← Quay lại trang sách

HỒI THỨ BA MƯƠI BA KIM LĂNG YỂM VÀNG, KIẾM TRÌ ĐÀO KIẾM-LANG ĐÀI VỠ NGỌC, BÃI CHIẾN GIAO LONG--------

Những nhà bình luận đời sau đánh giá việc dựng bia ở Cối Kê cao hơn hẳn việc dựng bia ở Dịch Sơn, Thái Sơn, Chi Phù, Kiệt Thạch, dẫn rằng văn bia ở năm nơi này đều do một thừa tướng Lý Tư soạn, văn phong về thư pháp rất thống nhất. Bốn bài văn bia trước, ngoài trình tự thời gian và địa điểm khác nhau ra, nội dung đều giống nhau, đều ca ngợi võ công, văn trị của Thủy Hoàng như đánh diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ, thi hành chế độ quận huyện nhân dân có thực điền, xe cùng đi một đường, chữ viết cùng một loại, đạo thờ chung một dòng... song có nhiều khoa trương tô vẽ thêm lên, gây cho mọi người cảm tưởng không đúng sự thực. Tới bia Cối Kê, tuy vẫn là khoe khoang công đức nhưng không có cuồng nhiệt như trước, mà đã khá nghiêm cẩn, gần sự thật. Đặc biệt là đã nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo hóa luân lý và định ra được pháp quy cụ thể về chỉnh đốn tập tục dâm bôn, thể hiện sự quan tâm tới đất nước nhân dân làm những việc thực, việc tất cho dân cho nước.

Đối với bản thân Thủy Hoàng, qua xét xử các vụ án, lần đầu tiên lĩnh hội được quần chúng nhân dân đã xuất phát từ quyền lợi và họa phúc thiết thân của mình để nhận thức và đối xử với quan và vua của mình như thế nào. Ông cảm thấy được an ủi vì đã có thể xét xử án có hiệu quả tốt, được nhân dân cảm kích và ủng hộ.

Thái thú Cối Kê và huyện lệnh huyện Ngô trước việc Thủy Hoàng hiểu rõ dân tình, đích thân xử án, nhất là đã định ra pháp quy cụ thể để ngăn cấm dâm bôn, uốn nắn tục lệ, thì vô cùng cảm phục, tung hô vạn tuế. Sau khi đã xét xử xong các vụ kiện tụng liền cùng vua tôi Thủy Hoàng đi tuần du. Trước hết là đi tham quan phố xá phồn hoa và quang cảnh dân cư, nhà nào cũng bên dòng nước chảy, hộ nào cũng trồng đầy dương liễu, một sắc thái riêng của quê hương sông nước Giang Nam. Sau đó tới Linh Nham ngoài Tây vực, thăm di chỉ cung Quản Oa nổi tiếng.

Cung Quản Oa là cung điện Ngô Vương Phù Sai xây dựng riêng cho ái cơ Tây Thi vào cuối thời Xuân Thu hơn bốn trăm tám mươi năm trước Công nguyên, quy mô rộng lớn, đẹp đẽ lộng lẫy, lầu son gác tía, tô vàng dát ngọc, là kiến trúc đẹp nhất thời đó. Điều kỳ thú là hộp cộng hưởng làm bằng những chiếc vò rỗng, trên phủ những tấm gỗ chắc mịn, tạo nên một hành lang quanh co chín khúc. Tây Thi thường cùng với các tỳ thiếp, cung nga dạo bước trên hành lang theo nhịp bước nặng nhẹ nhanh chậm, những chiếc vò vang lên những âm thanh khác nhau, lúc trầm lúc bổng du đương, lúc rộn ràng dồn dập, nghe như tiếng chuông vàng trống bạc, tiếng đàn sáo đổ hồi, xứng danh là tuyệt tác kết hợp hoàn mỹ giữa kiến trúc và âm nhạc. Về sau nước Ngô bị Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt, cung Quản Oa bị phá hủy trong binh lửa, bị bỏ hoang tàn hơn một trăm năm, công trình kiến trúc chẳng còn gì sót lại. Những mảnh vỡ ngói vụn trên đống đất hoang trở thành phế tích lịch sử mặc cho người đời qua lại giẫm đạp lên. Mọi người đương nhìn cảnh tượng “nước mất non sông há còn chăng, xuân về thành hoang cỏ mọc đầy”, thẩy đều ngậm ngùi. Thủy Hoàng trầm ngâm suy nghĩ: Xưa kia Ngô Vương Phù Sai nếu không say đắm mỹ nhân Tây Thi, tin dùng nịnh thần Bá Phổ, giết lầm trung thần Ngũ Tử Tư, thì đâu đến nỗi trúng kế của Câu Tiễn, Văn Chủng để nước mất thân vong? Xem ra đàn bà đúng là một tai họa! May mà mình xưa nay không để cho hoàng hậu can dự chính sự, mới ngăn chặn và tránh được hiểm họa trong cung, điều đó chứng tỏ sự thành công và độc đáo, trí tuệ sáng suốt của mình. Nghĩ tới đây Thủy Hoàng bất giác ngẩng mặt lên trời cười sung sướng.

Rời khỏi di chỉ cung Quản Oa, đi lên phía Tây Bắc chín dặm thì tới chân núi “Hổ Khâu” nổi tiếng. Núi này không nằm trong sơn mạch mà là một ngọn đồi đột ngột nhô cao trên khoảng đất bằng phẳng. Theo truyền thuyết, đây là mộ của Ngô Vương Hạp Lư, Hạp Lư băng hà và được chôn cất lại đây, tuẫn táng theo ba nghìn thanh gươm Ngư Trang, trong đó có thanh gươm của Chuyên Chư đã đâm chết Ngô Vương Liêu. Hạ táng được ba ngày, một con bạch hổ do kim tinh thu nhận linh khí của đất mà thành, đến phủ phục trên mộ nên có tên là Hổ Khâu. Con bạch hổ sở dĩ đến canh ngôi mộ, chính là vì thanh gươm Ngư Tràng đâm chết Ngô Vương Liêu để Hạp Lư giành được ngôi vua, và được coi là vật báu giữ nước. Để lẫn thanh gươm này vào trong ba nghìn thanh gươm khác, là vì sợ rằng nếu để riêng dễ bị đánh cắp nên áp dụng biện pháp tuẫn táng gươm với số lượng lớn để giữ an toàn.

