quả dưa đến trước bàn tiệc tâu với Thủy Hoàng:

- Muôn tâu thánh thượng, ở thung lũng Mã ở Lệ Sơn có hiện tượng lạ, đang mùa đông mà vẫn trồng được nhiều dưa mùa hạ, ban ngự thiện đã mua về mấy quả báo tin vui với bệ hạ.

Lời tâu vừa dứt, mọi người bàn tán ầm ĩ, Thủy Hoàng giọng có vẻ nghi ngờ:

- Việc này rất lạ lùng, không biết là điềm gì đây?

Tất cả lại bàn tán xôn xao, mỗi người một ý, vô cùng sôi nổi, nhưng chẳng ai giống ai. Thủy Hoàng hào hứng nói:

- Mọi người ai cũng tài giỏi, rất khó nhất trí, tốt nhất là đến tận nơi, xem xem duyên cớ rút cục là thế nào!

Quần thần lập tức reo hò hưởng ứng, ăn uống vội vàng rồi kéo nhau lên xe, một đoàn vua tôi hơn một nghìn người ngồi trên hơn ba trăm chiếc xe, vung roi quất ngựa, một lát sau thì đến thung lũng Mã. Tới nơi, Thủy Hoàng tuyên bố, phần lớn những người ở kinh thành đã đến đây xem rồi, hãy để các nho sĩ mới tới được xem trước. Hơn bảy trăm nho sinh sau vụ đốt sách đã nản lòng ngao ngán, chỉ mong “giữ được tính mạng trong thời hỗn loạn, cầu mong gì nổi danh chư hầu”. Giờ đây, không những đã làm quan ở kinh đô lại còn được nhà vua trọng vọng, thật sự cảm thấy vô cùng sung sướng, phấn khởi, liền háo hức vội vàng đi xuống đáy thung lũng. Tới nơi ngắm nhìn thì quả nhiên thấy trên vạt đất khoảng nửa mẫu ở đây, các giàn dưa nối thành hàng luống rất gọn gàng, một vùng xanh mướt, trồng đủ các loại dưa. Theo thời tiết, lúc này đã là tiết trong đông, phần lớn đã có sương lạnh và mưa tuyết, thế mà nơi này lại ấm áp, dưa lên xanh tốt và trĩu trịt quả. Điều này thực sự khiến cho hơn bảy trăm nho sinh và kể cả lão tổ Khổng Phu Tử đều tự xấu hổ “không bằng ông già làm vườn”. Họ chỉ biết chăm chú nhìn, đi đi, lại lại quan sát, xem xét, suy nghĩ, thậm chí còn đưa ra những ý kiến này nọ để tranh luận với nhau.

Đúng vào lúc các vị học sĩ mải mê bàn cãi vì sao ở cái đất miền Bắc lạnh giá này lại nhiều dưa như vậy thì nghe thấy những tiếng động ầm ầm. Trong nháy mắt, từ đỉnh thung lũng khắp bốn phía gỗ đá lao thẳng vào họ. Mấy trăm con người kêu thét ầm ĩ, hoảng hốt chạy tán loạn, nhưng gỗ và đá cứ như núi lở ào ào lao xuống, khiến đám thư sinh yếu ớt chạy không thoát, tránh không nổi, chỉ biết kêu khóc thảm thiết, kẻ vỡ đầu gãy chân, người máu tan thịt nát, chết rất bi thảm. Hơn bảy trăm nho sinh bị gỗ đá bất ngờ tấn công đã chết oan uổng. Liệu trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy họ có kịp nhận ra là mình đã trúng độc kế “nhử đèn giết bướm”, dùng lợi lộc làm mồi nhử của tên bạo chúa Thủy Hoàng?

Thung lũng Mã Lệ Sơn do địa nhiệt mà có nhiệt độ khá cao, dưa trồng ở đây là để cung cấp cho ban ngự thiện dùng. Thủy Hoàng lợi dụng hiện tượng đặc biệt này, trên bờ thung lũng đã để sẵn rất nhiều gỗ cây và đá tảng, sau đó lừa đám nho sinh xuống đáy thung lũng xem dưa, nhân lúc họ không đề phòng đã đột nhiên tung gỗ đá xuống, để chôn sống họ. Vụ án thê thảm này được các sử gia gọi là vụ thung lũng nóng chôn sống học trò.

