HỒI THỨ BA MƯƠI HAI CÚNG TẾ THUẤN VŨ, TÔN SÙNG LỄ NGHĨA-TUẦN DU NGÔ VIỆT, CẤM THÓI DÂM--------
Thủy Hoàng được ngự sử nói Hạo Trì Nhân chính là Chu Vũ Vương sau khi chết được phong thần, rồi lại hiểu ra câu “Năm nay Tổ long sẽ chết” ám chỉ điềm dữ “Năm nay Thủy Hoàng đế sẽ chết”, sợ hãi quá lăn ra bất tỉnh. Tuy được thái y Hạ Vô Thả dùng kim vàng châm huyệt, cho uống tâm đan, bấm nhân trung, cứu sống lại, nhưng trong lòng vẫn vô cùng hãi hùng. Thái y vội cho mời thái bốc tới, gieo quẻ bói cho Thủy Hoàng. Thái bốc cũng là nối nghiệp ông cha làm quan ở triều đình đã mấy đời. Từ đời cha của ông đã biết rõ năm xưa tiên vương Tử Sở được thay Tử Hề sách phong thái tử, tên lái buôn nước ngoài Lã Bất Vi được phong thừa tướng, Triệu thái hậu và Lao Ái được rời khỏi cung Cam Tuyền, đến Ung Thành thả sức mây mưa... Tất cả đều dựa vào lời lẽ câu chữ quỷ thần nhập đồng của đám đồng cô này. Lần này đến xem bói cho Thủy Hoàng, thái bốc đã biết rõ như lòng bàn tay nguyên nhân hậu quả những việc đã xảy ra gần đây, vì thế vừa đến trước giường bệnh đã cố tình làm ra vẻ huyền bí, nào xem ấn đường, nhìn ánh mắt, quan sát vân tay... Sau đó tỏ ra rất nghiêm trọng tâu với Thủy Hoàng rằng: “Vì bệ hạ mấy năm nay việc tu tiên bị ngáng trở, đạo hạnh không tăng tiến, bị ma quỷ thừa cơ xâm nhập, gây thành ám khí vây bọc long thể, việc cấp bách bây giờ là phù dương khử tà, để long thể thoát khỏi quấy rầy” - Nói xong lập đàn cúng tế, đốt hương cầu khấn, các thầy đồng cô, tay trái ấn quyết, tay phải múa gươm, xõa tóc nhảy múa, đọc thần chú trước long sàng, sau đó quay lại đàn tế, lấy mai rùa hơ trên lửa. Thầy đồng nhíu mày nheo mắt quan sát những vết nứt ngang dọc, miệng đọc những kết quả quan sát cô đồng ghi lại. Tiếp đó đặt mấy cọng cỏ thi vào một bát “nước thánh”, chăm chú nhìn cọng cỏ quay quay một lúc trên mặt nước, tới khi dừng lại, thì ngẩng mặt lên trời vái lạy lia lịa, nói: “Kính mong thần linh chỉ giáo, đệ tử đang vâng mệnh khử tà trị bệnh, khắc dữ cầu lành cho bệ hạ”. Lạy xong đứng dậy, cô đồng miệng nói, thầy đồng cầm bát, viết ra tờ thiếp như sau:
Thành kính cầu khấn thượng giới, thần minh chỉ bảo rõ ràng.
Bệ hạ tu hành trở ngại, tà ác thừa dịp tăng cường.
Mai rùa hiện rõ dịch quẻ, cỏ thi chỉ hướng tơ tường
Là để tiên nhân xuất du, rồng cầu hô phong hoán vũ
Mùa xuân vũ trụ rạng rỡ, người người cảm ứng đất trời
Muốn trừ tai tăng thọ, tuần du chuyển dịch còn gì lành hơn.
Thủy Hoàng xem xong tờ thiếp quẻ bói, ngẩng mặt lên trời vái dài, tạ ơn thần linh chỉ bảo, rồi trọng thưởng cho thầy cô đồng, hai người vô cùng phấn khởi, mang đồ thưởng ra về.
Theo chỉ dẫn của quẻ bói, Thủy Hoàng quyết định vào tháng ba năm sau lại đi tuần thú. Đấy là “du” còn “chuyển dịch” thì phải di dời, thí dụ mười năm trước di dời hai vạn phú hào tới Hàm Dương, là “chuyển dịch” quy mô lớn. Giờ đây, dân số Hàm Dương đã quá đông, không thể “chuyển dịch” vào được nữa, hơn nữa tình hình đã ổn định, cũng không cần “chuyển dịch” đi nữa. Vậy thì chỉ còn cách “chuyển dịch” ở những nơi khác. Ông cho triệu quan nội sử trông coi nắm giữ lương thực và tài chính đến, căn cứ vào nhu cầu điều tiết mật độ dân số và cân bằng sinh thái nông nghiệp, ban chiếu lệnh di chuyển ba vạn hộ Du Trung Hà Bắc tới nơi cần tăng thêm dân số để bù đắp thiệt hại cho những hộ phải di chuyển, ưu đãi miễn trừ lao dịch mười năm để khuyến khích.
Trong thời gian bồi bổ sức khỏe chuẩn bị tuần du, Thủy Hoàng còn có hai quyết định quan trọng. Một là chấp nhận đề nghị của Triệu Cao và cũng chính là mong muốn của ông cho phép người con trai nhỏ là Hồ Hợi được tùy giá xuất du. Trong đám hai mươi mấy hoàng tử, Hồ Hợi được ông yêu quý nhất. Thứ hai, lệnh cho các tiến sĩ viết một bài thơ “tiên chân nhân” để nhạc sĩ phổ nhạc, rồi cho lính hoàng môn và hổ bôn trong đội ngũ tuần du ca hát tuyên truyền cho nhà vua này từ con người vĩ đại biến thành vị thánh vĩnh hằng. Từ sau khi đốt sách chôn học trò, các tiến sĩ sống trong nơm nớp hãi hùng, lo tính mạng bị nguy hiểm nay được làm thơ ca ngợi công đức to lớn của Thủy Hoàng, thật sự cảm thấy được tôn trọng nên vô cùng cảm động, nhất trí cử bậc túc nho Thúc Tôn Thông làm chủ bút. Liền trong ba tháng, bài “thơ tiên chân nhân” do các tiến sĩ sáng tác tập thể sau nhiều lần sửa chữa đã được phổ biến rộng rãi trong tuần du:
Thủy Hoàng đế chừ bậc chí tôn, đức sáng láng chừ luôn vĩnh hằng.
Đất nước này chừ là đất vua, thiên hạ này chừ thần dân nhà vua.
Công lao vĩ đại chừ muôn dân ghi nhớ, mong ngài thọ chừ, chúc ngài trường sinh.
Có Bồng Lai chừ Bồng danh, chốn tiên đảo chừ vang tiếng đàn xa.
Thế giới này chừ nơi biển cả, mong ra nghênh đón chừ tiên chân nhân.