Thủy Hoàng tuy chẳng lạ gì chuyện Chuyên Chư dùng gươm Ngư Tràng đâm chết Ngô Vương Liêu, nhưng tới Hổ Khâu nghe năm đó đã chôn theo ba nghìn thanh gươm giống nhau để bảo vệ của báu quốc gia, mới cảm nhận được giá trị đặc biệt của thanh gươm ấy, liền liên tưởng lại câu chuyện oanh liệt đảo chính cung đình nằm gục hai thi thể, năm bước đi đẫm máu ấy:

Ngũ Tử Tư sau khi trốn khỏi nước Sở sang nước Ngô, làm mưu thần của nước Ngô, khuyên Ngô Vương Liêu tấn công nước Sở, điều đó rất có lợi cho nước Ngô. Nhưng Công tử Quang nước Ngô lại cho rằng Ngũ Viên (tức Ngũ Tử Tư) vì cha và anh đều bị vua Sở giết chết mới chủ trương tấn công nước Sở, chỉ là để báo thù riêng, chứ không phải vì nước Ngô. Ngô Vương Liêu không động binh tấn công Sở. Ngũ Tử Tư biết Công tử Quang muốn giết Ngô Vương Liêu nên không muốn vì đánh nhau ở nước ngoài sẽ làm đảo lộn kế hoạch của ông ta. Ngũ Tử Tư biết Chuyên Chư là một người tài ở nước Ngô, liền giới thiệu Chuyên Chư làm mưu thần cho Công tử Quang.

Cha Công tử Quang là Ngô Vương Chư Phàn có ba người em trai: Dư Tế, Di Muội và Quý Tử Trát. Chư Phàn biết Quý Tử Trát rất hiền đức đã không lập ngay ông ta làm thái tử, mà theo thứ tự truyền ngôi cho ba người em trai, hy vọng cuối cùng sẽ là Quý Tử Trát lên làm quốc vương. Chư Phàn chết, truyền ngôi cho Dư Tế, Dư Tế chết truyền ngôi cho Di Muội, Di Muội chết phải truyền ngôi cho Quý Tử Trát, nhưng Quý Tử Trát đã bỏ trốn, không chịu kế tục ngôi vua. Người nước Ngô bèn lập con Di Muội lên kế vị, chính là Ngô Vương Liêu khi đó. Công tử Quang bất mãn nói, nếu để con kế thừa thì ông ta mới danh. chính ngôn thuận, dòng dõi đích thân thật sự, phải để ông ta làm vua. Vì vậy ông ta ngấm ngầm nuôi một số mưu thần, muốn tự lập mình làm vua. Công tử Quang có được Chuyên Chư, liền đối xử với ông ta rất hậu.

Ngô Vương Liêu ở ngôi chín năm. Sở Bình Vương chết. Mùa xuân năm ấy, Ngô Vương Liêu muốn nhân dịp nước Sở có quốc tang, phái hai người em là Công Tử Cái Dư và Thuộc Dung đem quân vây đánh Kiền Thành nước Sở, lại phái Diên Lăng Quý Tử đến nước Tần, quan sát động thái các nước chư hầu. Sở đem quân chặn đường về của Cái Dư, Thuộc Dung, quân Ngô không về nước được nữa. Công tử Quang liền nói với Chuyên Chư:

- Thời cơ này không thể bỏ lỡ. Không hành động thì còn chờ đến bao giờ? Huống chi ta là người kế vị ngôi vua chân chính, phải được lập làm vua. Ngay cả Quý Tử Trát có về, cũng không thể phế truất được ta.

Chuyên Chư bảo:

- Ngô Vương Liêu đã tới lúc bị giết rồi. Mẹ ông ta đã già, con thì yếu hèn bất tài, hai người em trai đem quân đi đánh Sở lại bị chặn đường, không về được nữa. Nước Ngô bây giờ đối ngoại thì bị nước Sở vây hãm, trong nước thì trống rỗng, không quan lại nào trung thành với ông ta, Ngô Vương Liêu không chống lại nổi chúng ta.

Công tử Quang bèn quỳ xuống vái lạy ông ta mà nói:

- Ông chính là tôi, tôi chính là ông, hai chúng ta một lòng một dạ như một người rồi!

Ngày Bính Tý tháng tư, Công tử Quang cho võ sĩ mai phục dưới hầm nhà, mời Ngô Vương Liêu đến dự tiệc. Ngô Vương Liêu bố trí quân lính đứng xếp hàng từ cửa cung tới tận nhà Công tử Quang, tất cả các cửa và bậc thềm đều đầy những người thân tín của Ngô Vương Liêu. Võ sĩ cầm giáo dài đứng ở hai bên bảo vệ cho Ngô Vương Liêu. Tiệc rượu đã đến hồi mọi người say sưa đỏ mặt tía tai, Công tử Quang giả bộ đau chân rời bàn tiệc lẻn xuống hầm, bảo Chuyên Chư giấu bảo kiếm vào bụng con cá rán dâng món ăn cho Ngô Vương Liêu.

Chuyên Chư tới trước Ngô Vương Liêu rút kiếm trong bụng cá ra đâm thẳng vào Ngô Vương Liêu. Ngô Vương Liêu chết ngay tại chỗ. Tả hữu của Ngô Vương Liêu nhân lúc cũng giết chết được Chuyên Chư. Nhưng lúc bộ hạ của Ngô Vương Liêu đang nhốn nháo, Công tử Quang lệnh cho võ sĩ mai phục xông ra giết chết đám bộ hạ. Công tử Quang tự lên ngôi vua, đó chính là Ngô Vương Hạp Lư. Để cảm tạ và thương tiếc Chuyên Chư, Ngô Vương Hạp Lư phong cho con Chuyên Chư làm thượng khanh nước Ngô.

Thủy Hoàng hình dung cảnh Chuyên Chư đâm Ngô Vương Liêu mà tưởng tượng con cá ấy như biến thành cán chiếc bản đồ, Chuyên Chư biến thành Kinh Kha, Kinh Kha đang rút kiếm từ chiếc bản đồ ra xông tới đâm mình, may mà mình đã nhanh nhẹn né người tránh được; phút chốc con người ấy lại biến thành Hầu Sinh, đoản kiếm trong tay phút chốc biến thành lá thư lụa, mở ra nhìn thấy trên viết năm chữ triện “Vong Tần giả, Hồ dã”. Ông hai tay bưng lấy mặt không dám nhìn lá thư lụa, nhưng bên tai lại văng vẳng tiếng thần núi ở Bình Thư Đạo: “Nói với Hạo Trì Nhân, năm nay Tổ long sẽ chết!”. Ông sợ hãi hét lên “Ôi chà!” mới như sực tỉnh mộng, định thần nhìn, hóa ra vẫn trên núi Hổ Khâu, ảo tưởng vừa rồi cũng biến mất.

