← Quay lại trang sách

HỒI THỨ BA MƯƠI MỐT LỜI NGUYỀN HẦU SINH, HỌA TRONG THIÊN THẠCH-SẤM NGỮ THÁNH KHỔNG, ĐIỀM DỮ BẠCH BÍCH--------

Cao Tiệm Ly chịu cực hình đốt mắt, cam tâm tấu nhạc cho Thủy Hoàng nghe, là để đánh đòn cuối cùng. ông sở dĩ mai danh ẩn tích ba mươi năm ròng là mong muốn thực hiện mục đích báo thù rửa hận, chung đúc nên niềm thương tiếc và nghĩa khí đối với tổ quốc bại vong; đối với những người vì chống Tần đã hy sinh như Kinh Kha, Điền Quang, Phàn Vu Kỳ, Thái tử Đan nước Yên.

Thủy Hoàng đốt mắt Cao Tiệm Ly, rồi sau đó lại cho ngựa phanh thây, là do sợ hãi lực lượng chống Tần của sáu nước mà sử dụng hành động đàn áp. Còn như giết hại điên cuồng 237 công chúa, phi tần, tỳ thiếp, cung nữ của sáu nước là do tự thấy hãi hùng sợ bóng sợ gió gây nên, chứng tỏ Thủy Hoàng hùng hổ bề ngoài nhưng lại khiếp đảm nội tâm, đã tới mức hèn yếu không tài nào kiểm soát và che đậy được nữa rồi. Vì thế, sau khi giết chóc bừa bãi, nhất thời hả dạ yên tâm được đôi chút, thì lại cảm thấy căng thẳng và càng hãi hùng hơn. Và lúc đó ông lại càng nghĩ tới đạo sĩ Lư Sinh, Hầu Sinh, Từ Phúc, chỉ mong một trong ba người đem về được cho mình thuốc trường sinh bất tử để có thể ông sẽ không bị cái chết đe dọa nữa, hóa giải được gánh nặng tâm tư và siêu thoát thành tiên. Vì vậy ông ra nghiêm lệnh cho các quận huyện ven biển tăng cường truy nã Lư Sinh, Hầu Sinh đã bỏ trốn, ngăn chặn không để họ lại trốn ra biển; đồng thời còn ra lệnh theo dõi chặt chẽ tàu thuyền chở người từ nước ngoài về. Đuổi gió bắt bóng như vậy liên tục trong mấy tháng trời suốt dải ven biển mấy nghìn cây số nhưng vẫn chẳng thu được kết quả gì. Thủy Hoàng vô cùng chán nản. Bỗng một hôm, thái thú Tứ Thủy dong xe suốt ngày đêm tới Hàm Dương, gõ vang khánh ngọc, cấp tốc vào nội cung tấn kiến Thủy Hoàng, tuy chưa bắt được tội phạm, nhưng đã tìm được vật chứng quan trọng, phải đích thân dâng trình ngư lãm.

Thủy Hoàng thầm nghĩ, đã tìm thấy vật chứng ắt đó là đầu mối quan trọng, dựa vào đó có thể truy bắt tội phạm nên tinh thần có phần phấn chấn, ra lệnh trình vật chứng lên. Viên thái thú lui ra phía cạnh cửa cung, lấy một chiếc hộp gỗ dài để ở đấy lúc kiểm tra, đưa cho nội thị mang trình đặt trước án Thủy Hoàng. Thủy Hoàng vừa vội vã mở nắp hộp, vừa suy đoán: nhìn hình dáng hộp, thứ ở bên trong không phải dao thì ắt phải là kiếm nhưng khi mở hộp thì vật hiện ra trước mắt không phải là thất tinh bảo đao, cũng không phải thanh kiếm long truyền ba thước, mà là một con cá chép lớn dài gần bốn thước. Vì đã được ướp muối, nên vẩy vàng toàn thân đã biến thành màu vàng đỏ, mắt cá trắng bệch giữa một quầng xám, mồm há to, trông thật đáng ghét. Thủy Hoàng hơi bực, hỏi quận thú:

- Một con cá ướp mà coi là tội chứng. Cớ làm sao mà khanh lại cố tình bịa chuyện đùa giỡn quả nhân?

Quận thú vội quỳ xuống tâu:

- Tội chứng trong bụng cá, xin bệ hạ xem.

Thủy Hoàng theo lời viên thái thú, vạch cá ra xem, hóa ra trong bụng cá có một mảnh lụa gấp lại, vội lấy ra và mở đọc thì thấy trên mảnh lụa rộng hai thước dài ba thước ấy viết rõ ràng ngay ngắn năm chữ triện to bằng miệng bát “Vong Tần giả tất Hồ” (Kẻ triệt Tần là Hồ). Thủy Hoàng lập tức thấy đầu mình bị đập mạnh như muốn vỡ tung, toàn thân run lên. Sao câu nói này lại giống với câu trong sách sấm ngữ lần trước khi Lư Sinh từ biển về đã dâng cho ông vậy? Mà nghe nói sách ấy là của thần biển nhờ gửi biếu. Ông bị kích động rất mạnh, nhưng vẫn cố trấn tĩnh, tiếp túc cật vấn thái thú xem những lời phản nghịch của mảnh lụa từ đâu ra, có quan hệ gì với con cá này? Thái thú sợ hãi kể rằng:

- Bảy ngày trước, vào lúc chập choạng tối có một người ăn mặc như ngư ông xách con cá này đến cổng sau nha môn nói với lính gác, đêm qua ông ta nằm mơ thấy thủy thần sông Đức Thủy hiển linh, nói sẽ cử một sứ giả gửi một bức thư lụa tới bệ hạ, nhưng vì sông Đức Thủy không thông tới Hàm Dương, đành phải nhờ ông ta đưa sứ giả tới chỗ quan thái thú, để thái thú dâng lên bệ hạ. Thủy thần dặn ngư ông vào giờ Ngọ ba khắc ngày hôm sau đến buông câu bên Đức Thủy, để nghênh đón sứ giả và dặn đi dặn lại rằng, thứ lụa để trong bụng sứ giả, khi lấy ra phải mổ cẩn thận, không được cắt hỏng! Vi thần làm theo đúng lời ngư ông, mổ bụng cá thấy lá thư lụa có lời lẽ phản nghịch này. Việc hệ trọng, không dám tự tiện, đành phải đích thân tới đây trình lên bệ hạ.

