← Quay lại trang sách

HỒI THỨ BA MƯƠI CAO TIỆM LY GẨY ĐÀN TRÚC GIẾT VUA-TẦN THỦY HOÀNG SOI GƯƠNG GIẾT PHI TẦN--------

Thói kiêu căng xa xỉ, hoang tàn vô độ của Thủy Hoàng trong cung và sự xa hoa về cung điện, lăng mộ thì ông ta vượt rất xa các tiên vương đời Tần, nhưng lại coi đó là việc làm rạng rỡ thêm công đức tổ tông để khoe khoang, đề cao mình là ông vua đã diệt tan sáu nước, thống nhất thiên hạ. Sau mỗi lần diệt được một nước chư hầu, Thủy Hoàng lại bắt họa sĩ vẽ một cung điện tiêu biểu nhất của nước đó, sau đó cho xây dựng một tòa cung điện đúng như thế ở phía Bắc thành Hàm Dương. Trải qua mười năm, những tòa cung đình chủ yếu của sáu nước chư hầu: Hàn, Triệu, Yên, Ngụy, Sở, Tề đều được bắt chước đúng mẫu xây dựng tại Hàm Dương, cộng tất cả là 145 cung thất, giam giữ tại đấy trên một vạn mỹ nữ. Thủy Hoàng thường kéo đám cận thần văn võ đến thăm cung điện của một nước nào đó, ôn lại niềm kiêu hãnh tự hào của mình, hoặc có khi ngự giá tới cung cấm một nước, chọn công chúa, phi tần nước đó để thả sức hành lạc truy hoan, thỏa mãn dục vọng. Thể phách dồi dào của Thủy Hoàng không chỉ hạn chế ở lạc thú giường chiếu, hoan lạc mây mưa, ông còn rất thích săn bắn, lấy tài phi ngựa phóng nhanh, giương cung bắn nỏ để phô trương tư thế oai hùng của bậc mã thượng quân vương. Thượng Lâm Uyển ở Hàm Dương vốn dĩ là nơi săn bắn khá tốt rồi, nhưng Thủy Hoàng vẫn chê là nhỏ hẹp, mơ tưởng mở rộng khu vực săn bắn về phía Đông tới Hàm Cốc Quan, Tây đến Ung huyện và Trần Thương. Khi ông nói ý đồ này cho thừa tướng Vương Quán và Quý Trạng, cả hai đều cảm thấy rất khó xử. Vì Ngự Uyển mở rộng tới mức ấy thì sẽ phải phá hủy hàng nghìn hàng vạn mẫu ruộng tốt, phải di chuyển mấy chục vạn hộ dân di nơi khác, làm như vậy sẽ khiến dân chúng căm phẫn, triều đình sẽ ở vào thế bị động. Họ đã đem việc đó để khuyên ngăn Thủy Hoàng, nhưng đã không được chấp nhận mà còn nhận được lệnh phải lập tức thi hành ngay. Hai vị thừa tướng biết, tiếp tục can ngăn không những vô hiệu quả, mà còn mang tội vào thân. Sau khi suy nghĩ kỹ càng, bèn quyết định tìm một viên quan chức nhỏ nhưng có vai trò lớn giúp đỡ, ông ta là lộng thần Ưu Chiên rất được Thủy Hoàng sủng ái.

Lộng thần là một sản phẩm quái dị trong cung đình cổ đại, họ không phải là quan lại chính thức, chỉ nhờ tướng mạo khác người (như Di Tử Hà thời Tống Linh Công) chuyên mua vui cho vua bằng trò vuốt ve, nịnh hót hoặc dựa vào nhanh trí, hài hước để vua giải trí bằng tài vặt. Loại người này thường rất khéo can gián vua, và có hiệu quả tích cực. Điển hình là việc Ưu Mạnh nước Sở thời Chiến Quốc, hóa trang thành thừa tướng Tôn Thúc Ngao đã chết, khuyên giải Nhượng Vương hăng hái xây dựng đất nước. Hai vị thừa tướng Vương và Quý tính đến chuyện phải nhờ Ưu Chiên giúp đỡ, đây là một lộng thần kiểu Ưu Mạnh. Ông ta không những địa vị thấp kém, mà dáng người cũng bé nhỏ, lùn không đầy năm thước nhưng ông lại cực kỳ thông minh mưu trí, đã giỏi đàn ca lại có tài ăn nói, rất được Thủy Hoàng tin yêu, một lần Thủy Hoàng thết tiệc quần thần, Ưu Chiên đến diễn trò trong bữa tiệc. Lát sau mưa ập đến, Ưu Chiên thấy anh em binh lính gác ngoài lan can đứng dưới mưa rét run, động lòng thương xót, qua cửa sổ hỏi vọng ra:

- Các anh có muốn tránh mưa chốc lát không?

Anh em trả lời:

- Được thế thì tốt quá.

Ưu Chiên bảo:

- Chờ một lát, tôi sẽ nói chuyện với các anh. Các anh trả lời thật nhanh là được.

Một lúc sau, quần thần trên điện cúi chào Thủy Hoàng, tung hô vạn tuế. Ưu Chiên vội chạy ra phía lan can lớn tiếng gọi:

- Các anh lính gác ơi!

Đối phương lên tiếng ngay:

- Này, ông nói gì vậy?

Ưu Chiên cố tình giễu cợt bảo:

- Cao to vạm vỡ như các anh có được tích sự quái gì. Vẫn phải đứng dầm mưa ngoài đó. Tôi tuy thấp bé, lại được nghỉ ngơi đàng hoàng trong này đây!