Thủy Hoàng cũng không thấy sợ nữa mà nghĩ ngay tới “tự vệ”. Ông cho rằng mối đe dọa lớn nhất đối với mình hiện nay là ba nghìn thanh gươm Ngư Tràng nằm ngay dưới chân, nhất là thanh gươm đã đâm chết Ngô Vương Liêu. Nó sẽ là khắc tinh của mình, vì thế phải đào lên quăng nó vào lò nung cho tan biến đi mình mới có thể gặp dữ hóa lành, gặp nạn thoát hiểm. Nghĩ vậy, Thủy Hoàng bèn cho triệu Lý Tư, Triệu Cao, Mông Nghị và thái thú Cối Kê, huyện lệnh Ngô huyện tới, lệnh điều ngay thợ đá và khu dịch tới, đào mộ Ngô Vương Hạp Lư lên để tìm ba nghìn thanh gươm Ngư Tràng, rồi đem tiêu hủy hết như binh khí của các nước chư hầu trước kia để ngăn chặn hậu họa, trừ diệt mọi tai họa sau này.

Ý muốn của Thủy Hoàng là một khó khăn rất lớn cho thái thú Cối Kê và huyện lệnh huyện Ngô. Khó khăn không phải chỉ vì số nhân công cần tới mấy chục vạn - Chuyện này có thể tập trung theo pháp lệnh lao địch, thậm chí có thể bắt tù nhân đến làm mà là thiếu lực khỏe mạnh để đào những lớp đá sâu dày ở mộ Ngô Vương Hạp Lư. Những thợ đá giỏi địa phương đều bị bắt đi xây dựng cung A Phòng và lăng mộ ở Lệ Sơn. Nhưng họ lại không dám tâu trình sự việc với Thủy Hoàng, đành phải tập trung những người biết qua loa về nghề thợ đá làm chủ lực còn thợ phụ thì lại càng kém cỏi. Khó khăn lắm mới gom được mấy vạn dân công đến làm. Mặt trên mộ Ngô Vương Hạp Lư bắt đầu đào bới lung tung trong phạm vi rộng khoảng một mẫu. Giai đoạn mở đầu Thủy Hoàng được Triệu Cao tháp tùng đi tới xem hiện trường khai quật, thấy cảnh tượng rầm rộ, khí thế tưng bừng thì rất yên tâm, cho rằng sẽ nhanh chóng đào tới quan quách, tìm được bảo kiếm. Ông khen ngợi thái thú huyện lệnh làm việc tốt. Sau mấy ngày tiến độ công trình chậm lại, bình quân mỗi ngày chỉ đào được hai đến ba tấc. Thủy Hoàng sốt ruột cho gọi thái thú, huyện lệnh đến hỏi:

- Vì sao lúc đầu thì nhanh nay lại chậm như vậy?

Thái thú tâu:

- Tầng vỏ của núi đều là đất đào dễ nên công việc tiến triển nhanh chóng, khi đào tới lớp đá vì quá rắn nên tiến độ chậm lại, kết quả chẳng được là bao.

Thủy Hoàng thấy có lý nên không thúc giục nữa, nhưng lệnh cho phải giám sát chặt chẽ không để công việc bê trễ.

Khoảng một tháng sau, khó khăn lắm mới đào sâu được hơn một trượng nhưng vẫn chưa tới được quan quách, càng không thể thấy được bóng dáng bảo kiếm, Thủy Hoàng lại nôn nóng liên tục gọi thái thú và huyện lệnh, hỏi:

- Phải sâu bao nhiêu nữa mới đào tới được quan quách của Ngô Vương Hạp Lư?

Thái thú, huyện lệnh sợ hãi tâu trình với Thủy Hoàng:

- Theo ghi chép của sử sách nước Ngô, thì nơi chôn cất Hạp Lư bên ngoài quan tài gỗ có ba lớp quách bằng đồng, đổ đầy thủy ngân, chim thú làm bằng vàng và ngọc bơi lội trên hồ thủy ngân, chẳng khác gì một hồ nước thật. Ba nghìn thanh kiếm ấy xếp chung quanh quan tài gỗ, hệt như thế hộ giá. Toàn bộ công trình huy động mười vạn nhân công, ba năm mới hoàn thành.

Thủy Hoàng hỏi ngay:

- Bây giờ đang dùng bao nhiêu người?

Thái thú trả lời:

- Cũng gần tới mười vạn.

Thủy Hoàng giọng có vẻ bực:

- Lẽ nào năm ấy làm cũng chậm thế này mà Ngô Vương Phù Sai cho phép sao?

Tới đây thì thái thú, huyện lệnh buộc phải nói ra các nguyên nhân:

- Tâu bệ hạ, việc này cũng có nguyên nhân. Một là, những thợ giỏi đều đã diều đi xây dựng lăng mộ Lệ Sơn và cung A Phòng. Thợ đá còn lại tài nghệ tầm thường nhưng đã cố gắng hết mức rồi. Hai là, cứ theo suy đoán thì quan quách Hạp Lư sau khi hạ huyệt tất phải đổ đất ghép đá lên trên, phải là kết cấu hỗn hợp đất đá nhưng nơi đang đào, cả một diện tích rộng chỉ toàn đá thiên nhiên, hoàn toàn không có dấu vết đắp đất đá. Vì vậy hạ quan ngờ rằng mộ Hạp Lư chưa chắc đã phải là ở đây. Bằng không, cớ sao đào sâu tới hơn một trượng rồi vẫn chưa thấy dấu hiệu gì?

Nghe thái thú nói Thủy Hoàng cũng cảm thấy sự việc thật nhiêu khê rắc rối, nhưng vẫn đắn đo hỏi:

- Đã thế thì tại sao sử sách lại ghi đích xác như vậy?