Tháng 3 năm ba mươi bảy Thủy Hoàng, Thủy Hoàng phó thác cho Hữu thừa tướng cùng Khứ Tật cai quản việc triều chính, rồi dẫn con trai nhỏ Hồ Hợi, Tả thừa tướng Lý Tư, Trung xa phủ lệnh Triệu Cao, Thượng khanh Mông Nghị rời Hàm Dương đi tuần thú Đông Nam. Đội ngũ xa mã, kỵ binh, bộ binh, mấy vạn người, thanh thế rầm rộ, uy vũ hùng tráng, lại thêm hàng nghìn người hợp xướng (“thơ tiên chân nhân”), khí thế ngút trời, rung chuyển cả núi non. Đoàn xa mã đi qua Vũ Quan. Man Dương, Nam quận tới núi Thương Ngô (Nay là núi Cửu Nghi) thuộc vùng Vân Mộng, quận Trường Sa. Thủy Hoàng sở dĩ lấy đây là chặng đầu tiên là vì mấy năm nay đã xảy ra nhiều chuyện không may. Gần đây nhất là chuyện thần núi trả lại ngọc bích và tiên đoán “Tổ long sẽ chết”. Ông linh cảm thấy việc ngọc bích tìm thấy ở Tương Giang chắc chắn là do Tương Quân, Tương phu nhân lấy giao cho thần núi, rồi lại nhờ sứ giả giao cho mình, còn “Tổ long năm nay sẽ chết” là hai bà phi muốn trừng phạt mình. Do đó, ông phải tới đây tạ tội với hai bà, xin hai bà tha thứ. Ông chẳng quản đường xa vất vả, mùa xuân ở miền Nam nhiều mưa, đường hiểm rêu trơn, và cũng chẳng bụng dạ nào thưởng ngoạn cảnh rừng nguyên thủy nhiệt đới bạt ngàn xanh tươi, cảnh núi non hùng vĩ với những đỉnh núi lô xô và hoa cỏ xanh non mơn mởn, chỉ mau mau đi tìm ngọn núi thứ sáu nơi có mộ vua Thuấn. Chín ngọn núi ở đây hình dáng rất giống nhau, khiến người ta cứ nghi hoặc rất khó nhận ra, nên có tên là “Cửu Nghi”. Sau nhiều lần leo lên leo xuống, vòng đi vòng lại họ mới tìm được mộ vua Thuấn. Nơi đây hẻo lánh xa xôi, lại phôi pha cùng năm tháng nên phần mộ rất khó tìm. May có bụi tre đằng ngà đã nhuốm nước mắt hoàng hậu Nga Hoàng, Nữ Anh lại rất tươi tốt, xanh thắm mượt mà. Nước mưa chảy theo lá cành, hệt như dòng lệ thương nhớ người thân không bao giờ cạn của Nga Hoàng, Nữ Anh.
Thủy Hoàng nhìn thấy bụi tre đằng ngà, cảm thấy day dứt trong lòng, lệnh ngay cho thị vệ san đất tại chỗ lập tế đàn, thắp hương đốt nến, dâng lễ tam sinh. Thủy Hoàng quỳ xuống rót rượu, phủ phục xuống đất, hai mắt nhắm nghiền, tỏ lòng sám hối trước vong linh hai vua Nghiêu, Thuấn mà trong tâm tưởng của ông, họ đang phiêu diêu đâu đây ngay trên đầu mình. Ông lặng lẽ hối lỗi trước hai vị thánh quân viễn tổ. Bản thân từ nhỏ sống trong cung đình đã được nuông chiều, tuổi còn nhỏ đã được kế vị tiên vương, thừa kế cơ nghiệp to lớn của tổ tiên truyền lại, lại được bá quan văn võ phò tá, phát triển thế mạnh sáu đời, chấn hưng chính sách tốt để cai trị đất nước, đã diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ, chấm dứt tình trạng chư hầu cát cứ, chiến tranh liên miên mấy trăm năm, thực hiện được xe đi cùng một đường, chữ viết cùng một loại, hành cùng một đạo, thi hành chế độ quận huyện làm cho nhân dân có ruộng tự cày cấy, kinh tế tự phát triển. Song, bản thân vì ỷ thế có công lao nên sinh kiêu ngạo, lạm dụng sức dân, ham chuộng xa hoa, bưng mắt bịt tai, nhất là đã khinh thường bất kính đối với hai ngài thánh quân tiên tổ, nói năng bừa bãi, có những lời lẽ khinh nhờn bổ báng, lại còn ngông cuồng, coi đức mỏng công mọn của mình hơn cả Tam hoàng Ngũ đế xưa kia. Thật là quá đỗi khờ dại, quá đỗi nông cạn, chẳng hiểu thế nào là trời cao đất dày cả. Chuyến đi đặc biệt từ Hàm Dương đến Thương Ngô lần này chính là để tỏ lòng hối lỗi sâu sắc với hai ngài, xin hai ngài rủ lượng hải hà tha thứ cho sự ngu ngốc và không biết gì của bỉ nhân. Nói tới đây, bất giác xúc động, thấy trong mắt ươn ướt, Thủy Hoàng vội giơ tay lên lấy tay áo lau mắt. Lúc cúi đầu xuống mắt lại nhìn thấy khóm tre đằng ngà như đang rơi lệ, vội quay người quỳ trước khóm tre, hổ thẹn, hối hận nói: “Chín năm trước bỉ nhân qua Tương Giang vào hồ Động Đình đi du ngoạn Tương Sơn, nào ngờ giữa đường gặp gió lớn, đã không hiểu thiên thời không tùy thuộc theo ý người, lại trút giận vào hai vị hậu phi, phóng hỏa đốt Tương Sơn, đốt cả đền Tương Quân và bài vị của hai ngài. Giờ đây nghĩ lại, thấy làm như thế quả là không phải. Cách đây ít lâu, hai ngài lại nhờ thần núi Bình Thư Đạo trả cho tôi ngọc bích đã mất ở Tương Giang và nhờ chuyển cho Hạo Trì Nhân, đồng thời còn truyền rằng “Năm nay Tổ long sẽ chết” kỳ thực là báo trước cho bỉ nhân: Thủy Hoàng đế sẽ chết. Bỉ nhân biết đây là trừng phạt đối với bỉ nhân, bỉ nhân có tội bỉ nhân phải gánh chịu. Nhưng bỉ nhân chưa muốn chết - Nói thực lòng là sợ chết. Bỉ nhân lên ngôi từ lúc mười ba tuổi gian khổ vất vả, một lòng tận tụy trong suốt ba mươi bảy năm. Năm nay vừa chẵn năm mươi tuổi làm sao có thể từ bỏ thế giới tốt đẹp này? Vì thế bỉ nhân đến đây dâng lễ để tạ tội với hai ngài, thỉnh nhị vị hậu phi thể tình bỉ nhân phạm tội lần đầu, thu hồi lời nguyền “Năm nay Tổ long sẽ chết”, nương tay, cho bỉ nhân được sống thêm ít năm nữa. Bỉ nhân hứa quyết không tái phạm, thỉnh nhị vị giám sát chặt chẽ. Xin nhị vị hậu phi cho bỉ nhân cơ hội sửa chừa lỗi lầm. Bỉ nhân nhất định sẽ xây lại đền thờ hai vị, tạc lại tượng vàng như cũ”.