Thủy Hoàng nghe ông ta nói, chau mày suy nghĩ, và đã lần ra đầu mối: Lần trước Lư Sinh dâng sách sấm, chỉ có Lư Sinh, Hầu Sinh và ta biết thôi. Lá thư lụa trong bụng cá này, chắc chắn là làm theo chuyện Chuyên Chư giấu kiếm trong bụng cá đâm Liêu Vương, dùng lời lẽ phản nghịch để đe dọa mình đây. Vậy thì ngư ông này dứt khoát là Lư Sinh hoặc Hầu Sinh rồi. Nghĩ tới đây, ông vội vàng cử người xuống hỏi thái thú, xem ngư ông ấy hiện ở đâu? Viên thái thú trả lời, chỉ vì lính canh cổng trẻ tuổi ngu dại, nhận cá rồi để ngư ông đi ngay, tới lúc ông ta phát hiện ra lời phản nghịch, cho người đuổi theo cửa sau nha môn thì đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Thủy Hoàng quát mắng ông ta đã bỏ lở thời cơ để sổng tội phạm, nhưng thái thú tâu rằng, trước khi mổ bụng cá chưa biết được sự thực nên đã sơ suất, chứ quyết không có ý tha tội phạm. Thủy Hoàng nghĩ vẫn phải dựa vào viên quan này để phá án nên không quở trách nữa, mà nham hiểm chỉ thị cho ông ta phải theo dõi chặt chẽ tình hình nho sinh đạo sĩ trong địa hạt cai quản, nhất là phải lưu ý bọn người như “ngư ông” trở lại, một khi phát hiện phải bắt ngay đưa lên kinh xét xử.

Thái thú Tứ Thủy nhận lệnh trở về quát mắng người lính gác đã khiến mình mất một cơ hội lập công lĩnh thưởng. Sau đó, đúng như dự đoán, vào buổi hoàng hôn nọ lại có một ông già đến trước cổng sau dinh quận hỏi dò quan thái thú đã rời kinh thành về chưa. Vừa hay người gác cổng lại đúng là người lần trước đã nhận cá để “ngư ông” đi mất, tuy thấy người này không phải là “ngư ông”, nhưng hỏi han kỳ cục, anh ta liền bắt giữ luôn rồi mang nộp cho quan thái thú. Qua xét hỏi thì đúng là Hầu Sinh, còn “ngư ông” lần trước là Lư Sinh. Họ định dùng thư lụa viết lời phản nghịch giấu trong bụng cá để dọa cho Thủy Hoàng hoảng sợ mà chết, liền lập mưu để Lư Sinh dâng cá, rồi để Hầu Sinh đến thăm dò xem Thủy Hoàng sống chết thế nào, nào ngờ trúng kế hiểm của Thủy Hoàng. Lư Sinh không chờ Hầu Sinh dò la tin tức trở về đã vội chạy trốn ngay, còn Hầu Sinh bị giải đến Hàm Dương để Thủy Hoàng xét xử. Thủy Hoàng nghe tấu trình đã cả mừng trọng thưởng ngay cho thái thú Tứ Thủy và ban chiếu chỉ: dựng một đài cao trên quảng trường lớn phía Đông thành Hàm Dương để xét hỏi Hầu Sinh và sẽ cho năm ngựa phanh thây như đối với Lao Ái, Kinh Kha, Cao Tiệm Ly.

Thủy Hoàng ngồi trên đài cao, quát mắng Hầu Sinh đã bị giải tới dưới đài:

- Nghịch tặc bất lương, đã phỉ báng vua của mình lại còn dám tới gặp mặt ta sao?

Hầu Sinh tiến lên mấy bước, tới dưới chân đài, bình tĩnh trả lời:

- Thần nghe nói, người biết mình chết sẽ rất can đảm, bệ hạ có muốn nghe đôi lời của thần không?

Thủy Hoàng thấy người này sắp bị xử tử, cũng muốn cho phép nói lần cuối cùng, bèn cười nhạt bảo:

- Ngươi muốn nói gì, ta cho phép nói.

Hầu Sinh dõng dạc:

- Thần nghe, Vũ Vương khi xưa thiết lập nghi trượng để xét xử người phỉ báng, cốt làm cho họ biết điều sai trái. Nay bệ hạ xa xỉ vô độ, hoang toàng tột đỉnh. Cung nữ ca kỹ đông tới hàng vạn, trống chiêng ca nhạc nhộn nhịp suốt ngày đêm, của ngon vật lạ chất đống thừa thãi. Quần áo lộng lẫy, ngựa xe diêm dúa, riêng mình sài phí, không sao kể hết. Dân chúng khốn cùng, sức dân cạn kiệt mà chẳng hề hay biết. Lại lo sợ người phỉ báng, ra sức diệt trừ, bên dưới hôn ám, trên thì điếc đui, chính vì thế bọn thần mới trốn đi.

Thủy Hoàng bị Hầu Sinh vạch tội chỉ trích vô cùng lúng túng, giận dữ quát:

- Bọn ngươi đã bỏ trốn, sao lại còn học theo kế Chuyên Chư giết Liêu, giấu thư lụa vào bụng cá, dùng lời phản nghịch để hại quả nhân, phải chịu tội gì?

Hầu Sinh nói rất thống thiết:

- Chúng thần tiếc chi thân mình, chỉ tiếc cho bệ hạ mất nước mà thôi. Nên học theo các bậc vua chúa sáng suốt xưa kia, ăn đủ no, mặc đủ ấm, cung điện đủ ở, ngựa xe đủ đi lại. Vì thế mà trên không mất lòng trời, dưới không mất lòng dân, đấy là cái đức Nghiêu, Thuấn. Nay bệ hạ lộng quyền tàn bạo gấp ngàn lần Hạ Kiệt, Trương Trụ, thần sợ bệ hạ chín phần mất nước, chỉ một phần tồn tại mà thôi!

Thủy Hoàng lặng đi hồi lâu, buồn bã nói:

- Sao ngươi không nói sớm hơn?

Hầu Sinh giọng lạnh lùng:

- Ý muốn của bệ hạ nương mây xanh phiêu diêu đạo quán Văn Xương; tự cho mình giỏi, tự cho mình mạnh, trên thì coi thường Ngũ Đế, dưới thì sỉ nhục Tam Vương, bỏ cái mộc mạc tìm cái xa hoa, điềm diệt vong bệ hạ thấy đã lâu rồi. Vốn sợ rằng khuyên can vô ích mà lại chuốc lấy tai họa, nên chúng thần đã bỏ trốn mà chẳng dám nói. Nay tự biết mình phải chết, nên mới tấu trình với bệ hạ. Tuy chẳng thể giúp bệ hạ tránh được bại vong, chỉ muốn khiến bệ hạ tự biết mà thôi.

Thủy Hoàng nghe nói vậy thì vô cùng kinh sợ, hoảng hốt hỏi:

- Ta có thể thay đổi được không?