Quận thú cười tâu rằng:

- Mạnh Tử nói: “Chỉ tin vào sách thì chi bằng không có sách”. Tôn Tử thì chủ trương: “Việc quân không ngại dối trá”. Ngô Vương Hạp Lư đánh nhau với Việt bị trọng thương chết. Ông ta lo rằng nếu cuối cùng Ngô không địch nổi Việt thì mình sẽ bị quật mả phanh thây, liền ghi rõ mộ táng ở Hổ Khâu nhưng kỳ thực là ở chỗ khác, rất có thể là như vậy.

Thủy Hoàng bèn bảo:

- Hay là đi tìm mấy vị bô lão am hiểu lịch sử hỏi xem thế nào? May ra biết rõ địa điểm chính xác.

Thái thú cảm thấy rất khó xử, nói với Thủy Hoàng:

- Đây là vấn đề thứ ba hạ chức muốn tâu với thánh thượng. Tuy nước Ngô bị nước Việt thôn tính, giờ lại bị đại Tần thống nhất, trước sau đã gần ba trăm năm rồi nhưng bách tính vẫn nhớ tiếc tiên vương nước Ngô của họ. Nay chúng ta đào mộ tổ của họ, họ tuy bề ngoài phục tùng, chăm chỉ làm đấy, nhưng trong lòng dứt khoát là không muốn như vậy, đây là nguyên nhân căn bản khiến tiến độ công trình chậm. Những vị bô lão biết rõ sự thật nhưng làm sao có thể bảo cho chúng ta được? Sử sách ghi là ở chỗ này, họ bảo không biết, chúng ta cũng không thể vô cớ trị tội họ được.

Nghe quận thú nói, Thủy Hoàng cảm nhận sâu sắc rằng: Đánh tan một đội quân, đánh chiếm một tòa thành, tiêu diệt một quốc gia, đã là việc vô cùng khó khăn. Nhưng muốn chinh phục một dân tộc mới là việc khó khăn nhất trên dời. Thấy công việc đào mộ chậm chạp, mộ và kiếm cũng chẳng thấy tăm hơi, Thủy Hoàng không muốn uổng công đợi chờ nữa. Nhưng ông vẫn không muốn cam chịu thất bại mà để cho mình đỡ bẽ mặt bèn hạ chiếu cho thái thú Cối Kê và huyện lệnh Ngô huyện tiếp tục đào và phải đào cho được quan quách mộ Hạp Lư, nhất là phải lấy được ba nghìn thanh gươm Ngư Tràng, trình lên Hàm Dương, do ông đích thân thu nhận, sau đó sẽ cho phá hủy. Thái thú Cối Kê và huyện lệnh Ngô huyện dĩ nhiên “một lòng tuân chỉ” tiếp tục giám sát dân công đào đá tìm gươm, cho tới khi Thủy Hoàng chết mới ngừng mà rốt cuộc cũng chẳng thu được gì. Nơi bị đào trở thành một cảnh quan hiểm trở kỳ thú. Vách núi rời nhau, giữa là suối đá sâu không lường nổi và có tên là “Kiếm Trì” (Hồ gươm).

Thủy Hoàng lặp lại vết xe đổ mò đỉnh ở Tứ Thủy chín năm về trước, cảm thấy vô cùng đáng tiếc khi phải kết thúc công việc kiểu đầu voi đuôi chuột việc đào gươm ở Hổ Khâu, đành thống lĩnh quần thần tiến về phía Kim Lăng để làm nốt một nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Trong đám đạo sĩ vốn dĩ đã có lắm môn nhiều phái và ai cũng tỏ ra ta đây tài giỏi, có một loại giỏi xem khí vận, họ làm ra vẻ rất cao siêu đưa tay chỉ về phía khoảng trời xa xa nói với Thủy Hoàng: “Phía đông nam có khí thiên tử!”. Chuyện đó dĩ nhiên khiến cho Thủy Hoàng sợ hãi và lo lắng: “Trời không thể có hai mặt trời, nước không thể có hai vua”. Vị thiên tử do khí thiên tử ở phía đông nam dự báo chắc chắn sẽ là khắc tinh của mình rồi. Thiên tử ấy mà nổi lên ắt thiên tử này phải chết. Điều đó chẳng phải là ứng với sấm ngữ “Năm nay Tổ long sẽ chết” đó sao? Vì vậy chỉ có trấn áp tiêu hủy được khí thiên tử ở đông nam không cho nó nổi lên được thì “Tổ long” mình mới không chết. Cho nên Thủy Hoàng phải đi tới phía đông nam một chuyến, “phải ra tay trước” diệt khí thiên tử ấy. Nhưng phía đông nam dài rộng hàng vạn dặm, gồm tám quận hơn ba mươi huyện, khí thiên tử không biết phát tích từ quận nào huyện nào? Thật sự là chẳng biết tìm ở chỗ nào nữa. Những đạo sĩ thường ngày khoác lác ba hoa, tự cho mình là thần thông quảng đại, chỉ nói khí thiên tử xuất hiện ở phía đông nam, còn địa chỉ cụ thể thì ấp a ấp úng, không nói ra được. Trung xa phủ lệnh Triệu Cao vẫn là người đọc nhiều nhớ kỹ, đã đưa ra được một sử liệu nói về việc trấn áp khí thiên tử.

Một trăm hai mươi ba năm trước, nước Sở đang ở vào thời kỳ cường thịnh thôn tính, Ngô, Việt, ngang sức với Tần, Tề, thì một đạo sĩ phát hiện tại vùng Kim Lăng có một luồng khí vương giả bốc lên tới tận trời xanh, bèn tâu với Sở Uy Vương rằng chắc chắn trong đám dân Ngô, Việt, có người muốn tập hợp dân chúng khởi sự, khôi phục lại cố quốc cho nên đã bốc ra luồng khí thiên tử ấy; may phát hiện được sớm, cần phải có biện pháp làm dứt luồng khí vương giả ấy mới ngăn chặn được tai họa khi chưa xảy ra, bảo vệ đất nước, giữ gìn yên ổn cho nhân dân. Sở Uy Vương nghe theo, cho chôn rất nhiều vàng xuống Kim Lăng, quả nhiên đã trấn áp được luồng khí vương giả ấy, đảm bảo sự vững bền của chính quyền và an toàn của nhân dân. Lần này lại phát hiện khí thiên tử ở phía đông nam, thì địa điểm ấy chắc chắn phải ở Kim Lăng rồi.