Nói tới đây, Thủy Hoàng bật khóc hu hu. Hồ Hợi, Triệu Cao vội đến khuyên giải, nâng ông dậy, dìu ông từ từ xuống núi.
Vua tôi sau khi xuống núi liền đi thuyền theo dòng Tương Giang tiến lên phía Bắc. Khi thuyền vào hồ Động Đình, trước mặt xa xa là Tương Sơn, Thủy Hoàng vội bày hương án cung kính quỳ xuống vái lạy Tương Sơn, lặng lẽ cầu xin hai hậu phi Nga Hoàng, Nữ Anh tha thứ.
Ngày hôm ấy gió êm trời đẹp, mặt nước sáng như gương, tám trăm dặm hồ Động Đình mênh mang sóng gợn, mặt hồ lóng lánh cảnh đẹp như tranh. Thủy Hoàng nghĩ bụng, hai hậu phi Nga Hoàng, Nữ Anh đã xá tội cho mình nên trong lòng rất vui vẻ vừa thưởng ngoạn phong cảnh mặt hồ, vừa cùng con trai Hồ Hợi và mấy vị cận thần chuyện trò trao đổi những điều tai nghe mắt thấy và cảm tưởng của mấy ngày qua. Tất cả đều cho rằng, đất Thương Ngô quá hẻo lánh xa xôi, mộ vua Thuấn lâu ngày không được sang sửa, vậy là có lỗi với công cao đức cả của vị tổ này. Thủy Hoàng nói ngay sau khi trở về cung sẽ dành riêng một khoản để tu bổ lại lăng mộ vua Thuấn ở núi Thương Ngô và đền thờ hai vị hậu phi ở Tương Sơn. Trong lúc chuyện trò vui vẻ thì đã ra khỏi hồ Động Đình, tiến vào sông Trường Giang, phút chốc tâm hồn sảng khoái, tinh thần phấn chấn. Thật đúng là “Triều lên, đôi bờ rộng. Gió thuận, một cánh buồm”. Thuận gió xuôi dòng, thuyền qua Đan Dương, sau đó chuyển lên đường bộ đi theo hướng Đông Nam tới bờ sông Tiền Đường. Đúng vào lúc triều cường, vua tôi Thủy Hoàng nhớ lại bài học gặp sóng to gió lớn, thuyền lật người chết ở Tương Giang năm nọ, liền không qua sông ở quãng này, mà đi vòng lên phía Tây 120 dặm qua Dư Hàng tới bờ sông Phú Xuân. Chỗ này nước sông chảy chậm, lại có doi cát, thuyền bè qua lại dễ dàng, cả đoàn người ngựa qua sông tại đây, sau đó rời thuyền lên xe, rong ruổi một mạch tới Cối Kê. Huyện lệnh Tiền Đường đã dẫn quan lại ra nghênh tiếp thánh giá tại đây, cung kính mời Thủy Hoàng về nha môn nghỉ, nhưng Thủy Hoàng chỉ nghỉ ngơi một lát rồi cùng Hồ Hợi Lý Tư, Triệu Cao, Mông Nghị lên núi Cối Kê tổ chức cúng tế tại mộ Đại Vũ.
Đại Vũ họ Tự là bậc quân vương thời xưa sánh ngang với vua Nghiêu, Thuấn, xuất hiện trên hai nghìn hai trăm năm trước Công nguyên, cha là Cổn phụng mệnh vua Nghiêu trị lũ lụt trong thiên hạ. Ông dùng phương pháp đắp đê ngăn nước, mất chín năm mà nước lũ vẫn tràn ngập gây ra lụt lội, bị vua Thuấn giết ở núi Vũ Sơn. Sau đó vua Thuấn lại sai Đại Vũ kế tục công việc trị thủy. Đại Vũ làm ngược lại với cha, dùng phương pháp đào mương khơi dòng, chỉ huy mấy chục vạn dân khai vét sông ngòi, làm phẳng ruộng đồng, khiến cho nạn hồng thủy nhiều năm hoành hành đã bị chinh phục. Thủy tai trở thành thủy lợi, làm cho nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, đem phúc lợi cho dân chúng, được muôn dân ca ngợi. Đại Vũ đi trị thủy bôn ba vất vả nhiều nơi, trong mười ba năm ròng, chín lần đi qua cửa nhà mình đều không rẽ về nhà lần nào. Phẩm chất đạo đức vì công quên tư của ông được truyền tụng từ nghìn xưa. Vua Thuấn thưởng công, phong cho ông là Hạ Bá. Khi vua Thuấn băng hà đã nhường ngôi cho Đại Vũ xây dựng kinh đô tại Bình Dương. Mười năm sau, vua Đại Vũ băng hà ở Cối Kê, được mai táng ngay tại đấy.
Thủy Hoàng đến cúng tế Đại Vũ, là vì ông biết sau Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ cũng là một vị minh quân đại đức, cũng sánh ngang Nghiêu, Thuấn. Mình đã cúng tế hai vua Nghiêu, Thuấn, đương nhiên không thể lạnh nhạt với Đại Vũ được. Cho nên sau khi rời Thương Ngô đã vội vã hết đi thuyền rồi lại đi xe thẳng tới núi Cối Kê này để cử hành đại lễ cúng tế Đại Vũ. Dọc đường Thủy Hoàng vừa ngắm nhìn cảnh đẹp miền sông nước Giang Nam vừa suy nghĩ: Mộ vua Thuấn xa tít mãi Thương Ngô, núi hoang vu hẻo lánh, không tránh khỏi hoang tàn. Mộ Đại Vũ ở chốn Danh Sơn sầm uất này hẳn phải to lớn uy nghi. Nhưng khi theo đường núi từng bậc đi lên, tới lưng chừng tìm thấy mộ Đại Vũ thì thấy cũng rất bình thường. Một nấm mộ dài chỉ có bảy thước, vây chung quanh là một hàng rào đan bằng thân lau sậy. Đàn tế chỉ cao ba thước, có ba bậc đất. Toàn bộ khu mộ chỉ khoảng hơn một mẫu, quy mô và bề thế thật không tương xứng với tiếng tăm đức độ của vị minh quân thánh chúa mà sự nghiệp vĩ đại đã để lại những ân trạch vĩnh hằng. Thủy Hoàng vô cùng cảm phục và than thở hồi lâu.