Hầu Sinh lắc đầu than:

- Sự việc đã thế rồi, bệ hạ chỉ còn ngồi chờ bại vong thôi. Nếu bệ hạ muốn thay đổi, tất phải học đức trị của Nghiêu, Thuấn. Không làm được như thế, thì chẳng khác gì không thay đổi. Huống hồ cận thần của bệ hạ tất sẽ oán trách việc đó, khiến cho việc thay đổi của bệ hạ không thực hiện được. Thần e rằng, bệ hạ dù có muốn thay đổi, cũng sẽ không thể thực hiện được. Sách sấm dâng lên ngày trước, và lá thư giấu trong bụng cá đã báo cho bệ hạ biết sẽ bại vong bởi tay ai rồi, chẳng ai nói lời không dự đoán trước cả. Thần đã nói hết, chỉ mong sớm được chết, mong bệ hạ bảo trọng. - Nói xong ngẩng đầu nhìn trời, không chút sợ hãi.

Những lời lẽ ngay thẳng của Hầu Sinh đánh trúng chỗ yếu của Thủy Hoàng. Thủy Hoàng chẳng còn sức đâu đánh trở lại nữa, chỉ còn biết thở dài xua tay rồi tha cho Hầu Sinh. Lòng dạ nặng trĩu, ông chán ngán hồi cung.

Lư Sinh và Hầu Sinh về sau sống ẩn dật ở Vân Sơn, Thiệu Lăng. Hiện nay trên núi vẫn còn dấu vết để lại như di tích Hầu tiên, Lư tiên, đạo quán người Tần, lò luyện đan, đài, phi thăng, v.v.

Vào năm ba mươi sáu Thủy Hoàng (năm 211 trước Công nguyên), sau vụ “thư lụa giấu trong bụng cá” xảy ra ít lâu, vào một ngày mùa hạ tại một nơi ở Đông Quận (Bộc Dương, Hà Nam ngày nay) bầu trời đang trong xanh, nắng như đổ lửa, khoảng giờ Thân bỗng bão táp nổi lên, mây đen cuồn cuộn, sấm chớp ầm ầm, che kín mặt trời. Phút chốc trời đất tối tăm, không khí oi nồng, khiến người ta hầu như tắc thở. Đúng lúc mọi người đang hãi hùng chẳng biết phải làm thế nào, thì giữa tầng mây dày đặc chợt lóe lên một tia chớp sáng lòa, đỏ chói, phía sau chùm ánh sáng đầu nhỏ đuôi to đó là một quả cầu lửa xé toang bầu trời theo đường vòng cung, trước chậm sau nhanh lao xuống vun vút, khi sắp tới mặt đất tốc độ càng nhanh hơn, kèm theo tiếng gầm rú đinh tai nhức óc, kế đó là một tiếng nổ làm rung chuyển mặt đất. Sức mạnh sấm sét ngàn cân đã khoét sâu một hố lớn trên mặt đất. Luồng không khí cuốn theo đã quật đổ khá nhiều cây cối chung quanh, có nhà bay cả mái, nóc chẳng còn, các cửa cũng bị phá tung. Người và gia súc bị sức gió xô ngã lăn kềnh, có người còn bị thương nặng. Chờ cho đất lặng gió im, mấy người bạo gan mới dám rón rén đến xem chỗ quả cầu lửa rơi. Hóa ra là một tảng thiên thạch to bằng con lạc đà nằm trong cái hố sâu tới mấy thước. Do rơi xuống mạnh, nên lún xuống khá sâu như mọc rễ ở đó, bao nhiêu người xúm vào đẩy vẫn trơ trơ nằm nguyên tại chỗ. Đám “người thám hiểm” đầu tiên đều bình yên vô sự, mọi người mới yên lòng, từng tốp năm ba người kéo nhau đến sát tảng đá xem, thậm chí muốn lấy tay sờ vào để xem có khác gì đá ở trên mặt đất. Nhưng họ đã bị người ta ngăn lại, nói rằng đây là vật thiêng từ trên trời rơi xuống, không thể khinh nhờn, phải cúng bái rồi mới được sờ vào, bằng không có thể gây tai họa. Vừa rồi những người bị quật ngã và bị thương là vì làm ngáng trở đường đi của đá thần nên bị trừng phạt. Ý kiến này làm cho tảng thiên thạch càng tăng thêm màu sắc thần bí. Tin tức không cánh mà bay, người các xã, huyện khác đều đua nhau đến xem vật lạ từ trên trời bay xuống. Có nghệ nhân lang thang lập ngay sân biểu diễn bên cạnh tảng đá, đêm đến dựng lều ở lại. Nào ngờ vào một buổi sáng tinh mơ, trên mặt phẳng ở giữa tảng đá người ta thấy xuất hiện bảy chữ triện “Thủy Hoàng đế tử phi địa phân” (Vua Thủy Hoàng chết, chia lại đất). Những người thấy chữ ấy sợ hết hồn, vội vàng trình báo lên xã, rồi huyện, quận. Các quan thái thú, huyện lệnh, giảm úy lập tức đến hiện trường xem xét, thấy các nét chữ đã bị thui lửa, không nhận ra dấu vết tạo khắc, mặt đất cũng không thấy mảnh vụn đá rất khó xác định là người ta mới tạc gần đây. Theo tin của dân địa phương, người đến xem thiên thạch liên tục mấy ngày liền rất đông, có người ở trong nhà dân, có người dựng lều ở một đêm rồi đi, không thấy ai khắc tạo gì vào đá cả. Chẳng ai biết những chữ đó từ đâu ra. Quan lại quận, huyện không thể nào xác định được nên không dám tùy tiện bắt người, nhưng sự việc rất nghiêm trọng, nếu giấu không trình báo lên, e rằng bản thân sẽ bị truy cứu. Họ đành lấy sơn dập in bảy chữ này vào lụa trắng, viết thêm bản trình tấu, để thái thú đích thân tới Hàm Dương tâu với Thủy Hoàng nguyên do sự việc.