Thủy Hoàng khen Triệu Cao thông kim bác cổ, giỏi hơn cả đám đạo sĩ nhiều, liền quyết định đến Kim Lăng, phải ra tay trước trấn áp khí thiên tử. Nghĩ tới đây ông như thoát ra được nỗi ám ảnh thất bại đào gươm ở Hổ Khâu, trong lòng phấn chấn, chuẩn bị sẵn sàng thưởng ngoạn danh thắng ở Kim Lăng, quyết định tại đây sẽ hạ thủ để thể hiện uy phong sát khí của mình. Khi xa giá tiến gần đến Kim Lăng, Thủy Hoàng nhìn ra bốn phía, thấy quang cảnh và khí thế núi sông thành quách trước mắt quả là hùng vĩ tráng lệ, khí thế ngất trời. Núi Kim Lăng ở phía Đông (nay là Chung Sơn), trùng điệp nhấp nhô như rồng cuốn vươn dậy, xông thẳng lên trời cao. Núi Thanh Lương ở phía Tây (nay là Thạch Đầu Sơn), đá đỏ thông xanh, thế đứng chênh vênh, tầng tầng lớp lớp, trầm tĩnh vững trãi, như hổ ngồi trên cao nhìn xuống chung quanh. Thật là rồng cuốn hổ ngồi, uy trấn đông nam. Sau khi đã hết lời khen ngợi, Thủy Hoàng cho gọi một vị đạo sĩ có tài quan sát vận khí đến, hỏi ông ta khí thiên tử phát ra từ đâu, và trấn yểm thế nào?

Vị đạo sĩ liền khoa chân múa tay, bắt quyết dùng ba tấc lưỡi phán rằng: “Thiên tử là rồng, khi rồng hạ giới thường náu mình dưới sông biển, hơi thở ra xông thẳng lên chín tầng mây, đó chính là khí thiên tử. Nhìn vào dáng núi và địa hình, thế rồng cuộn hổ ngồi trấn giữ núi sông tất phải có nền tảng vững vàng để có thể dựng đô nghiệp đế. Vì thế muốn diệt khí thiên tử thì phải làm đứt mạch của hai núi long hổ, giải tỏa nguồn nước, cho cây cối tàn lụi, khiến cho rồng sa xuống bãi cạn để tôm cá đùa giỡn, hổ rơi xuống bãi bằng cho chó trêu chọc. Vương khí chỗ này bị triệt hạ, thế vua Hàm Dương tất lên mạnh, đất nước vĩnh hằng, dân tình yên ổn, kéo dài muôn đời, bệ hạ sống lâu muôn tuổi”.

Thủy Hoàng nghe nói thế tin ngay, liền triệu huyện lệnh Kim Lăng đến, bắt huy động dân công, đào hang lớn ở Chung Sơn, phá đê Kim Lăng để tháo nước sông Hoài làm tan vương khí. Có hai nguồn nước phải khai thông, một là chảy đi từ Cú Dung Hoa Sơn, bốn mươi dặm phía dưới Kim Lăng; một nữa chảy đi từ Đông Lư Sơn Phiêu Thủy, hợp dòng chảy vào Phương Sơn Đạo rồi ngược lên phía tây bắc chảy vào Trường Giang. Con sông đào ở Trường Lũng Kim Lăng này gọi là sông Tần Hoài.

Để trấn yểm vương khí Kim Lăng, Thủy Hoàng cho chôn rất nhiều vàng trong hố lớn đào ở Thạch Uy Phương Sơn. Giữa hai núi Lô Long, Mã Yên tây bắc thành là Kim Lăng Cương cũng bị Thủy Hoàng bắt đào làm nơi chôn vàng. Thủy Hoàng còn đổi tên Kim Lăng thành “Mạt Lăng”, ý muốn nói chỉ để nơi này thành bãi chăn nuôi, không cho phép có đế vương.

Nhưng sáu triều đại Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, về sau đều kiến đô ở Kim Lăng, rồi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cũng xây dựng kinh đô ở Kim Lăng. Tới khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc cuối đời Thanh và chính phủ Quốc Dân Đảng cũng đều định đô ở Kim Lăng, thời gian tuy ngắn ngủi nhưng cũng là một triều đại. Do đó có thể thấy, năm ấy Thủy Hoàng đã đào long mạch, khơi sông Tần Hoài, yểm vàng, nhưng vẫn không thể triệt hạ được vương khí Kim Lăng. Đúng như trong một bài thơ “Lên đài Vũ Hoa Kim Lăng ngắm đại giang” của Cao Khải, nhà thơ triều Minh đã viết: “Tần Hoàng không thử yểm hoàng kim, giai khí thông thông chí kim vương” (Vua Tần Thủy Hoàng chôn vàng tại đây cũng chẳng được gì, khí lành vẫn thịnh vượng cho tới vua ngày nay).

Tại Kim Lăng, Thủy Hoàng đã đào đứt long mạch, cho nước chảy vào sông Hoài, chôn rất nhiều vàng, trấn áp khí thiên tử, tự cho rằng như vậy là đã trừ khử được những lời sấm của thần Núi, Hạo Trì Nhân “Tổ long” và đã chiến thắng vận rủi, sẽ không chết được nữa. Trong lòng yên ổn, Thủy Hoàng càng hứng thú đi tuần du, ông qua sông Trường Giang tại Giang Thừa (nay ở phía Bắc huyện Cú Dung), dọc theo tuyến bờ biển ngoằn ngoèo tiến lên phía Bắc tới Lang Nha, Thủy Hoàng được quần thần xúm xít vây quanh bước lên đài Lang Nha mà ông đã đốc thúc xây dựng. Mười năm mưa gió một thời đã làm cho cây cối ở đây xanh tốt um tùm, phủ kín đình đài lầu gác. Nay chỉ còn lại cảnh xuân tàn, cây khô cành héo xác xơ liễu rủ, thềm đá rêu phong, gió lùa ô cửa, cột xà tô vẽ rực rỡ sáng sủa, đã sơn tróc lỗ rỗ, chuông đồng bên thềm bị mưa gió gặm nhấm đã hoen gỉ lam nham, lay động trước gió phát ra những âm thanh rè rè như than vãn. Nhìn xa xa chỉ thấy mây đen ùn ùn, sóng biển nhấp nhô, buồm về lác đác, hải âu lượn lờ, một cảnh tượng lạnh lẽo thê lương. Thủy Hoàng nghĩ mình nhiều năm trông lo việc triều chính, ngoài lo xem xét dân tình đêm ngày vất vả, tinh thần thể xác mệt mỏi, vậy mà vẫn chẳng được như ý mình, lại còn bị nhiều thế lực chống đối và đe dọa, bất giác nước mắt rưng rưng. Sợ mọi người nhìn thấy ông vội lấy tay áo che mặt, lặng lẽ lau nước mắt, sau đó từ từ lẳng lặng xuống núi trở về hành cung.