Thủy Hoàng nghe thấy họ chuyện trò với nhau, thấy lính gác ngoài hành lang quả thực quá vất vả, liền ra lệnh đổi chế độ lính gác hành lang thành ba ca, nửa ngày đổi gác một lần, lính gác hành lang đã vô cùng cảm kích trước sự quan tâm giúp đỡ của Ưu Chiên. Chính vì vậy, Vương Quán, Quý Trạng tìm gặp Ưu Chiên, nhờ ông ta khuyên can Thủy Hoàng, thu hồi lại mệnh lệnh và Ưu Chiên đã nhận lời.

Ưu Chiên tới xin gặp Thủy Hoàng, làm ra bộ rất vui mừng, khấu đầu tạ ơn Thủy Hoàng và nói:

- Thần thay mặt tướng sĩ Hàm Cốc Quan tạ ơn bệ hạ.

Thủy Hoàng hỏi:

- Vì sao vậy?

Ưu Chiên cố làm ra vẻ nghiêm trang đáp:

- Bệ hạ chẳng phải là muốn mở rộng bãi săn bắn tới tận Hàm Cốc Quan đó sao? Vậy là các tướng sĩ sẽ được giải giáp trở về đồng ruộng.

Thủy Hoàng lại hỏi vì sao, Ưu Chiên giọng khôi hài:

- Bãi săn bắn nuôi rất nhiều hươu nai, nếu quân thù kéo tới chúng sẽ dùng sừng húc là có thể thắng địch, hỏi còn cần quân đội làm gì nữa?

Thủy Hoàng khi đó mới hiểu ra thâm ý của lộng thần, liền cả cười và phán rằng:

- Nhà ngươi đã chiếu bí ta rồi đấy! Thôi được, Thượng Lâm Uyển sẽ không mở rộng nữa. Hai vị thừa tướng Vương, Quý thật không bằng tên quan nhãi nhép nhà ngươi!

Ưu Chiên đã giành được thiện cảm của Thủy Hoàng bằng sự thông minh nhanh trí, nói năng khéo léo. Ông ta còn chú ý quan sát cử chỉ ngôn ngữ của Thủy Hoàng để hành động sao cho thật sự phù hợp với ý thích của Thủy Hoàng. Biết Thủy Hoàng tính cách bạo ngược và dễ nổi giận, nhưng lại thích âm nhạc, Ưu Chiên liền hợp tác các nhạc công, chọn những lúc thích hợp diễn nhạc khúc để tâm tình Thủy Hoàng vui vẻ, tiêu sầu giải muộn. Một hôm, ông có việc ra phố, đi qua trước quán rượu Tây Kinh nghe thấy tiếng đàn trúc vọng ra, giai điệu du dương, kỹ thuật chơi đàn tuyệt diệu, là một nghệ nhân như ông cũng chưa từng nghe thấy bao giờ, liền không đừng được, bước vào. Một ông già đã quá tuổi tri thiên mệnh, ngồi ngay ngắn trước bàn, nhắm mắt tập trung tinh thần, đang diễn tấu khúc nhạc nổi tiếng “Cao sơn lưu thủy”. Mọi người ngồi vây quanh chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng tiếng khen lại rộ lên. Ưu Chiên làm quan trong ban nhạc cung đình, tuy không phải tay cừ nhưng cũng rất sành nghề và biết khá rõ tình hình nhạc công dân gian trong thành Hàm Dương, nhưng người chơi đàn giỏi này thì ông chưa gặp bao giờ, liền tò mò hỏi đám thính giả mới biết ông này là nghệ nhân giang hồ gần đây mới từ ngoài Sơn Hải Quan tới Hàm Dương.

Ưu Chiên vốn định nghe thêm một chút nữa, nhưng thấy đã muộn liền rời quán rượu về cung. Đúng tối hôm đó ban nhạc được lệnh vào cung trình diễn một màn ca múa nhỏ, Ưu Chiên thấy người gẩy đàn trúc ban nhạc thật sự kém xa người ở quán rượu Tây Kinh, liền nhân lúc chuyển tiết mục tâu với Thủy Hoàng tình hình được thấy ngoài phố ban chiều. Thủy Hoàng nghe nói vậy cũng rất thích thú, liền ra lệnh cho quan Phụng Thường hiểu biết âm luật, quản lý lễ nhạc tông miếu, đến quán rượu Tây Kinh tìm hiểu thêm. Phụng Thường đem theo mấy nhạc công trong ban nhạc cung đình, đóng vai thực khách bình thường vào quán Tây Kinh uống rượu, ngồi lẫn trong đám thính giả nghe vị nghệ nhân cao tuổi chơi đàn, đích thực là tài nghệ khác thường, siêu việt hơn người. Ông lập tức hỏi dò chủ quán, được biết ông già họ Tân tên Thành Nghĩa, hơn tuần trước đến Hàm Dương. Phụng Thường tức tốc về cung tấu trình với Thủy Hoàng. Thủy Hoàng thấy Phụng Thường và các nhạc công ca ngợi hết lời tài nghệ chơi đàn của nghệ nhân ấy cũng thấy mến mộ tài năng nghệ thuật, bèn lệnh cho Phụng Thường đón Tân Thành Nghĩa vào cung trình diễn cho mình nghe, xem tài nghệ của ông ta cao tới trình độ nào.

Phụng Thường đi một lát đã đón được cụ Tân Thành Nghĩa về. Sau khi làm đại lễ chào Thủy Hoàng, Tân Thành Nghĩa được ban cho ngồi một bên. Thủy Hoàng mắt lim dim ngắm nhìn người nhạc công già, ông cụ thân hình mảnh khảnh, gương mặt thanh tú, toát lên phong độ thanh cao cương nghị, hai mắt sáng quắc, mũi cao, miệng rộng, sâu hẹp, phong thái thật khác thường, khiến ai cũng phải tôn kính.

- Nghe Phụng Thường tâu trình, tiên sinh tài nghệ cao siêu người nghe rất khâm phục, nhưng chưa được biết tôn tính đại danh cũng như quê quán tiên sinh ở đâu? - Thủy Hoàng thấy ông già phẩm cách thanh tú khác người, liền khách khí nói như vậy.