Thủy Hoàng nghe bẩm quan thái thú có việc gấp xin cầu kiến, lập tức liên tưởng tới bức thư lụa phản nghịch giấu trong bụng cá, trong lòng rất không vui. Khi đọc bản tấu, lại càng sợ hãi, nhưng vẫn muốn xem cho rõ ràng bèn cố mở căng tấm lụa trắng. Bảy chữ “Thủy Hoàng đế tử phi địa phân” khiến ông rụng rời, chữ thác bản lại in bằng sơn màu đỏ tía, trông chẳng khác gì chữ viết trên máu. Thủy Hoàng không dám nhìn, vội để mảnh lụa ra một bên, nhắm mắt ngẫm nghĩ, sau đó bảo với thái thú rằng trong câu phản nghịch này xét ý tứ trong hai chữ “địa phân”, thì rõ ràng đây không phải ý trời mà là của đám con cháu chư hầu sáu nước. Nó rất khớp với việc chúng chống lại nhà Tần thống nhất, mưu toan khôi phục chế độ phân phong cát cứ, vì thế thủ phạm vụ này, phải tìm trong đám bề tôi và dân chúng của sáu nước chư hầu. Quan thái thú khấu đầu lia lịa, ca ngợi Thủy Hoàng sáng suốt, suy đoán sắc sảo, khiến mình đã có đầu mối tìm bắt thủ phạm, hứa nhất định không phụ mệnh vua. Thủy Hoàng lệnh cho thái thú tức tốc quay về nơi xảy ra sự việc, tra xét cẩn thận, bắt được thủ phạm, thì tru di ba họ để răn đe không cho xảy ra nữa. Lại còn nhắc lại nghiêm lệnh không phá được vụ án này thì “đem đầu tới nộp”. Để tăng cường lực lượng, Thủy Hoàng cử một ngự sử khâm sai, chỉ huy một nghìn lính hổ bôn tới Đông quận, giám sát các cấp quận, huyện xã nhanh chóng phá án.

Khâm sai ngự sử và thái thú Đông quận chỉ huy lính hổ bôn ngày đêm rong ruổi không dám rời khỏi lưng ngựa chạy tuốt một mạch về hiện trường. Tại đây, không còn người nơi khác đến xem vật lạ nữa, dân địa phương đi đâu cũng tìm đường vòng để đi, thậm chí chẳng dám nhìn về phía tảng đá nữa. Từ sau khi các chức sắc quận, huyện, xã đến bước đầu điều tra, mọi người ngẫm lại thấy nhiều chuyện lạ. Bắt đầu từ năm thứ bảy sau khi Thủy Hoàng lên ngôi vua, sao chổi xuất hiện nhiều lần, Hạ thái hậu mẹ đẻ của Tiên vương đột nhiên băng hà; năm sau, Trường An quân Thành Kiều làm phản, tự sát ở Đồn Lưu; năm thứ chín lại nhiều lần xuất hiện sao chổi, liên tục xảy ra những vụ thảm sát như Lao ái làm binh biến ở cung Kỳ Niên sau bị xe ngựa phanh thây, rồi đến trận băng giá lớn làm rất nhiều người chết, Thủy Hoàng trong một cơn thịnh nộ đã giết hai mươi bảy bề tôi can gián. Bây giờ thiên thạch rơi xuống làng, lại có bảy chữ phản nghịch, chắc hẳn lành ít dữ nhiều, cho nên họ coi là điềm chẳng lành, lo tránh cho xa, công việc đồng áng xong là về nhà ngay đóng cửa ở lỳ bên trong, chỉ sợ bị liên lụy. Nay Thủy Hoàng lại cử ngự sử khâm sai đến điều tra, đừng nói gì người, ngay cả chó gà cũng không thoát khỏi tai vạ này rồi.

Ngự sử, thái thú, huyện lệnh theo ý chỉ của Thủy Hoàng, đầu tiên điều tra cư dân quanh vùng, thấy bảy mươi phần trăm là dân cũ nước Triệu, còn lại là binh lính Tần thoái ngũ mới đến an cư lập nghiệp tại địa phương. Họ bèn dùng kế ly gián để phân hóa chia rẽ họ. Thái thú nói với binh lính Tần thoái ngũ:

- Các ngươi đã theo Thủy Hoàng chinh chiến nhiều năm, có nhiều công lao, tuy đã giải ngũ, vẫn phải một lòng với triều đình. Khắc những lời phản nghịch trên đá, chắc là do đám dân nước Triệu làm, các ngươi ai biết phải tố giác để trừng trị lũ phản nghịch. Lòng trung quân báo quốc đáng được trọng thưởng.

- Kẻ tôi tớ này từ ngày cởi bỏ áo lính về với đồng ruộng, lương bổng chẳng có, phải gắng sức cày cấy để nuôi gia đình, suốt ngày tất bật làm lụng, rất ít chơi bời với hàng xóm láng giềng. Việc khắc chữ vào thiên thạch có phải là dân cũ nước Triệu làm hay không, kẻ tôi tớ này không biết gì, không dám nói bậy, kính mong tha tội.

- Nghĩ mình theo thánh thượng chinh chiến nhiều năm, hổ thẹn chẳng có công lao gì, suốt đời làm lính quèn, rồi giải ngũ tại đây, làm con rể nhà dân nước Triệu. Quanh năm sống cùng nhau, thấy các bậc cha ông và anh em đều một lòng thần phục thánh triều, cảm tạ ân đức nhà vua. Họ đâu dám liều lĩnh phạm tội mất đầu tru diệt ba họ, khắc chữ vào đá, chống Tần phản chúa. Việc này vô cùng hệ trọng, mong đại nhân phán xét, đâu dám bịa đặt trước các quan, vu hại người ta làm việc bất nghĩa? Mong đại nhân minh xét!

Những lời cung khai này khiến quan thái thú rất thất vọng, liền giở thủ đoạn thúc ép đe dọa bảy mươi phần trăm dân nước Triệu cũ, hòng truy bức họ. Ông ta hùng hùng hổ hổ hỏi họ:

- Từng biết loài rết trăm chân chết rồi vẫn không nát. Bọn các người nước tan vua mất đã bị nước Tần ta tiêu diệt vẫn không chịu yên thân, luôn luôn muốn ngóc đầu dậy. Nay thấy sao băng rơi xuống, muốn giậu đổ bìm leo, khắc đá nguyền rủa nhà vua, mưu đồ khôi phục chế độ phân phong chư hầu, xóa bỏ hiện tại, khôi phục cổ xưa. Giả danh đạo trời, để che giấu tội. Đâu có biết thánh thượng anh minh, sớm đã rõ mưu gian. Nay lệnh cho quận thú ta tra xét. Tất cả những kẻ gian trá phạm pháp, phải thành thực cung khai. Ơn đức vua rộng lớn, sẽ xem xét khoan hồng mở đường cho chúng bay hối cải. Nếu có tội mà không nhận, mưu toan trốn tội, một khi tra xét ra sẽ bị tru di ba họ. Kẻ nào biết mà không khai báo, sẽ chịu tội tru di. Sống chết là hệ trọng, hãy mau chóng chọn lựa, nhận tội để được khoan hồng. Thời hạn ngắn ngủi, không chờ bọn ngươi đâu, luật pháp nghiêm minh, bọn ngươi đã sớm biết rồi đó, hay còn dám lấy mạng sống giỡn với pháp luật?