Khi vua tôi Thủy Hoàng tới trước hành cung, đang chậm rãi bước một đi lên thì chợt từ đâu có mấy con quạ bay ngang qua đầu mọi người, quang quác kêu lên mấy tiếng rồi đậu ngay trên chiếc hoành phi trước cổng hành cung khiến các quần thần tùy giá cuống quýt cả lên. Vì chữ khắc trên tấm hoành phi làm bằng thứ đá trắng đẹp như ngọc này là bốn chữ triện cứng cáp mạnh mẽ “Lang Hoàn Điềm Tĩnh” do chính tay Thủy Hoàng viết. “Lang Hoàn” nghe nói là nơi để sách của thiên đế, Thủy Hoàng rất ham đọc sách, sách thẻ tre đọc hàng ngày nặng tới một trăm hai mươi cân (bằng sáu mươi cân hiện nay). Trong thời gian tuần du xây dựng đài Lang Nha lần trước, thái thú Lang Nha nhiều lần thỉnh cầu Thủy Hoàng đề từ cho hành cung để tăng thêm phần vẻ vang. Thủy Hoàng liền lấy điển cố Lang Hoàn viết tấm hoành phi này, một là để ghi địa danh Lang Nha, hai là để chứng tỏ sách mình đọc có thể sánh cùng thiên đế. Bây giờ, mấy con quạ này lại nhằm đúng lúc Thủy Hoàng giá lâm bay tới đậu lên chữ nhà vua viết, há chăng phải đã khinh nhờn thiên tử hay sao? Quả là bất kính, là điềm chẳng lành! Mấy thị vệ vội chạy tới lấy tay xua đuổi, mấy con quạ vỗ cánh bay đi nhưng rồi lại bay về ngay và vẫn đậu trên tấm hoành phi. Thấy thế, Triệu Cao, Lý Tư, Mông Nghị chạy tới vung tay hò hét xua đuổi, quạ lại bay đi rồi lại bay về, ì ra trên hoành phi không chịu bay đi. Nhiều lần xua đuổi vẫn cứ như thế, mọi người chẳng còn biết làm thế nào nữa.

Thủy Hoàng thấy vậy rất không vui. Loài cầm thú này lại dám vuốt râu hùm, quả là đáng ghét. Thấy các cận thần xua đuổi, Thủy Hoàng chỉ đứng nhìn, chờ đuổi xong mấy con vật xấu xí này đi thì mới vào cung. Nào ngờ đuổi mãi không được, mấy con chim hoang dại càng đuổi càng tỏ ra hỗn xược, cứ nhằm về phía mình mà kêu quang quác. Thủy Hoàng nổi giận rút luôn thanh gươm bên mình lao thẳng vào mấy con quạ, đám quạ bay vụt lên thanh gươm lao trúng bức hoành phi “choang” một tiếng vỡ tan tành rơi xuống đất, bốn chữ “Lang Hoàn Điềm Tĩnh” vỡ nát không còn nhận ra được nữa.

Đám tùy tùng sợ hãi ngơ ngác đứng đờ cả ra, không biết nên làm gì nữa. Thủy Hoàng giận dữ quát: “Còn không nhặt gươm cho ta.” Triệu Cao mới định thần lại, cúi xuống nhặt gươm, tra vào vỏ cho Thủy Hoàng rồi đỡ ông ta bước gấp vào hành cung.

Hăng hái trở về thăm chốn cũ lại gặp cảnh xưa buồn bã, giờ lại chính tay mình làm vỡ bức hoành phi do mình đề từ, khiến Thủy Hoàng thêm tức giận và buồn rầu cho đó là vận rủi. Bữa tiệc tẩy trần và buổi trình diễn ca múa đặc sắc do thái thú thết đãi, ông cũng chẳng còn thấy hứng thú gì nữa, gượng gạo ứng phó chốc lát rồi về ngay tẩm cung.

Ngủ tới nửa đêm, gió mạnh xô cửa và tiếng sóng dữ vỗ bờ làm Thủy Hoàng tỉnh giấc. Ông mơ màng mặc áo đứng lên, ra trước song cửa, chợt thấy ánh lửa sáng trưng trên biển, thấp thoáng như có một bãi đảo cách đấy không xa, vụt hiện ra ý nghĩ: Chẳng lẽ các tiên nhân trên đảo tiên Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu cảm ứng tâm linh với mình, biết mình đã đến đây nên đến đón mình chăng? Thế là ông mừng rỡ sửa sang áo mũ rồi ra đi, theo ánh sáng lấp lánh của những con sóng, mạnh bước xuống biển, đi thẳng tới non tiên hải đảo mà mình hằng mơ ước. Ông đưa mắt nhìn ra xa, thấy một dáng núi bóng hình thướt tha, sáng lòa rực rỡ, liền cho rằng đây là nơi trở về của mình. Các tiên ông Tiễn Môn, Cao Thệ chắc chắn đang chờ đón, ông phải nhanh chân tới đó, kẻo các bậc thượng tiên phải chờ lâu. Ông rảo bước lên phía trước, thấy mình đi trên biển mà như đi trên đất bằng, gió biển ù ù bên tai, vạt áo tung bay như cánh buồm no gió, cảm thấy như đang bay trong hư không.

Thủy Hoàng đang hết sức tự tin rẽ sóng tiến lên, chợt thấy một đợt sóng lớn xô tới. Ông vội dừng chân, con sóng biển trước mặt bất thần rẽ sang hai bên, từ bên trong nhảy ra một con hải quái đầu rồng thân người. Thủy Hoàng sững lại, đang định quát bắt nó nhường đường, thì người rồng sắc ấy cầm gươm chỉ thẳng vào ông, dằn giọng nói:

- Doanh Chính to gan, đêm hôm khuya khoắt ngươi dám xông vào biển của ta, định làm gì vậy?