Ông già chắp tay vái dài, cung kính trả lời:

- Thảo dân là Tân Thành Nghĩa, thứ dân lưu tán Tây Chu. Vốn là nhạc công cung đình, nhà Chu mất thì sống ẩn dật ở Chung Nam Sơn.

Thủy Hoàng nghe xong, bất giác có phần nghi ngờ liền hỏi tiếp:

- Tiên sinh đã xa lánh bụi trần, vì sao lại đến kinh đô của ta gẩy đàn rong trên phố?

Tân Thành Nghĩa trả lời rất từ tốn:

- Cái năm nước mất thành tan, tự nghĩ mình làm việc cho nhà Chu, chỉ sợ đại Tần không tha mạng, cho nên trốn tránh không dám lộ mặt. Từ ngày bệ hạ diệt sáu nước, kiêm tính thiên hạ, xã tắc yên bình, muôn dân ca ngợi công đức, thảo dân vô cùng cảm phục liền bỏ núi rừng, nay đến kinh đô đại quốc để chiêm ngưỡng cảnh tượng thịnh trị. Vì tiền mang theo đã hết, đành phải đến quán hành nghề độ nhật.

Thủy Hoàng nghe Thành Nghĩa nói hợp tình hợp lý, nhất là lại hết lời ca ngợi công lao sự nghiệp của mình thì vô cùng thích thú và không nghi ngờ gì nữa, lập tức đi vào chuyện chính, ân cần nói với ông:

- Duyên cớ là thế, mới khiến tiên sinh nổi tiếng kinh sư. Nay mời được tiên sinh vào cung, hãy trình diễn một bản nhạc để quả nhân được thưởng thức tiếng đàn thanh cao.

Tân Thành Nghĩa vội đứng dậy vái dài, cung kính thưa:

- Nay được bệ hạ không xua đuổi, thảo dân xin gắng sức dâng chút tài mọn! - Nói rồi lấy chiếc đàn trúc trong túi vải đặt ở ghế bên cạnh ra.

Thủy Hoàng sai cung nữ đốt hương, đặt lên kỷ án. Tân Thành Nghĩa ngồi ngay ngắn, chỉnh lại dây đàn, lấy chiếc que ngà nhỏ thon dài hai thước gõ liền mấy tiếng lên dây đàn, thấy âm đã chuẩn liền nhắm mắt dưỡng thần một lát, rồi mới từ từ mở mắt, tập trung tinh thần, nâng chiếc que ngà lên bắt đầu trình diễn. Nhạc khúc ông trình diễn là “Cao sơn lưu thủy” được các nhạc sĩ tôn làm tác phẩm thần kỳ, nổi tiếng vì tình bạn sống chết có nhau giữa Bá Nha và Chung Tử Kỳ. Giai điệu và đoạn mạch của bản nhạc người đời ai cũng biết. Chính vì vậy nên việc diễn tấu rất khó đạt tới trình độ khiến mọi người phải khâm phục, nhưng ông già Tân Thành Nghĩa đã trình diễn rất thoải mái, điêu luyện thể hiện núi cao chọc trời thì giai điệu hùng hồn bay bổng, vút cao tráng lệ; mây trắng lượn lờ giữa núi non thì tiếng đàn chuyển sang dìu dặt, vời vợi; khi thể hiện dòng suối róc rách thì tiếng đàn tích tịch tình tang, ròn rã trong sáng... Đúng là “Đàn ta gẩy như ngàn thông vi vút. Tắm hồn người trong lòng suối mênh mang. Giữa tiếng chuông khuya ngân nga vang vọng. Thấy non xanh nhập cảnh chiều tà. Lãng đãng mấy trùng, mây trời thu...”. Tất cả mọi người có mặt đều vô cùng cảm động, mắt rưng rưng lệ. Thủy Hoàng lại càng xúc động hơn, ông đứng lên chắp tay cảm tạ Tân Thành Nghĩa:

- Tiên sinh tài nghệ tuyệt vời, thật là bậc đại sư trong giới âm nhạc thời nay. Nghe tiếng đàn tâm hồn thấy sảng khoái tan hết ưu sầu, lòng dạ vui vẻ lâng lâng!

Rồi Thủy Hoàng bèn quyết định giữ ông già Tân Thành Nghĩa lại trong cung, ban cho nhà ở để có thể sẵn sàng triệu tới trình diễn mua vui cho mình. Ông già Tân Thành Nghĩa cũng không khước từ, chỉ xin về lữ xá lấy hành lý tùy thân.

Thủy Hoàng liền cử Phụng Thường đi cùng để tiện đón ông vào nội cung. Khi Tân Thành Nghĩa cùng Phụng Thường trở lại hoàng cung, bị kiểm tra rất chặt. Lính cấm vệ thấy hành lý của ông rất đơn sơ, riêng cây đàn trúc thì rất nặng nên muốn cậy ra xem. Tân Thành Nghĩa giải thích bên trong có một khối chì để cho không gian hộ âm nhỏ đi, đàn trúc nặng hơn thì âm chất càng đậm đà, sâu lắng hơn. Sau khi tiến hành so sánh với cây đàn trúc của ban nhạc cung đình, thấy quả nhiên đúng như vậy mới cho ông vào cung. Ông được bố trí ở một căn phòng nhỏ yên tĩnh, có trang trí thêm mấy chậu cây cảnh, trong lò đốt hương, tràn trề một không khí thanh nhã yên tĩnh.