Lễ tế diễn ra đúng với nghi thức, có thắp hương đốt nến, có cúng tam sinh, dâng rượu tế linh xong, Thủy Hoàng quỳ xuống làm đại lễ ba vái chín lạy lâm râm khấn rằng: “Bỉ nhân vừa làm lễ tế hai đấng thánh quân Nghiêu, Thuấn ở Thương Ngô Lĩnh Nam rồi đi thẳng tới núi Cối Kê này tế ngài, đấng quân vương đại đức sánh ngang Nghiêu, Thuấn. Bỉ nhân đã lên ngôi vua hơn ba mươi mấy năm nay, Nam chinh Bắc chiến, dấu chân in khắp thiên hạ. Đi tới đâu cũng thấy sông ngòi ngang dọc, tưới tắm ruộng đồng, nông nghiệp phát triển, dân sống no ấm, thật vô cùng khâm phục và luôn nhớ công lao vĩ đại của ngài. Bỉ nhân học theo ngài cho đào sông Trịnh, sông Linh, khơi thông sông lạch trong cả nước, xây dựng thủy lợi để kế thừa và phát triển sự nghiệp của ngài, cũng là để ngài yên lòng nơi thượng giới. Được tới nơi ngài yên nghỉ, thấy mộ ngài tuy có đẹp hơn mộ vua Thuấn trên núi Thương Ngô, nhưng vẫn còn quá nhỏ bé và thô sơ, không xứng với công lao sự nghiệp vĩ đại của ngài. Vì vậy bỉ nhân xin hứa với ngài, sau chuyến tuần thú này về bỉ nhân lập tức ban chiếu chỉ cho triều đình xuất tiền ra, xây dựng mở rộng và tu tạo lăng mộ của ngài để bày tỏ thương nhớ, tôn kính của kẻ hậu sinh này đối với đấng quân vương xưa kia, đặc biệt là đối với người cha của những công trình thủy lợi”.
Đúng lúc đó một cơn gió nhẹ thổi tới cuốn đống tro tàn của tờ lụa có ghi các tờ cúng tế và ngày tháng cúng tế của Thủy Hoàng về phía mộ Đại Vũ. Các thầy cúng cô đồng đều bảo đấy là người được cúng tế đã nhận lễ, điều đó khiến Thủy Hoàng vô cùng phấn khởi, cùng mọi người chậm rãi xuống núi, sau đó lên xe về nha môn huyện Tiền Đường nghỉ ngơi.
Huyện lệnh Tiền Đường bày tiệc tẩy trần vô cùng thịnh soạn, lại toàn là các đồ “hải sản tươi sống”: mực ống xào, cá mực om, cá mòi dim, cua lẩu, tôm hùm, ốc biển, bông thùa, trai ngao... bát to đĩa lớn bày kín một bàn tròn lớn, các món đều rất ngon, có điều món nào cũng cho đường. Chủ nhà giới thiệu đây là đặc điểm món ăn Việt gọi là “Thêm chút đường vào cho ngài thưởng thức”, duy chỉ có món quy xà thang để giữa bàn là không bỏ đường mà rắc một lớp bột hồ tiêu rất cay. Nghe nói vì món này thuộc loại lạnh, sợ người miền Bắc không quen ăn đau bụng, dùng hồ tiêu cho nóng bụng khỏi sinh bệnh, chủ nhà thật là chu đáo. Nhưng các quý khách cảm thấy hứng thú nhất lại là màn trình diễn của ban ca múa kỹ nhạc, nhạc điệu tha thiết dịu dàng, giọng khác hẳn với nhạc Tần cao ngạo mạnh mẽ, tiếng hát uyển chuyển của mỹ nữ Ngô Việt khiến người nghe dù không hiểu, cũng vẫn.cảm thấy nét tươi tắn, ngọt ngào, mượt mà, du dương, tha thướt, êm ái vô cùng.
Rượu thịt no say, sướng tai no mắt rồi, huyện lệnh tâu với Thủy Hoàng xem có muốn thưởng thức vị ngọt ngào êm ái của con gái Ngô Việt nữa hay không? Thủy Hoàng gần đây gặp nhiều việc trắc trở, lại thêm mệt mỏi vất vả dọc đường, liền lấy cớ đang dốc lòng tu luyện, sợ tổn hại nguyên dương, giảm mất tiên khí, đã nhã nhặn chối từ. Về đến hành cung, đặt mình xuống long sàng là thiếp đi ngay. Trong giấc ngủ, Thủy Hoàng mơ mơ màng màng thấy một ông cụ mặc quần áo vải thô, chân đi dép cỏ, búi tóc có gài trâm, nét mặt gầy gò và có phần mệt nhọc, lách cửa bước vào.
Thủy Hoàng vội hỏi:
- Ông là ai mà lại dám vào tẩm cung của trẫm?
Ông cụ trả lời:
- Ban ngày ngươi đã cho ta rượu thịt, bây giờ ta đến đáp lễ và có lời muốn khuyên bảo đây.
- Hóa ra cụ là Đại Vũ Vương, cất công hạ cố không kịp nghênh tiếp, mong cụ xá tội? - Thủy Hoàng vội vã xuống khỏi giường vái dài tạ lỗi.
Đại Vũ Vương vuốt râu mỉm cười bảo:
- Ta đến quá đường đột, đã làm kinh động giấc ngủ ngon của nhà vua.
Thủy Hoàng ân cần hỏi ông cụ:
- Đức vua khơi thông chín cõi, đặt tên là Cửu Châu, tạo phúc cho muôn dân, lưu danh muôn đời, vì sao lại cần kiệm mộc mạc thế này?
- Điều ngươi hỏi, chính là điều ta muốn nói với người - Vũ Vương nghiêm trang nói với Thuỷ Hoàng - Ngày xưa ta phụng mệnh vua Nghiêu trị trừ nạn lụt, gắng sức làm nhiệm vụ, nêu gương cho muôn dân, trèo đèo lội suối, chân tay chai sạm, suốt mười ba năm ròng rã, chín lần đi qua trước nhà mà không vào. Để cứu trăm họ ra khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng, công việc thật vô cùng cấp bách, làm sao dám nhãng quên việc lớn chỉ chú ý tới gia đình nhỏ được? Cũng may công việc thành công, không hổ thẹn với lương tâm được vua Thuấn ban khen, phong làm Hạ Bá và nhường ngôi cho, ta phải gánh vác công việc trọng đại của người. Từ đó ta gánh vác việc nước việc dân đâu dám phút giây trễ nải, nên đã dốc lòng dốc sức không kể vất vả gian nan, tự thấy mình không phụ ơn vua trái mệnh trời, có thể mỉm cười vui vẻ từ giã cõi trần, nhắm mắt yên nghỉ ở núi Cối Kê này.
- Chính là để ca ngợi công đức lớn lao nhớ tới sự nghiệp vĩ đại nên bỉ nhân đã một lòng thành kính cúng tế để tỏ chút lòng cảm phục. Nhìn thấy mộ địa ngắn hẹp, đài tế thấp bé, quả không phải phép, bỉ nhân muốn tu sửa và mở rộng thêm ra. - Thủy Hoàng bày tỏ hai ý định muốn tu bổ mộ.
- Việc đó thật sự không nên! - Đại Vũ Vương ngăn lại - Các bậc minh quân xưa kia chỉ ăn đủ no, mặc đủ ấm, cung điện đủ ở, xa mã đủ đi lại, cả đời vui vẻ, cho nên ta thấy đủ rồi, có mong gì lớn hơn nữa đâu!