Thủy Hoàng thấy người đó gọi đúng tên mình, lại nói mình xâm phạm vùng biển của ông ta, đoán con quái vật nhe nanh múa vuốt trước mặt mình chắc chắn là thần biển nơi này, liền chắp tay vái chào nói:

- Trẫm được các tiên ông triệu đến đảo quý phía trước để gặp gỡ các bậc thượng tiên, tìm thuốc trường sinh bất tử, mong tôn thần nhường lối cho đi để hoàn thành nguyện vọng cả đời của trẫm.

Thần biển liếc nhìn Thủy Hoàng rồi cười lạnh nhạt bảo:

- Doanh Chính, ngươi là một tên bạo chúa, lạm dụng quyền hành, tàn sát chúng dân, là tai họa của đất nước, gây chiến xâm lược, sát hại sinh linh, đã nhiều lần nhắc nhở mà vẫn không từ bỏ, lại còn muốn lên cõi tiên cầu được trường sinh nhân gian không làm gì nổi ngươi, Ngao Quảng ta làm sao tha cho ngươi được?

Thủy Hoàng nghe đối phương xưng là Ngao Quảng, thì biết là Long Vương biển Đông. Vùng biển này do ông ta cai quản, đúng là đã gặp phải đối thủ rồi. Kẻ này đã không có thiện chí, mà Thủy Hoàng xưa nay ỷ thế bá vương đương nhiên quyết không chịu, liền giận dữ nói:

- Trẫm theo mệnh trời, làm vua thiên hạ, ta muốn tìm thuốc thành tiên, là việc của ta, liên can gì đến thủy tộc nhà ngươi? Còn không nhường bước cho ta?

Ngao Quảng cười nhạt, bảo:

- Muốn ta tha cho ngươi cũng dễ thôi, nhưng trước hết phải thắng được thanh bảo kiếm trong tay ta đã!

Nói xong giơ cao thanh bảo kiếm. Thủy Hoàng rút ngay thanh gươm đeo bên mình, tức giận chỉ mặt đối phương nói:

- Trẫm là con của thiên đế mới thống nhất được thiên hạ, bốn biển đều do một mình trẫm cai quản. Ngươi là con rồng khốn kiếp, lại dám cản đường trẫm đi tìm tiên, đáng tội gì hả? Lại còn dám muốn cùng ta tỷ thí, há không phải là tự tìm đến cái chết sao?

- Đồ con hoang nhà ngươi đã cướp nước Tần, trơ trẽn không biết nhục nhã là gì, lại còn ỷ thế làm vua. Hôm nay hải vương ta lấy đầu nhà ngươi - Ngao Quảng mắng chửi thậm tệ.

Bị chọc đúng vào chỗ kiêng kị nhất, nỗi đau khổ lớn nhất, Thủy Hoàng giận mặt tái đi, toàn thân run lên, vung kiếm thét lớn:

- Tên súc sinh này, hẳn đã bị Lư Sinh, Hầu Sinh xúi giục, dám đến nhục mạ quả nhân. Trẫm phải chặt đầu ngươi, hầm lẩu làm nhân bánh mới được!

Ngao Quảng cũng bị kích động kêu ré lên, vung múa gươm xông vào đâm liền.

Thủy Hoàng vốn rất tinh thông võ nghệ, lại thêm bị cản đường tới đảo cầu tiên nên càng căm giận, trổ hết uy phong, ráng sức bình sinh, vung gươm chém ngang, phạt dọc đánh lại Ngao Quảng. Long Vương biển Đông thở hổn hển thấy không cự nổi bèn đánh dứ một đường gươm rồi quay đầu tháo chạy. Thủy Hoàng sát khí đang hăng đâu chịu buông tha, liền vung gươm đuổi gấp. Ngao Quảng cuống lên, đành phải sử dụng chiêu cuối cùng, nhả viên ngọc quý đã tu luyện nhiều năm ra, ném thẳng về phía Thủy Hoàng. Thủy Hoàng vung gươm lên chém, nhưng không tài nào chém trúng, viên long châu tránh được lưỡi gươm, né sang một bên rồi lao thẳng vào Thủy Hoàng. Thủy Hoàng tránh không kịp, bị đánh trúng vào tim, ông vội ôm lấy ngực, kêu lên rồi ngã vật ra. Thủy Hoàng giật mình bừng tỉnh lúc ấy mới biết đóchỉ là một cơn ác mộng, nhưng tay vẫn cứ bịt vào chỗ đau trên ngực, chỉ thấy tim đập rất mạnh, sợ quá toàn thân toát mồ hôi hột. Ông kinh hoàng nhớ lại trận ác chiến vừa xảy ra, thắng một Ngao Quảng đã chẳng hề dễ dàng, nếu hắn kéo anh em Ngao Trí, Ngao Nhân, Ngao Tín, bốn con rồng khốn kiếp cùng đến khiêu chiến thì mình khó bề chống đỡ! Nghĩ tới đây, Thủy Hoàng vội dậy mặc quần áo, lệnh cho hoàng môn triệu ngay tiến sĩ theo hầu tới kể lại giấc mơ vừa qua, nhất là cảnh giao chiến với thần biển, rồi bảo ông ta suy xét xem rút cục là điềm lành hay dữ. Ông tiến sĩ chau mày nhắm mắt, lặng lẽ suy nghĩ một lát, sau đó trịnh trọng tâu rằng:

- Theo lời bệ hạ kể vị thần biển ấy là Long Vương biển Đông Ngao Quảng, nếu vậy thì sau trận giao chiến này sẽ tạm thời không xuất hiện nữa. Vì viên long châu mà hắn dùng đánh bị thương bệ hạ đã phải nhả ra coi như đạo hạnh hắn tu luyện nhiều năm đã tiêu tan hết rồi, hắn sẽ tạo lại thành con cá lớn thôi. Sách Trang Tử nói rằng ở biển Bắc có con cá, tên là Côn. Cá Côn tu luyện tới một trình độ nhất định sẽ bay lên trời thành rồng, người ta nói “cá hóa rồng” là vậy. Rồng dữ làm nhiều điều ác, tức là ác thần, phải trừ diệt đi thiên thần mới xuất hiện được.

Thủy Hoàng thấy tiến sĩ giải thích có lý, bèn lệnh cho thái thú Lang Nha điều động hơn một trăm thuyền lớn, trang bị loại cung nỏ lắp tên bắn được liên tục và nhiều tấm lưới to, chuẩn bị quyết chiến với thần biển, sẵn sàng chấp nhận một giá rất đắt để bắt bằng được con giao long, giành toàn thắng.