- Tự biết mình là dân mất nước, chúng dân xưa nay yên phận thủ thường, đâu dám làm điều gì sai trái? Thấy những sự khác lạ, chúng dân đều không dám ngó ngàng. Lần này đá lạ từ trên trời rơi xuống, lại có lời lẽ phản nghịch, tuy có nghe tin đồn, chúng dân bảo nhau cứ tránh đi là hơn cả. Còn như đại nhân hỏi về việc khắc chữ lúc canh khuya, làm tổn thương thánh chúa, chúng dân lại càng không biết gì cả. Mong đại nhân thương dân, tha cho chúng dân vô tội. Chúng dân sống làm ngậm vành, chết làm kết cỏ, để báo đền ân đức đại nhân!

- Vua nước Triệu trước đây phụ lòng tin cậy của tiên vương, u mê ngu muội, khiến dân tình khốn khổ, phải sống trong nước sôi lửa bỏng, không sao chịu đựng nổi. Thủy Hoàng đã làm theo mệnh trời, trừ diệt sáu nước. Chúng thảo dân được là dân thánh triều, chịu ơn giáo hóa mưa móc. May mắn hơn nữa muôn dân có được ruộng đất, tự nuôi sống bằng sức mình, dần dần khấm khá lên. Vô cùng cảm tạ minh quân đất nước thịnh vượng đã mang lại ân trạch cho chúng dân, làm sao chúng dân có thể vì chữ khắc trên thiên thạch mà mượn gió bẻ măng, dám làm những việc sai trái tầy trời được? Đại nhân nghiêm lệnh tra xét, đấy là mệnh lệnh triều đình, chức trách vua giao. Chúng thảo dân thật sự không mảy may sai trái, vì thế không thể nào cung khai được. Đại nhân đèn trời soi xét, thấy rõ tâm can thảo dân, thấu hiểu thực tình, mở đường thoát cho chúng dân. ơn tái tạo chúng dân suốt đời ghi lòng tạc dạ, chỉ mong được báo đền cho dù muôn một.

Trước những lời cung khai chân thực và khẩn thiết, quan thái thú không những chẳng hề động lòng mà lại càng vô cùng tức giận vì không thu được kết quả gì, đã cùng ngự sử, huyện lệnh chia nhau xét hỏi từng người trong làng, tra tấn bức cung để thực hiện mưu gian. Nhưng bách tính thuần hậu lương thiện, vì thấy mình vô tội nên trước sau vẫn chẳng cung khai gì. Ngự sử chẳng muốn về triều mà không lập được công lao gì, thái thú dĩ nhiên càng không muốn đem đầu tới gặp Thủy Hoàng. Họ liền phái một nghìn lính hổ bôn, cùng với quân lính quận, huyện, tất cả hơn hai nghìn, đang lúc đêm khuya không trăng sao, thình lình đến vây chặt làng xóm chung quanh tảng thiên thạch. Kỵ binh bịt chặt cổng, bộ binh xông vào chém giết hết hơn một nghìn trẻ già trai gái của hơn hai trăm hộ trong làng. Người già trẻ nhỏ không chống nổi, thanh niên trai tráng liều mạng trốn chạy thì bị kỵ binh cho ngựa xéo chết. Tiếng người kêu ngựa hý, tiếng gào khóc thảm thiết vang động cả một vùng nghe cực kỳ thảm thương. Cuối cùng cả làng bị phóng hỏa thiêu trụi, nhà cửa đồ đạc bốc cháy đùng đùng, thi thể bị thui đen nứt nẻ, mùi khói khét nồng nặc. Tảng thiên thạch cũng bị đập vỡ rồi đem đốt thành mảnh vụn, người ngựa chà đạp thành một vùng bùn lầy.

Ngự sử khâm sai dẫn quân hổ bôn về triều phục mạng, thái thú Đông quận cũng theo về kinh. Chuyến đi này, ông ta vênh vang đắc ý hơn lần trước nhiều, hơn một ngàn lính hổ bôn đi trước dẫn đường, thật là oai phong. Điều quan trọng hơn, kết quả điều tra dẫu không bắt được thủ phạm khắc chữ trên đá kia nhưng đã xử trảm hơn một nghìn “dân cũ nước Triệu” và dân Tần đồi bại chống Tần theo Triệu. Điều này hẳn là hợp ý thánh thượng rồi. Thủy Hoàng nghe quan thị vệ trình tấu, lập tức cho vời vào ngay. Nghe hai bề tôi thuật lại vô cùng sinh động quá trình tra xét và tàn sát dân làng, rồi phóng hỏa đốt xác diệt làng, ngay cả tảng đá chống Tần hạ nhục vua cũng bị thiêu thành tro tàn. Tần Thủy Hoàng nghe mà cảm thấy dường như mình cũng có mặt tại đấy, đồng cảm với tâm trạng cuồng bạo dã man ấy và tỏ ra vô cùng thích chí. Ngay hôm đó thết tiệc khoản đãi ngự sử và thái thú Đông quận, vui vẻ luân công ca ngợi vua khen thưởng bề tôi. Thủy Hoàng trọng thưởng cho hai người, và cũng thưởng công cho một ngàn lính hổ bôn. Tiệc rượu bày ra giữa cung đình tráng lệ, yến ẩm hân hoan, mặt mày rạng rỡ. mọi người cùng thưởng thức đàn ca, hát múa vui vẻ kéo dài mãi tới canh khuya mới tan cuộc.