Ông già Tân Thành Nghĩa sau khi vào cung luôn được vời đến thư phòng hoặc tẩm cung tấu nhạc cho Thủy Hoàng và một số ít cận thần nghe. Ông không những đàn thạo các nhạc khúc cổ mà ngay cả nhạc tông miếu như “Đăng ca”, “Hưu thành”, “Vĩnh an” của Thúc Tôi Thông, “Thọ Nhân Nhạc”, “Ngũ Hành Vũ”, “Chiêu Dung Nhạc”, “Lễ Dung Nhạc” dược sáng tác sau khi Thủy Hoàng lên ngôi, ông đều trình diễn rất điêu luyện, điều đó khiến vua tôi Thủy Hoàng cảm thấy rất đỗi quen thuộc và thân thiết, càng có tình cảm tốt đối với Tân Thành Nghĩa, số lần vời đến cũng ngày càng nhiều hơn.

Một hôm, khi Tân Thành Nghĩa đang tấu nhạc cho Thủy Hoàng và vài người nữa trong nội cung nghe thì Triệu Cao nét mặt căng thẳng tới rỉ tai mấy câu với Thủy Hoàng. Sắc mặt Thủy Hoàng biến đổi ngay, ông quát to và lệnh cho quân cận vệ cung đình bắt ngay Tân Thành Nghĩa:

- Quân ăn cướp to gan dám mạo danh, hóa ra ngươi là Cao Tiệm Ly bè đảng của Thái tử Đan nước Yên.

“Tân Thành Nghĩa” không hề giấu giếm nói ngay:

- Thảo dân đúng là Cao Tiệm Ly, bệ hạ vì sao lại biết?

Tất cả những người có mặt nghe trả lời như vậy thảy đều giật mình kinh hoàng.

Thì ra vị đại sư âm nhạc này chính là Cao Tiệm Ly. Khi Kinh Kha đâm vua Tần không được đã anh dũng hy sinh, Thủy Hoàng gửi giấy truy nã đi các nơi, treo giải thưởng lớn để bắt Cao Tiệm Ly về xử tội. Để tránh tai họa và cốt để báo thù cho người bạn đã chết Kinh Kha, ông trốn khỏi nước Yên, đổi tên thành “Tân Thành Nghĩa”, lưu lạc lang thang đến thành Tống Tử nước Triệu, làm đầy tớ cho một quán rượu, nhẫn nhục sống qua ngày, cam chịu mọi vất vả khổ cực. Một hôm nghe thấy trên sảnh đường có vị khách gẩy đàn trúc, bất giác thấy xao xuyến trong lòng bèn lảng vảng ngoài cửa lắng nghe và thỉnh thoảng cũng có lời bình phẩm chỗ này chơi rất hay, chỗ nọ không ra gì. Một đầy tớ khác liền đi nói với ông chủ rằng người đầy tớ già ấy là một người biết âm nhạc, đã lén chê bai này nọ. Ông chủ liền bảo “Tân Thành Nghĩa” trình diễn, quả nhiên tất cả đều hết sức ca ngợi và mời ngồi vào mâm cùng uống rượu.

Cao Tiệm Ly nghĩ, lâu nay che giấu tên tuổi, sống cho qua ngày, cũng chẳng được tích sự gì. Từ đó ông bèn lấy cây đàn trúc đã giấu kỹ nhiều năm ra và thường xuyên tới gặp khách khứa. Tất cả đều rất kinh ngạc ngưỡng mộ trước phong độ khác thường và gương mặt rạng rỡ của ông. Cao Tiệm Ly vừa gẩy đàn vừa hát, ai nghe cũng xúc động rơi lệ, thở vắn than dài. Cũng từ đó, Cao Tiệm Ly không che đậy giấu giếm gì nữa, với thân phận một kẻ chơi đàn hát rong ông đến thành Hàm Dương, cuối cùng tài nghệ nổi danh Tây Kinh, được triệu vào cung và được Thủy Hoàng quý nể. Do trong cung được canh phòng cẩn mật, Cao Tiệm Ly đã mấy lần định giết Thủy Hoàng mà vẫn chưa có cơ hội hạ thủ. Vì tài nghệ ông cao siêu, ban nhạc cung đình nhiều lần cử nghệ nhân đến ngồi nghe sau tấm bình phong nơi trình diễn. Trong số đó có mấy nhạc công cung đình nước Yên cũ đã nhận ra diện mạo chân tướng ông, liền tố cáo với Trung xa phủ lệnh Triệu Cao, Triệu Cao tâu trình với Thủy Hoàng và thế là Cao Tiệm Ly đã bị bắt.

Thủy Hoàng thấy Cao Tiệm Ly thản nhiên thừa nhận thì tức giận quát hỏi:

- Kinh Kha chết rồi, quả nhân treo trọng thưởng để lấy đầu nhà ngươi, lẽ nào ngươi không biết tai họa mất đầu hay sao?

Cao Tiệm Ly bình tĩnh trả lời:

- Dĩ nhiên là biết nên mới mai danh ẩn tính, sống chui lủi cho tới bây giờ.

- Đã may mắn thoát chết, sao còn đội tên giả chui vào hoàng cung? Hẳn là muốn tìm dịp hạ thủ quả nhân, báo thù cho Kinh Kha? - Thủy Hoàng truy vấn.

- Kẻ bề tôi phải hết lòng vì chủ, Kinh huynh đã chết, thỏ chết thì cáo sao lại không buồn, cùng một hội tất phải thương nhau, nếu muốn báo thù cho Kinh huynh, âu đó cũng là lẽ thường tình của người đời. Nay sáu nước đã bị diệt, thiên hạ đã nhất thống, bệ hạ làm vua cả nước, mọi người trong thiên hạ đều là thần dân nhà vua. Thảo dân đối với nhà vua, không còn coi là kẻ thù nữa. Lại được biết bệ hạ trọng tài năng, yêu thích âm nhạc, nên bất chấp hiểm nguy, giấu họ tên vào cung để dâng hiến tài nghệ. - Cao Tiệm Ly ung dung đối đáp, không một chút sợ hãi.