Nói tới đây, dừng lại một chút, rồi nghiêm khắc nói với Thủy Hoàng:
- Nay ta nghe ngươi đã coi thiên hạ là của riêng mình, lạm dụng sức dân, xây lăng mộ ở Lệ Sơn, dựng cung A Phòng, châu báu chất như núi, mỹ nữ kể hàng đàn. Rồi lại đốt sách chôn học trò, tìm tiên cầu thuốc, khiến cho của cải cạn kiệt, dân chúng lao đao, trời giận người oán, làm sao lại quá đáng như vậy?
- Nghe những lời Đại Vũ Vương nói lòng tôi rất buồn. Mong đừng cho bỉ nhân là kẻ tồi tệ, có điều chi dám xin chỉ bảo! - Thủy Hoàng ruột nóng như lửa đốt, khẩn thiết van xin.
Vũ Vương nghiêm nghị lớn tiếng bảo Thủy Hoàng:
- Ngươi nên biết, “dĩ đức vi thủy” coi cái đức là ở nước, nên phải hiểu tính chất của nước. Tuân Tử đã nói: “Vua là thuyền, thứ dân là nước. Nước chở thuyền, nước cũng lật thuyền”. Cha ta là Cổn đi trị thủy làm ngược lại tính chất của nước, chặn dòng chảy lại nên nước đã lật thuyền, ông vì sai lầm mà bị tội chết. Ta đi trị thủy, theo tính chất của nước đã khơi dòng cho nước chảy, nên nước chở thuyền ta đi, vì thế có công mà dược nhường ngôi. Nhà ngươi khi diệt sáu nước, thôn tính cả thiên hạ, nước chở thuyền cho ngươi. Vì sao nay lại làm ngược tính chất của nước cho nên thuyền nhà ngươi sẽ bị lật thôi.
Nói xong thở dài, cất bước nặng nề đi ra, vừa tới cửa lại quay lại, giọng nói dịu hơn bảo Thủy Hoàng:
- Ta vào lúc tuổi già vẫn một lòng vì dân, dẫn chúng thần đi tuần thú, du ngoạn tới đây không may lâm bệnh qua đời. Nay ngươi cùng cận thần đi tuần thú, du ngoạn tới đây, mong rằng ngươi hiểu cho hết lòng dân, làm tốt cho dân! Nhớ kỹ, nhớ cho kỹ - Dứt lời mới khoan thai đi ra.
Thủy Hoàng vội vã bước theo, muốn theo kịp Đại Vũ Vương để nói lời cảm tạ, nhưng ông cụ đã đi xa rồi chẳng thấy bóng dáng đâu nữa. Đang tựa cửa than thở, chợt nghe tiếng gà gáy phá tan màn đêm, Thủy Hoàng bừng tỉnh giấc, mới biết vừa rồi mình nằm mơ, vội vàng mặc áo ra khỏi giường. Sau những câu nói “Vì sao nay ngươi lại làm ngược tính chất của nước, cho nên thuyền nhà ngươi sẽ lật thôi!... Mong rằng hiểu cho hết lòng dân, làm tốt cho dân!”... vẫn văng vẳng bên tai, bất giác thấy vô cùng sợ hãi, bàng hoàng, nước mắt tự dưng chảy ra. Ông loạng choạng quay lại, đá tung đôi dép rồi để nguyên quần áo nằm xuống giường đắm chìm trong suy tư đau khổ. Thủy Hoàng hồi tưởng lại cái ngày Hầu Sinh chẳng sợ chết đã chỉ trích mình gay gắt, còn đêm nay vua Đại Vũ hiển linh đã không chấp nhận việc tu tạo phần mộ mà mình định làm cho ông, còn phê phán những hành vi của mình. Nhất là hai câu hai vị này đã nói: “Việc đã hình thành rồi, bệ hạ ngồi mà chờ chết thôi!”, và “Vì sao nay ngươi lại làm ngược tính chất của nước, cho nên thuyền nhà ngươi sẽ lật thôi”. Chẳng lẽ đều ứng với câu sấm ngữ “Năm nay Tổ long sẽ chết” hay sao? Việc này khiến cho lòng ông vốn đã căng thẳng lâu nay không tài nào chịu đựng nổi, cuối cùng Đại Vũ lại nhắc nhở ông: “Nay ngươi đã dẫn cận thần đi tuần thú, du ngoạn chốn này... phải làm tốt cho dân!” Phải chăng mình thật sự bước theo vết chân người xưa, tại núi Cối Kê này?... Thủy Hoàng không dám nghĩ tiếp nữa, kéo chiếc chăn gấm trùm kín đầu, chỉ mong trời chóng sáng để sớm từ giã nơi dự báo điềm dữ này.
Sáng hôm sau, khi Triệu Cao, Lý Tư, Mông Nghị, đến vấn an, bẩm tấu có ở lại đây một hai ngày để thưởng ngoạn phong cảnh núi non hay không, Thủy Hoàng xua tay bảo:
- Việc cúng tế Đại Vũ đã xong, ở lại làm gì nữa, hãy đến ngay quận đường.
Các cận thần đã quá quen với tính tình hay thay đổi thất thường của Thủy Hoàng liền không hỏi thêm gì nữa, lệnh chuẩn bị ngay ngựa xe. Ăn sáng vội vàng xong, đoàn người ngựa lên đường trở về, qua sông ở đoạn Phú Xuân tiến về phía Bắc tới Ngô huyện quận đường quận Cối Kê (nay là thành phố Tô Châu, Giang Tô). Đây vốn là kinh đô nước Ngô thời Xuân Thu, đã từng một thời phồn thịnh, về sau Việt Vương Câu Tiễn diệt nước Ngô, dời đô đến Lang Nha, thì nơi đây dần dần vắng vẻ tiêu điều, sau khi Việt bị Sở diệt lại càng sa sút hơn nữa. Thủy Hoàng chẳng quan tâm gì đến việc này vì ông đang cần một môi trường tĩnh mịch để ổn định và điều chỉnh những tình cảm rối bời và tâm trạng đang vướng nhiều mắc mớ. Thái thú Cối Kê tuân theo ý chỉ mời ông tới nghỉ tại hành cung của vua Sở ngày xưa.