Thủy Hoàng từ nhỏ vốn đã hiếu thắng, ham thích võ nghệ. Nhất là từ ngày lên làm vua, trong những cuộc chinh chiến dẹp trừ sáu nước, ông luôn đi cùng quân đội đốc chiến, tham dự các trận đánh, cho nên đã quen với cuộc đời chiến đấu giữa rừng gươm biển giáo trên chiến trường mưa tên bão đạn, đặc biệt thích thú với những cuộc tàn sát cuồng bạo, chém đầu tắm máu. Giờ đây đã tới tuổi tri thiên mệnh, làm vua trăm họ, sáu nước đã diệt, chẳng còn chiến sự quy mô lớn nữa. Kể từ khi mềm đam mê chuyển sang tuần thú và cầu tiên tìm thuốc để mãi mãi trường thọ, những chuyện đã xảy ra như vụ phong thần ở Thái Sơn, mò đỉnh ở Tứ Thủy, sự lừa dối của Lư Sinh, Hầu Sinh, Từ Phúc, đòn chùy ở Lang Nha, nỗi hoảng sợ trước thần núi Kiệt Thạch, không những chẳng giúp ông tĩnh tâm suy nghĩ, ngược lại luôn luôn ám ảnh ông, khiến ông bực bội không yên. Vụ thiên thạch đề chữ, chuyện giết người đốt làng, càng khiến tính cách bạo ngược hung tàn trong ông được dịp bùng lên. Ông muốn tìm lại khoái cảm và thỏa mãn trong những cảm giác mạnh, nên ngay hôm sau với sự tháp tùng của Mông Nghị, Vương Ly, Triệu Cao, ông đã dẫn theo hai trăm cận vệ tới Thượng Lâm Uyển ngoại thành Hàm Dương đi săn bắn suốt một ngày. Tướng sĩ phi ngựa xua chó, dồn chim thỏ, hươu nai chồn cáo chạy hết lên đường, xe vua đi giữa vườn. Thủy Hoàng phóng ngựa giương cung tha hồ bắn giết. Ông thấy chúng chạy tán loạn cuống cuồng sợ hãi thì vô cùng khoái chí. Nhất là khi thấy mình bắn trúng hoặc bắn chết được con mồi, nhìn thân hình chúng giãy giụa máu me đầm đìa, ông vui như điên, chẳng khác nào tướng sĩ khát máu nơi chiến trường. Ông để đám cận thần nhặt hộ, ông treo những “chiến lợi phẩm” ấy tại những chỗ dễ nhìn thấy nhất trên xa giá của mình rồi thủng thẳng ra về.

Muôn dân nhìn thấy rạp mình vái chào, tung hô vạn tuế, ca ngợi thần uy thánh võ, anh hùng cái thế của ông. Chiến lợi phẩm được giao ngay cho ban ngự thiện nấu nướng để chế biến thành món ăn ngon, để ông cùng thưởng thức uống với đám cận thần tùy tùng. Đương nhiên khi ấy phải có lộng thần Ưu Chiên làm trò góp vui và biểu diễn ca múa.

Đêm ấy, Thủy Hoàng ngủ rất ngon, nằm mộng thấy mình đang thúc mạnh ngựa tiêm ly đuổi giết con mồi đang tháo chạy, bề tôi và tướng sĩ đi theo lớn tiếng hò hét, y hệt khi thế trận ác chiến. Ông mơ màng trở mình, vẫn luôn miệng hò hét xông lên, những đối tượng bị truy đuổi không phải là muông thú mà là cảnh tàn quân bại tướng của sáu nước. Thế là ông càng hăng lên, hò hét mỗi lúc một to. Con ngựa tiêm ly lao như điên, bỗng húc đầu vào một gốc cây, hất văng ông xuống đất, khiến ông bị đau ở lưng. “Ối, ối”, ông kêu lên rồi tỉnh dậy. Ưu Chiên luôn túc trực ở bên vội đỡ ông dậy, ân cần hỏi:

- Bệ hạ ngủ không được ngon giấc lại còn ngã xuống đất.

Thủy Hoàng xoa chỗ đau, cười buồn bã:

- Ta đang nằm mơ, ngã từ trên ngựa xuống.

Ưu Chiên giọng bông lơn:

- Thịt hươu ngon quá, hèn chi bệ hạ vẫn còn muốn đi săn, cứ hò hét “giết, giết”.

Thủy Hoàng kể:

- Ta đang đi săn, sau đó bỗng trở thành đánh trận. Ta càng đánh càng hăng, càng hăng lại càng muốn giết người.

Ưu Chiên cười khềnh khệch, nói:

- Bệ hạ chém được bao nhiêu thủ cấp, có thể báo công để thăng cấp đây?

Thủy Hoàng ha hả cười:

- Ta là thiên tử, chỉ có ta thăng cấp cho kẻ khác, ai thăng cấp cho ta hả? - Nhìn vẻ hài hước của Ưu Chiên, Thủy Hoàng liền nói đùa - Hay ngươi thử thăng cấp cho quả nhân xem nào?

Nào ngờ Ưu Chiên lập tức nói với giọng nghiêm chỉnh:

- Bằng vào việc giết người, thần không thể thăng cấp cho bệ hạ được.

Thủy Hoàng hỏi vì sao, Ưu Chiên đáp:

- Bệ hạ tàn sát sinh linh, chuyện đó rất không hay.

- Ta giết người để thống nhất thiên hạ.

- Theo như những chuyện thần được nghe của các bậc tiền bối thì không phải như vậy.

Thủy Hoàng hỏi:

- Chuyện thế nào?

Ưu Chiên liền kể cho Thủy Hoàng nghe một đoạn chuyện: “'Mạnh Tử du thuyết chư hầu, gặp Tương Vương, con trai Lương Huệ Vương. Tương Vương bỗng hỏi, thiên hạ làm thế nào mới yên ổn được? Mạnh Tử trả lời, thiên hạ thống nhất thì sẽ được yên ổn. Tương Vương lại hỏi, ai có thể thống nhất được thiên hạ? Mạnh Tử trả lời, kẻ không thích giết người có thể thống nhất được thiên hạ...”.

Không để Ưu Chiên kể tiếp, Thủy Hoàng đã tức giận nói:

- Ngươi làm sao mà lại giống những nho sinh ngoan cố cổ hủ như Thuần Vu Việt, lấy cái đạo Khổng Mạnh để phủ nhận ta?

Ưu Chiên ngây thơ cười:

- Xin bệ hạ chớ nên quá lời như vậy. Lão tiên sinh Thuần Vu Việt dùng lời lẽ của ông ta chống lại bệ hạ trong luận bàn triều chính, còn thần chẳng qua chỉ kể chuyện cho bệ hạ nghe.

Thủy Hoàng giọng vẫn bực bội:

- Kể chuyện chẳng phải vẫn cứ là lấy cái xưa phủ nhận cái nay, phủ nhận quả nhân đó sao?

Ưu Chiên vội xua tay nói:

- Thần kể chuyện chỉ là để nói lại ý của người xưa về việc giết người, bệ hạ cho là đúng thì nghe, cho rằng sai thì trước tiên xin chặt đầu thần.

Thủy Hoàng nói:

- Dẫu sao đi nữa thì ngươi đã ví quả nhân với Lương Tương Vương rồi...

Ưu Chiên cười rất sảng khoái:

- Lương Tương Vương kém cỏi bất tài, chẳng có công lao gì; còn bệ hạ không những là một đấng quân vương, hơn nữa đã thống nhất được thiên hạ, uy danh lừng lẫy. Nói chi tiểu thần, mà ngay cả Mạnh Tử tái thế cũng sẽ nói, nhìn là biết ngay dáng vẻ quân vương, uy phong ấy, ai ai cũng phải kính sợ!