- Nhưng nhà ngươi là bạn cũ của Kinh Kha, quả nhân không thể không đề phòng được, sẽ khép nhà ngươi vào tội chết.

Thủy Hoàng vẫn không quên hận thù cũ.

- Thù oán lâu ngày đã thành dây oan, khó bề cởi bỏ. Thảo dân đã có gan đến đây, cũng chẳng muốn sống trở về. Mong bệ hạ ban cho cái chết, khi gặp Kinh huynh dưới suối vàng cũng không hổ thẹn! - Cao Tiệm Ly bình tĩnh như thường, coi cái chết như được trở về.

Mấy cận thần Lý Tư, Triệu Cao và Vương Ly thấy Cao Tiệm Ly không tỏ sợ hãi trước cái chết, thì cho rằng không thể tha tội được, liền tâu với Thủy Hoàng:

- Người không sợ chết, hổ không sợ oai. Nay gã đã bị ta bắt, nhưng e rằng rất khó quy thuận. Để cho gã được sống mà vẫn chờ thời cơ ra tay, thì an nguy của bệ hạ khó lường, chi bằng giết đi cho khỏi hậu họa.

Thủy Hoàng nham hiểm trả lời:

- Làm sao quả nhân lại không biết nuôi hổ di họa! Nhưng gã đã như con thú trong lồng, con cá trên thớt, giết đi thật quá dễ dàng. Nhưng tài nghệ đàn ca của gã thật tuyệt vời, xứng đáng tôn sư một thời, nếu đẩy hắn đến cái chết thì giai điệu âm thanh tuyệt diệu sẽ chẳng còn nữa...

- Thánh thượng vì mến yêu tài nghệ của gã mà tha tội chết, nếu gã biết cảm tạ ơn đức thì đấy là điều rất đáng mừng. Nhưng nếu gã không từ bỏ ý định giết vua, lấy oán trả ơn, sợ rằng rất khó đề phòng, và trở tay không kịp, rất mong bệ hạ nghĩ lại. - Bọn Lý Tư ra sức khuyên can Thủy Hoàng nên giết Cao Tiệm Ly để trừ hậu họa.

- Lời của chư khanh đã chứng tỏ lòng trung thành đối với trẫm, thật đáng khen. Nếu gã thật đáng lo như chư khanh nghĩ, trẫm cũng có diệu kế khiến gã có âm mưu cũng không thể nào thực hiện được. Và rồi gã phải chìm trong bể khổ, chẳng tìm được bến bờ, sẽ chẳng khác gì như chim trong lồng, chó trong nhà để trẫm chơi đùa mà thôi. - Thủy Hoàng khen ngợi sự quan tâm của mấy vị cận thần, nhưng không hề thay đổi thái độ. Ông tỏ ý suy nghĩ chín chắn và có vẻ như đã quyết định rồi.

Vốn tính thật thà, Thông Vũ hầu Vương Ly vẫn chưa yên tâm, hỏi Thủy Hoàng:

- Nhưng không biết bệ hạ đã có kế vẹn toàn như thế nào?

Thủy Hoàng không trực tiếp trả lời Vương Ly, mà nói với Cao Tiệm Ly:

- Trước đây ngươi đã giấu tên thoát chết, tất để mưu toan trả thù về sau. Quả nhân thấy ngươi tài nghệ cao siêu, cho nên ban ơn xá tội, tha chết cho ngươi. Tất nhiên lòng dạ con người thiện ác khó biết, nên sẽ thui mù hai mắt nhà ngươi, nhà ngươi sẽ chẳng còn thấy mặt trời, chỉ còn lấy tiếng đàn, tiếng hát để trẫm thưởng ngoạn, không biết nhà ngươi có muốn thế không?

Trước tâm địa hiểm độc, thủ đoạn tàn bạo đó của Thủy Hoàng, đám cận thần đều cho là kế sách cảnh giác rất hay, trong lòng vô cùng bái phục, nhất trí tán thành diệu kế này. Cao Tiệm Ly càng hiểu rõ thêm sự tàn bạo như lang sói, độc ác như rắn rết của Thủy Hoàng. Muốn chống lại hắn cho tới cùng thì phải nhẫn nhục để sống, rồi dần dần tìm cơ hội báo thù rửa hận cho Kinh Kha, Thái tử Đan nước Yên và cho mình. Ông cười nhạt nói:

- Bệ hạ đối xử với họ Cao này như vậy thì sống không bằng chết. Nhưng sở dĩ ba mươi năm giấu tên để sống, chỉ vì đàn ca và thảo dân đã là một, sống chết không thể tách rời. Nay bệ hạ vì yêu âm nhạc miễn cho thảo dân tội chết, có thể thấy đấy là tri âm hiếm có. Vì vậy thảo dân sẵn sàng chịu thui đôi mắt để được toàn tính mạng, để được sống cùng nghề đàn ca mua vui cho thánh thượng. Thảo dân dược kéo dài chút hơi tàn cùng tiếng đàn đã hài lòng lắm rồi, còn mong gì hơn nữa?