Mọi thứ được bố trí xong xuôi, quân cận vệ và quân hổ bôn được học tập kỹ thuật hàng hải như giương buồm, kéo chão, bơi chèo, cầm roi của các ngư dân thạo việc sông nước, nắm chắc luồng lạch. Sau đó trên mỗi thuyền lại còn bố trí thêm binh lính hải chiến, có đầy đủ hoa tiêu, cầm lái, bơi chèo, xa kích... Thuyền dàn theo đội hình tác chiến, lợi dụng gió tây nam tiến theo hướng đông bắc. Thủy Hoàng cùng các cận thần ngồi trên thuyền chỉ huy đi giữa đội hình, thôi thúc cả đoàn thuyền giương buồm rẽ sóng ra khơi. Thế trận gồm hơn một trăm thuyền kết thành một khối, cột buồm san sát, tay chèo vung lên như bay, buồm căng che kín một khoảng trời, chẳng khác gì một hòn đảo nổi di chuyển trên biển, hoành tráng vô cùng. Thủy Hoàng hứng chí, lệnh cho quân cận vệ và lính hổ bôn hát “Thơ tiên chân nhân”, còn mình thì nhắm mắt mơ tưởng: Nếu đoàn thuyền không phải đi tác chiến, mà là đưa mình đi tìm đảo tiên trên biển thì thật là vui sướng và mãn nguyện biết chừng nào.

Đi suốt mấy ngày liền, đều gió yên biển lặng, cả một vùng mênh mông không phát hiện ra con mồi nào. Khi đã đi xa tới mấy trăm dặm, vòng qua cả núi Lao Thành ở Tức Mặc đầu phía đông Tề quận vẫn không thấy gì. Lại tiến về phía tây, tới vùng biển Chi Phù. Bỗng cuồng phong nổi lên, sóng lớn lừng lững, bề thế như lâu thuyền cũng tròng trành chao đảo. Tất cả phút chốc trở nên căng thẳng, chăm chú theo dõi hướng gió theo chiều sóng. Chợt nghe thấy tiếng chiêng vang dậy ở mấy thuyền đi phía trước, tiếng người huyên náo, nhìn vào hiệu cờ thì biết đã phát hiện một con cá lớn và thông báo tất cả phải giữ vững thế trận sẵn sàng chiến đấu. Thủy Hoàng truyền lệnh chuyển đội hình đoàn thuyền thành hàng ngang theo tiếng chiêng trống và cờ hiệu phía trước, vây lấy con cá. Đoàn thuyền vốn ở thế trận hình vuông, nhanh chóng tản ra hai bên, hình thành thế lá quạt tỏa nhanh ra phía trước. Tất cả đồng thanh gào thét, dũng mãnh xông lên, khí thế hừng hực. Ngay ở chỗ thuyền tập trung đông nhất, con cá lớn sợ hãi bỗng lao lên mặt biển, nó dài tới hai, ba trượng, chẳng khác nào một chiếc thuyền mui đen chùi chũi. Khi nó lao lên kéo theo một cột sóng lớn, khiến thuyền gần đấy tròng trành lắc mạnh, rất nhiều người bị hất xuống biển. Mọi người sợ quá, vội ghìm chiếc thuyền thật vững, rồi tiếp tục vây chặt chỗ con cá vừa lặn xuống.

Vì thuyền dày đặc, mặt nước bị vây kín, con thủy quái không nhận ra phương hướng, bơi ngược trở lại vị trí trung tâm của đoàn thuyền, lao thẳng vào chiếc lâu thuyền của vua tôi Thủy Hoàng. Nó bị đáy lâu thuyền cản lối, bèn hung dữ lao vọt lên chồm hẳn về phía Thủy Hoàng. Hình dáng nó hiện rõ: thân hình đồ sộ đen sì như một quả núi, đám lông bờm xòe ra che kín được cả mặt trời, trán và mũi nhọn hoắt như đỉnh núi Ngũ Nhạc, cột nước phun ra từ mũi cao tới mấy trượng, phát ra tiếng đinh tai. Vua tôi Thủy Hoàng sợ hết hồn hết vía, ngã xuống khoang thuyền. Cũng may thuyền chỉ huy có nhiều lâu thuyền vây quanh, người đông, vũ khí đầy đủ, tên bắn ra như mưa về phía con vật khổng lồ. Nó lập tức quay đầu vẫy đuôi, lặn nhanh xuống biển. Sóng lớn cuộn lên, thuyền lại chao đảo, người bên mạn thuyền lại lăn ào ào xuống biển. Tiếng gọi với, tiếng kêu cứu ầm ĩ náo động cả một vùng.

Bạn bè bị rơi xuống biển chết, khiến mọi người vô cùng căm phẫn. Thuyền từ bốn phía kéo tới bao vây chặt chỗ con thủy quái lặn xuống. Tiếng chiêng trống, tiếng hò hét vang dậy mặt biển. Con giao long đã bị trúng khá nhiều tên, bơi không còn được nhanh nữa, lại thêm mấy lần nhảy vọt lên không thoát khỏi vòng vây, sức lực đã giảm đi nhiều, mọi người thừa thế tấn công dồn dập, ngoài cung nỏ bắn tới tấp, các thủy thủ dũng mãnh phóng xuống những chiếc lao xiên cá có ngạnh ngược. Con cá bị trúng lao chạy điên cuồng, nhưng bị những chiếc ngạnh móc ngược ghì lại, chạy không thoát mà vết thương trên mình bị xé to ra, máu tuôn xối xả, nó dần dần không gượng nổi nữa, phơi bụng nổi lên mặt nước, quẫy mạnh mấy cái rồi tắt thở.

Người trên thuyền khi ấy mới tung lưới xuống chụp lấy, rồi chẳng khác gì kéo co, mấy chục con người nắm chặt giềng lưới, vừa hò “dô ta” bài hò kéo vừa từng nhịp từng nhịp kéo con cá kình to như chiếc thuyền mui lên thuyền.

Tất cả khua chiêng dóng trống, cùng hát bài “Thơ tiên chân nhân”, trở về Chi Phù, rời thuyền lên bộ.

Thủy Hoàng bước tới bên con cá kình ngắm nghía, trong lòng nghĩ: Thần biển đã bị giết, trẫm sẽ quyết tâm tiếp tục hoàn thành sự nghiệp to lớn của mình