Tiệc tẩy trần và biểu diễn ca múa tạp kỹ do thái thú Cối Kê tổ chức dĩ nhiên hơn hẳn huyện Tiền Đường, hơn nữa Thủy Hoàng đã từ giã núi Cối Kê, tâm tình vui lên nhiều, cười nói vui vẻ với các quan trong bữa tiệc, lại còn bình phẩm các tiết mục trình diễn. Mọi người đều khâm phục trước sự tình thông âm luật của Thủy Hoàng, khiến ông càng hứng chí, lệnh ngay cho Mông Nghị điều ngay hai trăm nội thị và lính hổ bôn đến hát “Thơ tiên chân nhân”. Thủy Hoàng đích thân gõ nhịp chỉ huy, tiếng hát rất đều và trang nghiêm, âm thanh tình cảm hài hòa, là tiết mục áp chót của buổi trình diễn ca múa. Các quan thấy Thủy Hoàng đã vui lên, liền đề nghị lưu lại vui chơi thưởng ngoạn ở đây mấy ngày. Thủy Hoàng vui vẻ chấp nhận, mỉm cười cởi đai nới áo, lên giường ngủ. Đêm hôm đó Thủy Hoàng ngủ rất ngon, sáng hôm sau thấy tinh thần sảng khoái, ăn sáng xong ngồi chờ thái thú Cối Kê đến đón đi xem cung Quản Oa mà Ngô Vương Phù Sai xây dựng riêng cho mỹ nhân Tây Thi năm xưa và danh thắng Hổ Khâu của Ngô huyện. Nào ngờ đợi từ giờ Thìn tới tận giờ Ty mà vẫn không thấy bóng dáng thái thú đâu cả. Thủy Hoàng sốt ruột liền lệnh cho Mông Nghị đến hỏi xem đã xảy ra chuyện gì. Mông Nghị đi một lát thì đưa thái thú tới. Ông ta thở hổn hển, mồ hôi nhễ nhại, tỏ ra rất bối rối. Thủy Hoàng trách hỏi vì sao mãi không đến đón vua đi du ngoạn, quan thái thú rầu rĩ tâu rằng nếu Mông thượng khanh không đến, thì giờ này ông ta cũng không thoát được thân. Thủy Hoàng hỏi việc gì nghiêm trọng đến như vậy. Viên thái thú vừa lau mồ hôi vừa tâu trình nguyên do sự việc và vấn đề ông cảm thấy vô cùng khó xử. Vốn dĩ quận Cối Kê thuộc đất Việt xưa, ngay từ thời Việt Vương Câu Tiễn về quan hệ nam nữ đã vô cùng thông thoáng, sống chung lang chạ đã thành tập tục, thói dâm dật kéo dài tới tận ngày nay, hình thành một thói quen riêng biệt tại địa phương. Cho thuê vợ trở thành việc làm thỏa thuận với nhau là hiện tượng hôn nhân tồn tại phổ biến. Giáp có thể thuê vợ của Ất, giá cả và thời gian do hai bên thỏa thuận, thỏa thuận theo thời gian thì đơn giản dễ dàng. Hai bên thỏa thuận xong thì một bên giao tiền, một bên giao vợ. Hết thời hạn thuê, hai người chia tay nhau, người vợ lại trở về với người chồng cũ, thế là xong chuyện. Nhưng còn một kiểu thuê vợ nữa không tính thời gian mà là tính “sản phẩm”, tức là lấy việc sinh con làm kỳ hạn, thậm chí phải sinh con trai mới coi là “hết hạn thuê”. Vậy là, sự việc trở nên cực kỳ phức tạp, thường xảy ra tranh chấp, thậm chí gây ra án mạng. Cho nên tại địa phương kiện tụng về việc này cực kỳ nhiều, quan lại nghiêm minh sáng suốt nhất cũng rất khó xét xử những chuyện trong gia đình phức tạp rắc rối như thế này. Bữa nay thái thú Cối Kê đã gặp phải một chuyện như vậy: Giả Mỗ lấy vợ đã nhiều năm không có con. Vì lý do là “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” (có ba điều bất hiếu, không có con là lớn nhất) đã cho vợ về, lấy vợ khác, nhưng vẫn không có con nên lại cho về. Cứ như thế tới lần thứ ba, sau đó thì không còn có ai chịu lấy anh ta nữa. Bất đắc dĩ theo tập tục địa phương anh ta đành phải đi thuê vợ.
Vì ba người vợ cũ của anh ta sau khi cải giá đều sinh con được nên Giả Mỗ biết mình “chẳng ra gì”, không dám thuê vợ theo chế độ “sản phẩm”, chỉ thỏa thuận thuê vợ của Chân Mỗ một năm. Chân Mỗ vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, đành phải cho Giả Mỗ thuê vợ với giá cao. Giả Mỗ để giải tỏa cảnh đau khổ cô đơn quạnh quẽ, cũng chẳng tiếc tiền của bỏ ra một số tiền lớn để thuê vợ.
Nhưng người vợ sau khi bị đem cho thuê đã nhận ra sự việc chẳng hề đơn giản chút nào. Trước hết là tình nghĩa vợ chồng giữa cô ta với Chân Mỗ, họ vẫn yêu thương nhau, năm đứa con đẻ ra là máu thịt của họ, nay phút chốc chia lìa thì lòng dạ vô cùng thương nhớ. Vả lại, vì chẳng có tình cảm gì với Giả Mỗ nên rất khó sống cùng nhau, một ngày mà cứ dài như một năm, nên bị cho thuê đi ít lâu, chị ta lén lút về nhà mình, nào ngờ lại mang thai với chồng. Thế là giữa hai người chồng xảy ra tình trạng lấn cấn vừa mừng vừa lo, vừa thật vừa giả. Giả Mỗ dĩ nhiên cực kỳ phấn khởi, rửa được cái nhục “bất hiếu hữu tam, vô hậu bất vi đại”, lấy lại được danh dự của đấng mày râu. Điều lo lắng dĩ nhiên là của Chân Mỗ, tuy cái “thuận âm dương” trong bụng rõ ràng là của mình nhưng anh ta lại không dám nhận. Vì theo luật lệ thì một khi vợ đã cho thuê rồi, quyền làm chồng bị “đình chỉ”, nếu trong thời gian “đình chỉ” mà lén lút ăn nằm với vợ thì bị coi là “xâm phạm quyền lợi” và bị xử tội “gian phu”. Nặng thì bị quan phủ xử tội chết, nhẹ thì bị phát vãng làm lao dịch, tối thiểu là mười năm, vì vậy chỉ đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”, có khổ chẳng dám nói ra. Dĩ nhiên anh ta cũng không dám gặp vợ nữa, vì Giả Mỗ hoàn toàn có thể bắt anh lên quan theo tội danh “gian phu” cho nên nỗi đau khổ và lo lắng cứ lớn dần theo cái thai trong bụng vợ mình.
Nhưng Giả Mỗ cũng có điều lo lắng, đó là thuê vợ theo hợp đồng “tính thời gian”, nếu người đàn bà đẻ trong một năm thì đương nhiên đứa con là của mình, nếu hết hạn mà chưa đẻ thì đành đưa mắt ra nhìn người đàn bà mang đứa con về nhà họ. Và đó chính là chỗ mừng của Chân Mỗ, vì tính toán theo ngày tháng thì đứa con sẽ ra đời vào nửa tháng sau hết hạn cho thuê. Như vậy, người vợ đàng hoàng mang bụng trở về, đẻ con ngay trong nhà mình. Cho nên, Chân Mỗ trong muôn vàn lo lắng cũng có phần tự thấy vui vẻ: chỉ cần vợ sinh đúng kỳ thì bản thân sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.