Thủy Hoàng thấy Cao Tiệm Ly không kháng cự liền tuyên bố xá cho tội chết và lập tức giao cho Lý Tư đưa đi. Trong một gian phòng nhỏ tí, bọn tay chân của Lý Tư trói chặt Cao Tiệm Ly lại, bắt ngồi cúi đầu xuống. Chậu lửa dưới chân đốt một loại cây thuốc cực mạnh, khói đặc nóng bỏng bốc lên xông thẳng vào mặt. Cao Tiệm Ly nghiến răng gồng người lên chịu đựng đau đớn, mặc cho khói đặc thui khô cặp nhãn cầu long lanh sáng, cuối cùng con ngươi cháy teo đi và không còn nhìn thấy gì nữa. Ông cảm thấy từng cơn choáng váng dồn dập kéo đến, đầu đau như muốn vỡ ra, cuối cùng chịu không nổi hét lên một tiếng thảm thiết rồi hôn mê bất tỉnh. Đám ngục tốt canh gác ở bên ngoài, nghe thấy tiếng kêu biết ngọn lửa cực hình đã có hiệu quả liền mở cửa bước vào quạt tan khói đặc, mang tới một chậu nước lạnh giội lên đầu Cao Tiệm Ly để ông tỉnh lại, sau đó dìu ông vào trong nhà thay quần áo. Vốn dĩ pháp y có loại thuốc bột làm bằng băng phiến, có thể lập tức giảm đau và vết thương chóng lành, nhưng Thủy Hoàng không cho dùng, nói rằng cứ để nó hết đau từ từ, cốt để Cao Tiệm Ly bị hành hạ kéo dài, thấm thía sự ghê gớm của loại cực hình này để rồi từ đó một lòng một dạ quy thuận, không còn dám có bất cứ hành động phản kháng nào nữa.

Sau khi bị mù, Cao Tiệm Ly được hai nội thị chăm sóc. Khi đi diễn tấu, mỗi người một bên dìu tới trước ghế ngồi rồi đốt hương kê đàn trúc cho ông và dặn ông khi nào bắt đầu tấu nhạc. Cao Tiệm Ly tuy không nhìn thấy gì, nhưng trong lòng lại càng sáng suốt hơn trước. Ông dựa vào thính giác nhạy bén trời phú đặc biệt cho người nhạc sĩ, biết được Thủy Hoàng ngồi ở chỗ nào, phía nào, khoảng cách là bao nhiêu. Để kiểm nghiệm xem phán đoán của mình có chính xác hay không, có lúc ông cố ý tấu sai, Thủy Hoàng rất am hiểu âm luật khi đó sẽ nhắc ông giai điệu chỗ nào sai hoặc nhịp không đúng, hoặc những chỗ chưa thỏa đáng về xử lý kỹ thuật, thế là nhờ tiếng nói của đối phương ông phán đoán được hướng và khoảng cách. Ngoài ra, ông còn có thể chuyển thế yếu thành thế mạnh để tiện bề giấu kín hành động phục thù của mình. Ông áp dụng hành vi của phần lớn người mù là bao giờ cũng cúi đầu nhắm mắt ở những trường hợp công khai, để không ai thấy vẻ mặt mình, không ai dò biết được thế giới nội tâm mình. Ông cố tình làm ra vẻ lờ đờ chậm chạp, khiến dần dần mọi người tỏ ra coi thường ông, ít chú ý tới sự bảo đảm an toàn. Lâu đần, người đa nghi nhất là Thủy Hoàng cũng lơ là cảnh giác, cho rằng ông chẳng còn có thể hành động gì được nữa mà chỉ là một nhạc cụ sống mà thôi.

Một hôm Cao Tiệm Ly được dẫn tới một nơi ông đã quen thuộc, đó là tẩm cung của Thủy Hoàng. Dựa vào giọng nói của những người có mặt, ông đoán chỉ có độ ba, bốn người và Thủy Hoàng thì ngồi cách mình không xa ở phía trước bên phải. Cao Tiệm Ly trong lòng mừng thầm, chuẩn bị sẵn sàng liều chết với đối phương một phen. Ông vẫn cúi đầu, hai mắt nhắm chặt, gương mặt hiền lành, không để lộ vẻ đáng ngờ nào, chờ thắp hương xong xuôi, ông mới chậm rãi đặt nhạc cụ lên, chỉnh dây đàn, tĩnh tọa một lát rồi bắt đầu gẩy đàn. Ông trình diễn “Thiều dung nhạc” và “Lễ dung nhạc” mà Thủy Hoàng quen thuộc nhất. Bắt đầu ông đánh đúng nhạc phổ, nắn nót để nhạc điệu thật hay. Ông nghe thấy Thủy Hoàng lấy tay gõ vào kỷ án theo nhịp điệu đều đặn của cung đàn, có lúc còn hát khe khẽ một vài câu tỏ ra vô cùng vui vẻ đắc ý. Lúc đó, đoán biết Thủy Hoàng đã rất chú tâm vào bản nhạc, Cao Tiệm Ly bèn cố tình làm rối âm luật, tiếng đàn phát ra không hài hòa, rất ngang tai. Quả nhiên, Thủy Hoàng gõ mạnh liền mấy tiếng rồi nói:

- Cao tiên sinh, Cao tiên sinh, chỗ ấy sai rồi, sai rồi!

- Dạ, sai, sai ở chỗ nào ạ? - Cao Tiệm Ly cố làm ra vẻ không biết hỏi.

Thủy Hoàng sửa lại cho ông:

- Câu vừa rồi là của “Thiều dung nhạc”, sao lại nhập vào “Lễ dung nhạc”?

- Hóa ra vậy, để tôi tấu lại - Cao Tiệm Ly tấu lại lần nữa, vẫn cố tình đàn sai giai điệu.

- Ồ, làm sao vẫn sai thế, ông nghe, ông nghe này! - Thủy Hoàng đã tỏ ra sốt ruột, đứng dậy đi về phía ông.

Cao Tiệm Ly thấy Thủy Hoàng đi gần tới mình liền thôi đàn, vì căng thẳng nên tay hơi run run. Thủy Hoàng thấy vậy, có phần ngạc nhiên, liền hỏi:

- Tiên sinh, làm sao tay lại run lên thế?