Trong số bốn trăm sáu mươi nhăm nho sinh bị Thủy Hoàng chôn sống lần thứ nhất có rất ít đạo sĩ, lại thêm Từ Phúc, Lư Sinh, Hầu Sinh đã không hết lòng vì ông, khiến ông cảm thấy trường sinh không còn hi vọng, bản thân cuối cùng rồi cũng sẽ chết, thế là Thủy Hoàng chủ trương tận hưởng mọi khoái lạc trong những năm còn sống. Vì thành Hàm Dương dân số quá đông, nhà ở khó khăn, hoàng cung chật hẹp, chơi bời hưởng lạc không thỏa thích, Thủy Hoàng liền nghĩ tới việc xây dựng một cung A Phòng tại Thượng Lâm Uyển trên bờ Nam sông Vị Thủy ở ngoại thành. Đây vốn là nơi cụ tổ Huệ Văn Vương chọn xây cung điện. Thủy Hoàng cho mở rộng diện tích và quy mô, đầu tiên xây dựng tiền điện A Phòng, đông tây rộng năm trăm bộ, nam bắc dài năm mươi trượng, bên trên ngồi được hàng vạn người, dưới dựng được một lá cờ đại kiểu bình phong dài năm trượng. Vòng ngoài là hành lang chạy được xe, từ dưới điện chạy thẳng tới Nam Sơn. Trên đỉnh Nam Sơn xây một cửa cung, xây thêm một đường kép để đi lại hai chiều, từ cung A Phòng vắt ngang qua sông Vị Thủy thông tới cung Hàm Dương, để tượng trưng thiên cực. Đường hành lang tách rời khỏi mặt đất, hình thế như lơ lửng trên không. Chủ thể cung A Phòng xây dựng ở Lệ Sơn, đá lấy ở Bắc Sơn, nguyên vật liệu xây dựng vận chuyển từ hai quận Thục, Kinh về. Quần thể kiến trúc chính cung A Phòng trong Sơn Hải Quan có ba trăm cung thất, ngoài Sơn Hải Quan có hơn bốn trăm cung thất, chiều dài tới hai trăm dặm. Trong cung có hai trăm bảy mươi đạo quán; đường giáp hai chiều nối liền với đường hành lang, trong đó căng đầy màn trướng, có đầy đủ chuông trống, mỹ nhân để ca múa.

Cung chính A Phòng chiều đông tây ba dặm, chiều nam bắc năm dặm, trong sân chứa được mười vạn người, rượu chở bằng xe, thực phẩm thì dùng ngựa thồ; nghìn người hát vạn người họa theo. Cung A Phòng cao mấy chục nhẫn (một nhẫn bằng tám thước), đông tây năm dặm, nam bắc nghìn bộ, xe chạy đường vòng tròn, bốn ngựa cùng thắng cương phi song song, cờ quạt phấp phới, thông suốt thoải mái. Còn có thêm cả ly cung biệt thự, rải ra khắp núi khắp khe, đâu đâu cũng là đường xe ngang dọc đan xen nhau, tổng chiều dài hành lang nối thông Lệ Sơn dài tới tám trăm dặm.

Tiền điện A Phòng xà làm bằng gỗ lan, cửa bằng từ thạch, nếu có người giấu vũ khí đi vào cửa sẽ bị từ thạch hút chặt, chức năng của cửa thật thần kỳ. Thiết bị trong cung sang trọng, vàng bạc châu báu không sao kể hết. Điều khiến người ta kinh ngạc nhất là cây đèn năm nhánh bằng ngọc đen, cao bảy thước năm tấc khắc hình một con rồng cuốn, miệng ngậm đèn, khi đốt đèn, vẩy con rồng phập phồng khép mở, giống như sống thật, ánh sáng rực rỡ như muôn sao lấp lánh, cả tòa cung thất sáng bừng cực kỳ tráng lệ. Trong cung có mười hai người đúc bằng đồng, ngồi xếp hàng trước bàn tiệc, cao ba thước, tay cầm những nhạc cụ như đàn trúc, ống sinh, ống sáo, tất cả đều mặc quần áo rất đẹp, sống động như thật. Phía dưới bàn tiệc có hai chiếc kèn đồng, miệng kèn quay lên trên cao tới mấy thước, vươn dài ra phía sau bàn tiệc. Trong đó có một kèn rỗng một kèn nữa, trong có một dây thừng to bằng ngón tay, khi biểu diễn, một người thổi kèn rỗng, người nữa kéo chiếc dây thừng, thế là tất cả các nhạc cụ đều đồng thời tấu lên, như có người diễn tấu thật, nghe rất là hay. Trên kỷ đặt một đàn cầm dài sáu tấc, có mười ba dây, hai mươi sáu chiếc cầm huy, đều khảm nạm bằng đá quý bảy màu, khắc tên “Nhạc Phiên Dư”. Còn một chiếc sáo ngọc nữa, dài hai thước ba tấc, hai mươi sáu lỗ, thổi lên thì thấy ngựa xe rừng núi, nghe văng vẳng thấy tiếng bánh xe lăn lọc cọc; ngừng thổi thì cảnh tượng ấy cũng không còn, khắc tên “Nhạc Thiều Hoa”. Nghe nói đặc biệt kỳ lạ là trong nội cung treo một tấm gương, rộng bốn thước, cao năm thước chín tấc. Trong ngoài hai mặt đều trong suốt. Người soi thẳng vào gương thấy hiện ra hình đảo ngược. Lấy tay ấn tim để soi thì lục phủ ngũ tạng đều nhìn thấy rất rõ. Nếu nội tạng có bệnh, đặt tay vào tim mà soi, thì phát hiện được bệnh ở bộ phận nào. Con gái có tà ý soi gương thấy túi mật to lên, tim động đậy. Còn một tấm rèm treo ở cửa cung, nghe nói của đạo sĩ Từ Phúc dâng cho Thủy Hoàng. Nếu Thủy Hoàng để viên ngọc “văn châu” trên đầu gối thì rèm tự động buông xuống; người đi khỏi đó, rèm lại tự động cuốn lên, không cần móc treo, cho nên gọi là “rèm không móc”. Những thứ quý hiếm kỳ lạ này hai nghìn năm trước đã chế tác ra, đạt tới trình độ tuyệt diệu hơn cả thần thánh, thật sự khiến người ta thán phục!