Nghe nói thế Thủy Hoàng nguôi giận, cũng cười bảo:

- Nếu Mạnh Tử gặp ta, ông ấy có dám khuyên ta như vậy không?

Ưu Chiên thưa:

- Dám chứ ạ. Mao Tiêu, Úy Liêu vô lão tiên sinh Thuần Vu Việt chẳng phải là đã liều mạng can gián đó sao? Lại cả đám thần sinh cũng đã khuyên can bệ hạ. Bệ hạ đã không giết họ, huống hồ bề tôi chỉ là một lộng thần làm trò mua vui cho bệ hạ.

Thủy Hoàng thấy không nói nổi Ưu Chiên liền phẩy tay tỏ ý cho lui.

Thủy Hoàng tuy không bắt tội Ưu Chiên, nhưng rất không hài lòng trước lời mỉa mai bóng gió rằng ông thích giết người, nhất là việc dẫn ra quan điểm của Mạnh Tử. Đúng là đồ đệ của đám hủ nho Thuần Vu Việt, Lư Sinh rồi. Nhưng sau đó lại nghĩ, chủ trương của Khổng Mạnh chẳng lẽ chuyên để châm biếm mình, phải đọc cho kỹ xem rút cục nói những gì, bèn lôi tập sách “Luận ngữ” của Khổng Tử trên kệ sách đặt ở góc tường xuống. Quả nhiên thiên nào cũng tuyên dương vương đạo và nhân chính, phủ định bá đạo và bạo chính; càng đọc Thủy Hoàng càng bị kích thích, càng đọc càng bực bội. Khi đọc tới câu “Nước mà sắp mất, tất có yêu nghiệt hiện ra ở mai rùa già, động khắp tứ chi”, Thủy Hoàng bèn liên tưởng đến thần biển Kiệt Thạch dìm chết người, nghĩ mà vừa sợ vừa giận. Sau đó đọc tiếp tới câu “Chủ ngu mà cứ cho mình là đúng, hèn mà cứ cho mình là sang, sống ở đời nay mà làm ngược lại đạo xưa, loại người như thế sẽ tự mang họa vào thân”, cảm thấy từng chữ từng chữ đang mắng chửi mình, thì đùng đùng nổi giận, suốt đêm không tài nào chợp được mắt. Sáng sớm hôm sau, Thủy Hoàng triệu ngay Lý Tư đến hỏi:

- Đốt sách lần trước, lục soát quê Khổng Tử thế nào?

Lý Tư trả lời:

- Cháu tám đời Khổng Phu Tử là Khổng Phụ chạy trốn, không biết đi đâu. Miếu thờ Khổng Tử, vì dân chúng địa phương căm phẫn đứng ra bảo vệ, không dám chống lại lòng phẫn nộ của dân nên không dám động vào.

Thủy Hoàng lập tức cùng Lý Tư, Triệu Cao, Mông Nghị do một ngàn quân hổ bôn hộ giá, đến thẳng Khuyết Lý, huyện Khúc Phụ, Tề quận định phá hủy lăng mộ Khổng Tử, bật nắp quan quách, thiêu xác Khổng Tử, để trút nỗi căm giận trong lòng. Khi san phẳng lớp đất bên ngoài, đào mộ Khổng Tử, thì thấy trên vách trong huyệt mộ có ghi một bài sấm ngữ: “Tần Thủy Hoàng, sao dám ngang ngược, mở cửa nhà ta, chiếm giường của ta, uống rượu của ta, nhổ bọt vào nhà ta, giương cung của ta, bắn vào tường đông, lục tung quần áo của ta, đi tới cồn cát ắt tiêu vong”.

Thượng khanh Mông Nghị giám sát việc đào mộ, thấy lời sấm như vậy thì sợ toát mồ hôi, chỉ muốn lấp lại nhưng lại sợ cuối cùng vẫn phải đào lên, liền hốt hoảng bẩm tấu Thủy Hoàng. Thủy Hoàng đã định sau khi bật nắp quan quách Khổng Tử sẽ đích thân châm lửa thiêu hủy ông thủy tổ Nho gia này, giờ nghe Mông Nghị nói thế, đã thấy rợn người, nhưng vẫn muốn đích thân đến xem. Trong bụng nghĩ thầm:

- Cái ông Khổng Phu Tử này qua đời đã hai trăm năm mươi năm rồi, làm sao lại biết trước được việc này của mình nhỉ? - Thủy Hoàng thấp thỏm hồi hộp xuống tới huyệt mộ, khi ngẩng đầu nhìn sấm ngữ trên vách mộ, quan sát kỹ càng đúng là không phải gần đây mới viết, khiến ông không thể không tin là sự thật, nhất là hai chữ “diệt vong” ở cuối câu, điều mà ông ta kỵ nhất, thấy sợ quá bèn không dám đốt thi hài Khổng Tử nữa. Như con thú dữ bị thương, mắt tuy vẫn hung hãn nhưng chẳng còn vẻ tinh nhanh nữa, Thủy Hoàng nặng nhọc vất vả lắm mới bước hết bậc thềm lên được mặt đất, rồi tức tốc lệnh cho Mông Nghị đắp lại mộ huyệt, còn ông vội vã lên xe, thúc giục đám cận thần và lính hổ bôn lập tức rời khỏi Khuyết Lý, trở về Hàm Dương.

Về tới thành Hàm Dương, liền mấy ngày Thủy Hoàng không sao trấn tĩnh lại được. Một là sấm ngữ trên vách mộ Khổng Tử khiến ông vẫn còn sợ hãi; hai là nỗi hối hận, nếu đừng đi quật mộ Khổng Tử thì sấm ngữ ấy sẽ không thể bị phát hiện và bản thân cũng không bị xúc động mạnh đến như thế này. Xem ra vẫn phải đến tu hành ở đảo Bồng Lai nhân tạo thôi, cầu mong “mắt không thấy, lòng không phiền, tai không nghe, bụng tự yên”. Và ông lại giao việc triều chính cho hai vị thừa tướng thay mình cai quản, một mình ở trong mật thất chuẩn bị trong một thời gian dài tĩnh tâm tu dưỡng, điều hòa tâm thần. Nhưng chỉ được mấy ngày, thượng khanh Mông Nghị lại đến gõ cửa xin cầu kiến. Tuy Thủy Hoàng một mực từ chối, nhưng Mông Nghị vẫn cứ nài xin rằng việc này chỉ có bệ hạ mới làm được, bất cứ ai khác cũng đều bất lực. Thủy Hoàng thấy nói quan trọng đến như vậy, đành rời mật thất cùng Mông Nghị trở về tẩm cung.