Cao Tiệm Ly, biết đã để lộ ý định, liền không chút chần chừ giơ cao cây đàn đập thật mạnh về phía Thủy Hoàng. Nhưng vì Thủy Hoàng đã thấy cử chỉ khác thường của ông, nên trong lúc ông lao cây đàn tới đã kịp né người sang một bên. Cây đàn không quật trúng đầu, mà trúng vai trái Thủy Hoàng. Thủy Hoàng giận dữ quát ầm lên, gọi lính cận vệ đè nghiến Cao Tiệm Ly xuống. Thủy Hoàng vừa xoa chỗ đau, vừa giận dữ quát hỏi Cao Tiệm Ly:

- Quả nhân thấy tài nghệ nhà ngươi cao siêu xuất chúng, tha cho tội chết, sao ngươi lấy oán báo ân, hạ độc thủ như vậy hả?

Cao Tiệm Ly hối tiếc vừa rồi đã không bình tĩnh, để đến nỗi hỏng việc, nhưng nếu không bị mù thì đâu đến nỗi thế này? Vì vậy càng thêm căm giận Thủy Hoàng hiểm độc, ông căm thù nói:

- Mi là tên bạo chúa, điên cuồng bệnh hoạn, táng tận lương tâm, thôn tính chư hầu, giết hại sinh linh, trời giận dân oán, ân đức gì ngươi?

Thủy Hoàng giận dữ quát:

- Ngươi cùng bọn bạo nghịch Kinh Kha, rắp tâm mưu tính giết trẫm, nhưng rút cục đã thất bại. Thần linh đã phù hộ trẫm, bọn các người chỉ chuốc lấy cái chết mà thôi!

Cao Tiệm Ly đàng hoàng trả lời:

- Ta đã bị mi bắt, chỉ mong sớm được chết, sớm được gặp Kinh huynh nơi cửu tuyền. Nhưng mi tên bạo chúa khác gì Hạ Kiệt, Thương Trụ, tuy đắc thế một thời, rốt cục thì cũng nước mất triều tan, để tiếng xấu muôn đời! Trời xanh có mắt, quyết chẳng tha cho mi đâu!

Thủy Hoàng bị xỉ vả vô cùng tức tối, gầm lên như sấm, rút luôn kiếm bên mình chém tới tấp vào Cao Tiệm Ly. Cao Tiệm Ly không kêu đau, chỉ ra sức nguyền rủa cho tới khi máu chảy đầm đìa, tắt thở mới thôi. Thủy Hoàng vẫn chưa hả giận, đích thân giám sát xe ngựa phanh thây Cao Tiệm Ly, càng tỏ rõ tính cách bạo ngược hung tàn.

Thủy Hoàng bị thương không nặng, nhưng sợ hãi thì gấp bội phần so với lần trước. Ông bị loạn nhịp tim, thuốc thang hơn một tháng mới tạm khỏi. Từ đó càng tỏ ra đa nghi, tâm địa càng hiểm độc tàn bạo. Đối với đám nam giới thuộc dòng hoàng thất các nước chư hầu đã bị tiêu diệt, ông bắt giết, hoặc hạ làm thường dân, hoặc phát vãng làm lính biên ải, hoặc đi làm lao dịch xây dựng các công trình. Đối với nữ giới thì chọn những người xinh đẹp, dù là công chúa, phi tần hoặc cung nữ, đem chuyển hết về thành Hàm Dương, giam đầy các cung thất, để ông ta mua vui. Theo sử sách ghi chép, số người đẹp bắt từ sáu nước về tất cả hơn một vạn, được Thủy Hoàng sủng ái đương nhiên là rất ít. Hơn một vạn con người này, ngày nào cũng phải dậy sớm, ăn mặc trang điểm tươm tất, để sẵn sàng tiếp giá. Nhà văn nổi tiếng đời nhà Đường là Đỗ Mục, còn được gọi là Tiểu Đồ. đã mô tả cực kỳ sinh động về chuyện này trong bài phú nổi tiếng “A Phòng cung phú”: “Phi tử, tần phi, tỳ thiếp, nữ quan. vương tử, hoàng tôn, phải rời bỏ cung điện của mình, đến ở cung A Phòng của Tần vương. Sớm tinh mơ ca hát, chiều chiều tấu nhạc, trở thành cung nhân nhà Tần. Ánh sao lấp lánh sáng là hộp gương mỹ nhân mở ra để trang điểm; mây xanh lừng lờ trôi là sáng sớm mỹ nhân chải làn tóc đẹp. Sông Vị Thủy gợn lên từng làn nước bẩn là nước son phấn mỹ nhân thải ra. Trong cung mịt mù mây khói là cung nữ đang đốt hoa tiêu và hương lan. Sấm sét đột nhiên vang dậy là xe ngựa hoàng đế chạy qua, tiếng xe lộc cộc, xa dần xa dần, cũng chẳng biết đi về phía nào. Mỹ nữ trong cung, trăm vẻ yêu kiều trang điểm rực rỡ, tựa cửa trông chờ, nhìn ra mãi xa, chỉ mong Thủy Hoàng mau đến. Có những người đợi chờ tới ba mươi sáu năm mà cũng chẳng một lần thấy mặt Thủy Hoàng”.

Đối với đám con gái này, Thủy Hoàng không cho phép họ mang thai sinh con, vì sợ lũ hoàng thái tử sẽ tranh giành nhau, giành quyền thừa kế, cuối cùng khiến anh em chém giết lẫn nhau, bài học lịch sử đẫm máu cung đình thật sự vô cùng sâu sắc. Việc lập tự hơn hai mươi đứa con đẻ của Thủy Hoàng với con gái Tần, đã khiến ông rất khó xử rồi. Nếu để phi tần sáu nước vốn mang tư tưởng thù địch với Tần lại sinh con, thì những đứa con đó sẽ trở thành nơi gửi gắm hy vọng giết cha diệt Tần, khôi phục lại nước mình. Vì vậy, một khi thấy ai trong đám mỹ nữ sáu nước mang thai, Thủy Hoàng lại lệnh cho thái y bắt dùng thuốc phá thai ngay. Vì vậy, phi tần sáu nước dù là “ba mươi sáu năm chẳng một lần gặp mặt” hay là đã được Thủy Hoàng sủng ái, đều bất hạnh như nhau cả. Nhưng việc theo đuổi tình yêu là bản tính con người, nhất là những người con gái bất hạnh chẳng có được tình yêu, thì mơ tưởng, truy cầu và khát vọng lại càng da diết và mãnh liệt. Dù bị giam giữ trong cung Tần cực kỳ nghiêm ngặt, cũng có không ít người cả gan phạm vào điều cấm kỵ “đục lỗ xuyên khe nhìn trộm nhau, vượt tường tìm đến nhau”. Họ đã sử dụng mọi cách, lợi dụng mọi cơ hội tìm bạn tình, giành chút ái ân để an ủi cuộc đời cô đơn khổ ải.