Công trình khổng lồ này chưa hoàn thành thì Thủy Hoàng đã qua đời, Tần Nhị Thế tiếp tục xây dựng. Sau này Hạng Vũ vào Sơn Hải Quan, phóng hỏa đốt cung thất nhà Tần cháy liền ba tháng, cung A Phòng cũng bị thiêu trụi.

Thủy Hoàng không những muốn khi còn sống phải được hưởng thụ cực kỳ xa hoa, mà còn muốn sau khi chết tiếp tục được phú quý để tự tôn vinh mình, bèn cho xây dựng một tòa lăng mộ của mình ở Lệ Sơn. Lệ Sơn còn có tên là Lam Điền, bắc có nhiều vàng, nam có nhiều bạc, Thủy Hoàng chọn nơi này để xây lăng tẩm cho mình. Xẻ núi phá đá, hút cạn nước ba dòng suối ngầm rồi cho bịt chặt lại, lấy đồng làm quách ngoài, chu vi rộng tới hơn ba mươi dặm. Mộ cao hơn mặt đất trên năm mươi trượng, chu vi năm dặm. Trên vách trong mộ vẽ cảnh thiên văn tinh tú, nền mộ thì dùng thủy ngân tạo nên bình thế địa lý của Tứ Giang, Bách Xuyên, Cửu châu. Bên trong chỗ nào cũng có những công trình kiến trúc cung đình, đạo quán, đặt các ghế ngồi cho hàng trăm quan và đại thần, cất giữ tất cả những đồ quý giá kỳ lạ. Đồng thời lệnh cho các thợ giỏi nghề khéo tay cài đặt cung nỏ tự động, kẻ nào đến gần thì bị bắn chết. Trong mộ đèn nến làm bằng mỡ nhân ngư, có thể sáng mãi không tắt. Sau này Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ đánh phá Hàm Dương, mở huyệt mộ, dùng tới ba mươi vạn người chở các đồ vật trong đó đi ba mươi ngày vẫn không chở hết. Sau đó, bọn đào mộ trộm ở Quan Đông phá hủy kim loại quách ngoài ăn trộm đồng. Đám người chăn cừu vào trong huyệt mộ tìm cừu lạc, sơ ý đốt cháy đồ đạc trong đó, cháy liền chín mươi ngày vẫn chưa tắt.

Cung điện và lăng mộ Thủy Hoàng cho xây dựng cực kỳ đồ sộ nhưng cũng cực kỳ hoang phí. Đã huy động về đây hơn bảy mươi vạn tù nhân làm lao dịch, kéo dài suốt gần hai mươi năm mới hoàn thành. Dân số nước Tần thời bấy giờ khoảng hai mươi triệu, số bị bắt đi xây dựng cung điện, lăng mộ cộng tất cả một triệu năm trăm nghìn người, khoảng năm mươi vạn đi đồn thú ngũ lĩnh biên giới phía Nam, ba mươi vạn quân theo Mông Điềm phòng thủ Hung Nô, năm mươi vạn người xây đắp Trường Thành, cộng thêm các tạp dịch khác, tổng cộng khoảng ba triệu người, bằng mười lăm phần trăm tổng dân số. Sử dụng sức dân to lớn và bức bách như vậy, nhân dân không thể nào chịu đựng nổi. Nhất là với luật pháp hà khắc, biết bao người vô tội trở thành “người có tội”, phải đi làm lao dịch không công nặng nhọc, nhân dân oán giận căm ghét ngày một nhiều. Vì vậy vào cuối những năm Thủy Hoàng, khởi nghĩa nông dân rục rịch khắp nơi, chỉ đợi thời cơ là bùng nổ.