Mông Nghị dẫn một sứ giả vào. Sứ giả tay bưng một lễ vật bọc trong lụa gấm, sau khi quỳ xuống thi lễ chào Thủy Hoàng bèn đưa bọc gấm cho Mông Nghị. Thủy Hoàng liếc nhìn bọc gấm, hỏi Mông Nghị trong đó gói vật gì, Mông Nghị tâu rằng chính ông bây giờ mới đón nhận, chưa mở ra xem nên không biết trong đó gói báu vật gì. Thủy Hoàng quay ra hỏi sứ giả, sứ giả cũng bối rối lúng túng nói rằng không biết. Thủy Hoàng nổi giận lớn tiếng quở mắng:

- Đã là sứ giả mà vật gì gói trong đó cũng không biết là làm sao? Há chẳng phải cố tình huyễn hoặc, khinh nhờn quả nhân? Đáng tội gì hả?

Sứ giả vội vã phân bua:

- Thưa bệ hạ, thần là tín sứ của quận Trường Sa mang công văn đến phủ thái úy. Lúc hoàng hôn, khi đi qua Bình Thư đạo huyện Hoa Âm thì từ trong rừng vụt hiện ra một người chặn ngựa của hạ thần lại hỏi là đi đâu, thần trả lời lên kinh thành giao nộp công văn. Người ấy cười bảo, thế là đã tìm được người phù hợp rồi, nói xong lấy từ trong bụng ra gói lụa nhỏ này, trịnh trọng nói với hạ thần rằng nhờ đem cái này cho Hạo Trì Nhân và bảo ông ta rằng năm nay Tổ Long sẽ chết. Thần từ chối nói rằng không biết Hạo Trì Nhân là ai, làm sao mang tới nơi được? Người ấy bảo, chính vì thần đi giao nộp công văn nên mới nhờ thần làm việc này, còn như Hạo Trì Nhân là ai, cứ đến phủ ngự sử hỏi là biết ngay. Thần vừa nhận vật này, người ấy đã biến thành khói xanh, thoáng một cái không thấy đâu nữa.

Nghe tới đây, Thủy Hoàng vội ngắt lời sứ giả và hỏi:

- Đã như thế thì ngươi đem vật này giao cho Hạo Trì Nhân là được, hà tất lại giao cho quả nhân?

Sứ giả trả lời:

- Hạ thần vốn định làm như vậy, nhưng ngự sử xem vật gói bên trong, hỏi nguyên do sự việc, nói rằng việc xuất hiện vật này rất thần kỳ, không phải người đích thân trong cuộc trình lên, e người nhận không tin, do đó đành phải van nài quan thượng khanh Mông Nghị đại nhân xin bệ hạ ân chuẩn tiếp kiến, để dâng vật này lên thánh thượng, khỏi phụ lòng người cậy nhờ.

Thủy Hoàng khi ấy mới đưa tay ra nhận lấy gói lụa từ tay Mông Nghị, nhẹ nhàng mở ra xem, vật gói bên trong tỏa ra thứ ánh sáng lấp lánh như một viên ngọc dạ minh châu, cả tẩm cung sáng bừng lên. Thủy Hoàng bất giác kinh ngạc rồi vui mừng cả cười nói:

- Của báu này mất đã tám năm, nay trở về với chủ cũ thần kỳ đến như vậy, thật không thể tưởng tượng nổi. - Nói xong để vật đó trong lòng bàn tay, kể lại lai lịch của nó:

Vốn dĩ đây là viên ngọc bích, lóng lánh trong suốt, huỳnh quang sáng ngời, mài giũa tinh xảo, đúng là báu vật vô giá. Thủy Hoàng năm đó lên thừa kế ngôi vua của Trang Tương Vương, hãy còn là một thái tử nhỏ tuổi, viên ngọc này do mẹ là Triệu thái hậu ban cho, đeo ở trước ngực để luôn được may mắn. Nhưng vào năm thứ hai mươi tám, tức là tám năm trước, khi qua sông Tương thì gặp gió bão dữ dội, suýt nữa đã vùi thân trong bụng cá. Dây đeo ngọc bích đứt, viên ngọc rơi xuống sông. Sau đó đã cho người mò nhưng khác gì tìm kim đáy bể, không tài nào tìm thấy. Nay lại được thần núi ở Bình Thư đạo nhờ sứ giả mang về kinh trả lại chủ cũ, làm sao mà lại không vui mừng?

Mông Nghị và sứ giả đều trầm trồ ca ngợi là thần kỳ, đồng thanh chúc mừng Thủy Hoàng có sao lành chiếu rọi, vận nước vững bền dài lâu.

Nhưng Thủy Hoàng sau đó lại rầu rĩ ngay. Viên ngọc này là của mình, người trả lại ngọc lại muốn trả cho Hạo Trì Nhân, chuyện này là thế nào? Khi ấy sứ giả liền nhắc, người trả ngọc bảo rằng cứ hỏi quan ngự sử là biết. Thủy Hoàng liền lập tức cho triệu quan ngự sử. Ngự sử tâu rằng: Hạo Trì quân tương truyền là Chu Vũ Vương sau khi chết được thiên đế phong cho làm thần Hạo Trì Nhân ở Tây Nam Trường An. Suy luận theo ngũ hành, Chu thì đức ở hỏa, Tần thì đức ở thủy. Thủy thần Tương Giang muốn tặng ngọc bích cho Hạo Trì Nhân, nhưng đường thủy hai nơi không thông nhau, cho nên muốn nhờ bệ hạ giúp cho việc này, nên mới có chuyện như vậy”

Mọi người đều khâm phục quan ngự sử học vấn uyên bác, suy đoán sắc sảo. Thủy Hoàng muốn biết ngay vị “Tổ long” trong câu “Tổ long năm nay sẽ chết” là ai. Ngự sử suy nghĩ một lát rồi tạ lỗi thưa rằng mình tài sơ học cạn, không giải đáp được vấn đề khó này. Thủy Hoàng đành tự mình suy nghĩ đêm ngày: “Tổ long...?, “Tổ long...”, “Long...”. Suy đi nghĩ lại mãi, cuối cùng ông đã hiểu ra: Tổ là khởi thủy của người, Long là tượng trưng cho vua, Tổ long là vua Thủy Hoàng vậy. “Năm nay Tổ long sẽ chết” tức là “Năm nay vua Thủy Hoàng sẽ...”, nghĩ tới đây, bất giác thấy trong lòng vô cùng hoảng hốt và sợ hãi, miệng cứ lẩm bẩm: “Điềm dữ rồi, điềm dữ... “ rồi ngất lịm lăn ra đất.