Tuy nhiên, thật là bất ngờ, ông trời lại gây cảnh trớ trêu làm cho câu chuyện lại rơi vào cảnh rắc rối phức tạp, rất khó giải quyết. Vốn dĩ hợp đồng thuê hết hạn vào cuối tháng tám, người vợ Giả Mỗ thuê sinh đẻ vào giữa tháng tám, “thuận âm dương” dù là trai hay gái cũng đặt tên là “Trung Thu” thì không còn gì đẹp hơn nữa! Nhưng năm nay lại là nhuận tháng tám, mấy chục năm mới có một lần thế này, mà kỳ lạ hơn thế là người vợ vốn đẻ rất đúng ngày đúng tháng, lần này lại kéo dài ra đến nỗi hết tháng tám rồi vẫn chưa đẻ. Thế là Chân Mỗ vô cùng yên tâm, đinh ninh sẽ đón vợ (mang theo “thuận âm dương”) về nhà mình. Ai ngờ Giả Mỗ kiên quyết không chịu, lý do là tháng tám nhuận vẫn là tháng tám, trong hợp đồng văn tự thuê vợ ghi rõ là tháng tám thì tháng tám nhuận cũng bao gồm trong đó. Tháng tám nhuận thì dứt khoát từ cung đình, phủ quan tới dân gian đều phải ăn một lần tết Trung thu nữa, điều đó chẳng phải là thừa nhận tháng tám nhuận cũng là tháng tám đó sao? Hai bên không bên nào chịu bên nào, liền kéo người vợ bụng to kềnh đến quận sở đường đánh trống kêu quan, xin được xét xử. Đối với vụ án này, quan thái thú rất khó quyết đoán, lại bị sức ép của hai bên dân làng hai gia đình Chân và Giả có tới hàng nghìn người vây kín công đường không biết xoay xở cách nào. May có thượng khanh Mông Nghị đưa quân hổ bôn tới giải tán đám dân chúng, thái thú mới thoát ra được tới hành cung bái yết thánh giá.
Trong quá trình nghe thái thú Cối Kê tấu trình đầu đuôi vụ án thuê vợ này, Thủy Hoàng liên tưởng đến sự rắc rối về thân thế của mình, thấy vui mừng vì mình đã kiên quyết quyết đoán, mới tránh được tai họa vong thân mất nước. Còn Ứng Hà nước Ngụy, Lý Đệ nước Sở, đều do dâm loạn trong màn the cung đình, dẫn đến đất nước suy vong, thật là đáng buồn! Vùng Mân Việt này thịnh hành tệ nạn thuê vợ, trách chi thói dâm loạn phát triển, khó bề ngăn chặn. Còn như vụ án này, xét về tình lý, căn cứ của hai bên đều phù hợp với quy định của hợp đồng thuê vợ. Then chốt là ở cái tháng tám nhuận, xem ra chỉ có thuận theo sự khác biệt về thiên thời mà hòa giải tranh chấp mới giải được oán thù giữa hai nhà, người yên việc tốt. Còn nếu coi nhau như kẻ thù, cứ muốn làm ầm ĩ lên để đạt mong muốn của mình, giải quyết dứt khoát thì... Nghĩ tới đây, Thủy Hoàng liền nói với viên thái thú để ông phân xử vụ này. Quan thái thú sợ dân hai họ gây rối loạn, làm khó cho thánh thượng nhưng Thủy Hoàng nói sẽ xét xử công bằng, bảo đảm không sai sót. Thái thú không còn cách nào, đành phải lập phiên tòa ngay tại hành cung, cho cận vệ cung đình và lính hổ bôn bảo vệ. Thủy Hoàng bảo họ dành ra một lối đi, để hai họ Chân, Giả mỗi bên cử một số đại diện tham gia nghe xét xử, khiến hơn một nghìn dân chúng không còn vịn cớ nào để gây rối.
Thủy Hoàng ngồi nghiêm chỉnh sau ngự án, nhìn cảnh tượng người đàn bà bụng chửa to như cái trống quỳ ở giữa, người chồng cho thuê vợ và người chồng thuê vợ quỳ ở hai bên, mà cảm thấy thật sự khóc dở cười dở. Nguyên do vụ án quan thái thú đã tấu trình rõ ràng, nhưng ông vẫn để các bên trình bày lý do và yêu cầu của họ. Bên thuê vợ là Giả Mỗ thì cố giữ người đàn bà lại tới sau khi sinh nở mới cho đi là để có được đứa con nối dõi, làm tròn đạo hiếu với tổ tông, biết tổ tông mình không có khả năng sinh con, anh ta buộc phải giữ lấy cái lợi có sẵn này.
Thủy Hoàng liên tưởng đến bi kịch Khả Liệt Vương nước Sở mắc bệnh không có con, mới khiến Xuân Thân Quân thừa cơ đưa được người tỳ thiếp Lý Đệ có thai sẵn vào trong cung, từ đó gây ra việc tranh giành quyền binh giữa Xuân Thân Quân với Lý Viên là anh của Lý Đệ. Nước Sở đã tự hủy diệt trong cuộc tranh giành nơi cung cấm, cuối cùng bị nước Tần tiêu diệt. Tuy rất thông cảm với những người không có con phải đi thuê vợ, và qua đó hiểu được rằng các mối quan hệ trong xã hội gia đình giữa con người với nhau quả thật vô cùng phức tạp, quyết không thể bỏ qua, duy trì cho những phong tục tập quán dân gian có hại cho phong hóa, nhưng phải dùng pháp luật để quản lý và ràng buộc, phải dùng pháp quy để ngăn chặn tà ác, uốn nắn lại đồi phong bại tục trong dân gian. Khi đã suy nghĩ chín chắn, có được phương án giải quyết, Thủy Hoàng liền đưa ra phán quyết vụ án thuê vợ này.
Thủy Hoàng nói với ba đương vị:
- Các vùng Mân Việt, có tập tục thuê vợ từ xưa, đời đời nối tiếp lưu truyền đã lâu. Hai bên thuê vợ các ngươi, thời hạn là một năm, phải nghiêm chỉnh tuân thủ. Nay kỳ hạn đã hết, người vợ dĩ nhiên phải về với chồng cũ nhà họ Chân...
Chân Mỗ và đại diện họ hàng đều cúi đầu lạy tạ tung hô:
- Bệ hạ hiểu rõ dân tình, thuận theo tập tục đúng hạn cho về phán xét công minh. Tiểu dân chịu ơn mưa móc, cả họ đội ơn! Mong bệ hạ sống lâu trường cửu. Muôn năm! Muôn năm! Muôn muôn năm!
Thánh lệnh đã ban ra, không còn gì để nói nữa, và cũng không thay đổi được nữa. Giả Mỗ tuy có lý để tâu bày, muốn tỏ hết nỗi lòng, nhưng sự uy quyền của thánh thượng, muốn nói cũng đành chịu, đành đau khổ khóc ròng. Đại diện dòng họ cũng chỉ biết than thở cùng nhau, chẳng dám nói gì.