Thủy Hoàng chẳng có chút tình cảm thực nào với các công chúa, phi tần đến từ sáu nước, luôn nghi ngờ họ, ra sức đề phòng, thường tiến hành những cuộc thẩm vấn và bức hại tàn tệ. Ông lệnh cho Tả thừa tướng Lý Tư, Trung xa phủ lệnh Triệu Cao, chọn những mật thám đắc lực nhất, bí mật dò la trong ngoài cung A Phòng. Nghiên cứu dựa vào những điều như: mức độ oán giận của họ đối với Thủy Hoàng, được sủng ái nhiều hay ít, quan hệ với Thủy Hoàng thân hay sơ; tình hình chữa bệnh phá thai của thái y; có đi lại với người ngoài hay không, đối tượng đi lại là ai, v.v..., cuối cùng đã xác định được 237 cung phi là đối tượng bị tra xét. Và thế là một đợt tra xét hỏi, tàn sát cực kỳ vô nhân đạo, không còn một chút tính người, đã diễn ra như một màn tuồng dưới sự hợp tác mưu mô ngấm ngầm của tên bạo chúa, đám nịnh thần và bọn quan lại độc ác.

Thủy Hoàng đi xe cung tới cung A Phòng, ngồi trước bàn trong đại sảnh, Triệu Cao cầm tờ danh sách cho gọi 237 công chúa, phi tần, tỳ thiếp, cung nhân vốn là của sáu nước đã xác định sẵn đến đại sảnh, bắt đứng ra hai bên. Thủy Hoàng tuyên bố với họ: “Các ngươi đến từ sáu nước chư hầu khác nhau, ta sủng ái các ngươi cũng khác nhau. Để hiểu thêm về các ngươi, hôm nay ta sẽ đặt tại đây một chiếc gương lớn, chiếc gương này có thể soi thấu lục phủ ngũ tạng từng người. Ai thật lòng vui vẻ thần phục quả nhân, đức hạnh đoan trang, thì hình bóng và tạng phủ soi trong gương đều bình thường, và người đó sẽ không hổ thẹn với lương tâm. Nếu ai ngoài mặt thuần phục nhưng ngấm ngầm chống đối quả nhân, khẩu phục, tâm không phục, hoặc giả không trinh tiết, dù người đó chỉ có chút đỉnh tà tâm thì tạng phủ cũng sẽ chiếu ra rõ mồn một trong gương, tim sẽ động đậy, gan sẽ nở to, hậu quả hẳn sẽ rất nghiêm trọng. Nhưng nếu ai chủ động thành thật khai báo, hình phạt sẽ được châm trước giảm nhẹ. Vì vậy, cát hung, họa phúc do từng người các ngươi quyết định, người ngoài không giúp gì được cả”.

Trong khi Thủy Hoàng nói, Tả thừa tướng Lý Tư sai hai thị vệ lấy chiếc gương rộng bốn thước, cao năm thước chín tấc treo trên tường xuống. Nghe nói chiếc gương này là của đại thánh Quảng Thành Tử ở núi Kê Đầu tặng Thủy Hoàng. Triệu Cao theo danh sách, lần lượt điểm danh từng người, người được gọi đến tên phải bước ra trước gương để soi.

Thật thương thay cho những công chúa, phi tần, tỳ thiếp và cung nữ của sáu nước này. Vốn là dân mất nước, lại thêm bị giam hãm trong cung A Phòng, khiếp sợ trước oai hùm Thủy Hoàng, suốt ngày nơm nớp sợ hãi, hoảng hốt lo lắng. Hôm nay lại bị quát tháo, bắt đến đứng trước chiếc gương để Thủy Hoàng và Lý Tư kiểm tra như thế này, hỏi làm sao lại không sợ hãi căng thẳng? Và thế là hiện tượng “tim động đậy gan phình to” liên tiếp hiện ra trong gương. Khi đó thì cho dù có chủ động thành khẩn khai báo, hoặc khóc lóc van xin rằng mình thật sự trung thành với nhà vua không một chút dã tâm hoặc là không trinh tiết thì cũng chẳng có tác dụng gì cả.

Dưới cặp mắt chim ưng gườm gườm và vẻ oai phong như lang sói của Thủy Hoàng, Triệu Cao đọc to tên từng người, Lý Tư tuyên án theo luật pháp, từng cặp thị vệ cung đình vác đao vâng lệnh tiến vào bắt từng tử tù một, lôi ra ngoài cửa cung, vung đao chém đầu, kết liễu tính mạng những con người vô tội ấy. Chưa đầy hai canh giờ, hai trăm ba mươi bảy người con gái yếu đuối đã chết oan uổng dưới lưỡi dao đồ tể đẫm máu.

Sau khi đích thân gây ra vụ tàn sát phản đạo lý trái lẽ trời ấy, Thủy Hoàng còn ra sức tuyên truyền cho chiếc gương vô cùng linh nghiệm ấy, vô cùng công bằng vô tư ấy, và tiếp tục sử dụng án mưu và mánh khóe xảo trá quỷ quyệt để giết hại thần dân vô tội, củng cố chính quyền chuyên chế của mình.