Khi Chân Mỗ kéo người vợ về phía mình thì bị Thủy Hoàng ngăn lại nói:
- Chân Mỗ hãy khoan, nghe phán quyết cuối cùng của trẫm!
Chân Mỗ đành buông tay, để người vợ vẫn quỳ ở giữa.
Thủy Hoàng gõ mạnh thẻ gỗ trên bàn, để mọi người yên lặng, sau đó tiếp tục phán:
- Đạo trời vĩnh hằng, ba năm nhuận một lần, để lấy thừa bù thiếu, để phù hợp với phép tắc vận hành thời gian. Năm nay lại đúng vào năm nhuận, tháng nhuận lại đúng vào tháng tám, đấy hoàn toàn là ý trời, người ta không thể làm trái ngược được. Thời hạn thuê của các ngươi tròn một năm, hết hạn vào tháng tám, tháng tám nhuận vẫn coi là cùng tháng, cho nên người vợ thuê phải ở lại nhà Giả Mỗ, tới cuối tháng nhuận mới trở về nhà họ Chân theo như hợp đồng. Đứa con sinh ra vào thời gian này, phải là con của họ Giả.
Nghe lời phán quyết cuối cùng, Giả Mỗ và đại diện họ hàng chẳng khác gì hồi sinh từ cõi chết, vô cùng sung sướng, lập tức thôi khóc quỳ nạp xuống vái dài tạ ơn, nói:
- Bệ hạ thánh minh, quan tâm nỗi khổ của dân, thuận theo ý trời, ban cho tiểu dân người nối dõi, kế nghiệp tổ tông, thực là đức cao như trời, ơn sâu hơn biển. Tiểu dân suốt đời ghi lòng tạc dạ, đời đời không quên. Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế!
Trước sự thay đổi đột ngột này, Chân Mỗ dĩ nhiên khó bề chấp nhận, muốn biện bạch, nhưng thấy Thủy Hoàng giơ tay ngăn lại nghiêm sắc mặt nói với anh ta:
- Ngươi đã có năm đứa con, hãy nhường đứa thứ sáu cho anh ta, để anh ta làm tròn đạo hiếu. Huống hồ tuy là vợ thuê, nhưng tình nghĩa vợ chồng cũng đã một năm, đứa con này có được đâu dễ dàng. Người đã cho thuê được vợ, sao lại không nhường được con kia chứ? Làm thế để cho trọn vẹn trước sau, há không phải là tốt lắm sao?
Chân Mỗ thấy Thủy Hoàng nói rất có tình có lý như vậy, rốt cuộc cũng vui vẻ chấp nhận phán quyết. Cả hai bên một lần nữa bái tạ Thủy Hoàng, tung hô vạn tuế rồi ra về. Tin tức không cánh mà bay, những vụ án tồn đọng, những vụ kiện tụng mới xảy ra gần đây chưa được phân xử, đều kéo đến hành cung. Việc xét xử công bằng hợp lý vụ án đầu tiên này rất được lòng dân, khiến Thủy Hoàng rất thích thú, liền lưu lại mấy ngày để tiếp tục thụ lý, xét xử nhiều vụ án khác, giành được hiệu quả tốt đẹp được muôn dân ca ngợi.
Những cận thần Lý Tư, Triệu Cao, Mông Nghị đều cảm thấy thánh thượng thụ lý, xét xử các vụ án đều hết lòng vì người khác, có tình có lý, đúng mức, vậy mà không biết vì sao cứ động tới việc của bản thân thì lại cố chấp nóng nảy, chẳng chịu nghe lời can gián, độc đoán chuyên quyền. Đâu có biết rằng, đấy chính là biểu hiện sinh động của căn bệnh thông thường “người đứng ngoài thì sáng, người trong cuộc thì quáng”. Thủy Hoàng sở dĩ mê muội không tỉnh, đương nhiên liên quan tới các nhân tố chủ quan về tính cách như nông cạn, hẹp hòi, bạo ngược, dễ nổi giận, và các nguyên nhân khách quan là thói a dua nịnh nọt, dùng lời giả dối che đậy sự thật, thà vứt bỏ vận nước mạng dân, miễn là giành lấy công danh lợi lộc cho cá nhân của bọn gian thần.
Qua việc xét xử các vụ án về hôn nhân, xích mích gia đình ở địa phương, Thủy Hoàng quyết tâm chỉnh đốn lại phong tục dân gian, liền cho vời Lý Tư, Triệu Cao, Mông Nghị, các hạng thần tinh thông luật pháp tới, nghiên cứu chế định pháp luật, pháp quy về các mặt hôn nhân, gia đình, sau đó hạ chiếu thi hành trong cả nước.
1. Tăng cường giáo hóa luân lý, phân biệt nam nữ, phân biệt trên dưới, không được chung chạ, loạn luân, lang chạ.
2. Phế bỏ tập tục xấu thuê vợ, kẻ vi phạm, đàn ông thì phát vãng ra biên cương xây đắp Trường thành, đàn bà thì sung làm nô tỳ nhà quan.
3. Nam nữ thông gian, hai bên đều chưa vợ chưa chồng, lập tức được lấy nhau, phía nam suốt đời không được bỏ vợ.
4. Nam nữ đã kết hôn mà thông gian, nam phát vãng ra biên cương xây đắp Trường thành, nữ thì bị xử tử.
5. Nữ đã có chồng thông gian với nam chưa có vợ, nữ bị xử tử, nam phát vãng di biên cương xây đắp Trường thành.
6. Nam đã có vợ thông gian với nữ chưa chồng, nam phát vãng đi biên cương xây đắp Trường thành, nữ sung làm nô tỳ nhà quan.
7. Cưỡng dâm hoặc bị buộc thông gian, nam thì xử tử, nữ sung làm nô tỳ nhà quan.
8. Nam nữ đã lập gia đình theo nhau bỏ trốn, nam thì xử tử, nữ nếu đã có con cái thì xử tử, chưa có con thì sung làm nô tỳ nhà quan.
9. Nam nữ chưa thành hôn yêu nhau, nhưng bị gia tộc gia trưởng ngăn cấm mà kéo nhau bỏ trốn, cho phép thành hôn; nhưng suốt đời không được bỏ nhau.
Các điều khoản luật pháp này khá phù hợp với thực tế địa phương thời đó, cũng xem xét đến các nhân tố tính người và tình người, chỉ có điều quá nghiêm ngặt về mức độ mà thôi.
Thủy Hoàng căn dặn Lý Tư, trong việc soạn văn bia khắc ở Cối Kê phải nhắc tới nội dung này. Cho nên, trong bài văn bia, ngoài những lời ra sức ca ngợi công đức văn võ của Thủy Hoàng giống những tấm bia khác ra, đặc biệt nhắc tới việc cấm dâm dật và chỉnh đốn phong hóa.
Chín điều khoản cũng như những nội dung khắc trên văn bia ở Cối Kê có thể coi là “luật hôn nhân” sớm nhất của Trung Quốc và “chỉ thị của chính phủ” về việc tăng cường lễ giáo, cấm thói hư tật xấu trong dân gian.