← Quay lại trang sách

HỒI THỨ BA MƯƠI BỐN TỪ PHÚC TRỐN NHƯ “TRÂU ĐẤT XUỐNG BIỂN” -THỦY HOÀNG ỐM, TỔ LONG SẮP CHẦU TRỜI---------

Hơn một trăm lâu thuyền của Thủy Hoàng dùng trong trận hải chiến đều neo đậu trong vịnh ngoài thành Chi Phù. Trong số đó có hơn chục chiếc bị hư hỏng vì sóng lớn xô đập khi giao chiến hoặc vì va chạm vào nhau, người ta đang sửa chữa để chuẩn bị dùng sau này. Sau khi điểm lại, có hơn một trăm thủy binh, lính hổ bôn, nội thị cung đình bỏ mạng, Thủy Hoàng lệnh cho thượng khanh Mông Nghị ghi lại họ tên người đã chết trận, cấp tiền xuất theo quân công hạng nhất. Huyện lệnh Chi Phù được tin Thủy Hoàng đã giết được giao long trên vùng biển của huyện và sẽ lưu lại địa phương thì vô cùng mừng rỡ, lập tức dẫn một đoàn các quan chức gồm thừa, úy và hơn một nghìn dân chúng đến nghênh đón nhà vua, tỏ ra ân hận vì tiếp giá muộn màng, khấu đầu xin nhà vua lưu lại huyện mình một thời gian để thần dân được hưởng ơn mưa móc, cảm tạ thánh đức. Thủy Hoàng liền bảo nhân dịp sửa chữa lâu thuyền, sẽ mở hội mừng công tại đây, tuyên dương rộng rãi thắng lợi của chuyến “ngự giá thân chinh” giết chết thần biển giao long. Huyện lệnh Chi Phù răm rắp tuân lệnh điều động ngay thợ đến dựng một đài cao trên bãi biển, treo đèn kết hoa, khua chiêng dóng trống, thu hút hàng vạn người đến xem. Lính hổ bôn và cận vệ cung đình như thường lệ xếp theo đội hình dàn thành thế trận, cầm khí giới đứng canh gác quanh đài cao.

Thủy Hoàng được hoàng tử Hồ Hợi và cận thần Lý Tư, Triệu Cao, Mông Nghị dẫn đường, từ từ bước lên đài cao. Ông chẳng những mặc áo long cổn có đường viền hoa văn rồng vàng nền đen, thắt đai ngọc, lưng đeo bảo kiếm, đội mũ bình thiên rủ mười hai tua ngọc, trang phục thường chỉ mặc khi thiết triều và cúng tế mà còn gài trước ngực hai chiếc mắt cá to bằng nắm tay, lấy từ con giao long lớn đã được tẩm thuốc, giữ nguyên vẻ óng ánh, đựng trong túi thơm. Thủy Hoàng coi hai chiến lợi phẩm này có ý nghĩa hơn cả việc phá hủy mấy triệu binh khí của sáu nước. Vì điều đó không những chứng tỏ mình là người chiến thắng trong trận hải chiến, còn chứng tỏ mình không những là đức vua “của cả đất nước này”, mà còn chiến thắng cả thần biển, trở thành người thống trị vùng biển mênh mông.

Đèn nến sáng trưng, khói hương nghi ngứt, chuông trống rền vang, ca hát rộn ràng. Sau khi dâng lễ tam sinh, rót ngự tửu xong, Thủy Hoàng gật đầu ra hiệu, vị tiến sĩ đã giải mộng cho Thủy Hoàng tuyên đọc văn tế. Bài văn tế viết:

Năm ba mươi bảy, hoàng đế tuần thú, ngự giá Lang Nha.

Mơ thấy hải thần, gây ra sóng gió, nói lời ngỗ nghịch.

Đánh nhau với hắn, hải thần thua chạy, trốn xuống biển sâu.

Vua dẫn lâu thuyền, cung nỏ sẵn sàng, giương buồm truy đuổi.

Vượt qua Lao Thành, tiến về phía tây, mới thấy tung tích.

Trăm thuyền gắng sức, muôn nỏ cùng giương, hải chiến ác liệt.

Giết chết giao long, gió yên sóng lặng, họa loạn dẹp xong.

Hải chiến trở về, trường sinh đang đợi, Bồng Lai trước mắt.

Tế văn đôi dòng, phục duy thượng hưởng.

Bài văn tế về thể tài cũng như phong cách rất giống với những tấm văn bia trước đây, nhưng không phải của Lý Tư mà là của vị tiến sĩ này. Đó là vì Tả thừa tướng Lý Tư, người chuyên viết loại văn này là đại diện của pháp gia, theo ông ngay cả thủy tổ Nho gia Khổng Tử cũng không nói đến sức mạnh của ma quái, “Tử bất ngữ quái lực loạn thần” nhà thực học chủ trương pháp trị này càng không tin phép thuật quỷ thần. Việc Thủy Hoàng cầu tiên tìm thuốc mong được trường sinh, ông đã cương quyết phản đối nhưng Thủy Hoàng một mực tin tưởng nên ông không dám tỏ rõ thái độ, chỉ tiêu cực trong hành động. Sau chiến thắng “thần biển” giết chết giao long, Thủy Hoàng vẫn muốn ông chấp bút viết văn tế, ông không dám ra mặt từ chối, bèn tỏ ra phóng khoáng tâu rằng mình viết đã nhiều, chi bằng để cho những người tài hoa khác làm và đề nghị vị tiến sĩ nọ chấp bút vì ông ta giải mộng rất đúng, văn tế để ông ấy viết là thích hợp nhất. Thủy Hoàng nghe Lý Tư nói có lý, liền giao nhiệm vụ cho vị tiến sĩ đó. Chuyện này khiến vị tiến sĩ vô cùng sung sướng, liền đóng cửa ngồi một mình, ngày đêm suy nghĩ cân nhắc câu chữ thảo bài văn tế, sau đó trịnh trọng dâng lên Thủy Hoàng ngự lãm. Thủy Hoàng đọc, cảm thấy bố cục kết cấu ý tứ và tài trí văn chương chẳng kém gì Lý Tư, lòng thầm nghĩ: Trong đám nho sinh quả có nhiều nhân tài, nhưng Thuần Vu Việt, Hầu Sinh sao lại chống đối ta thế nhỉ? Nếu cứ như tiến sĩ này, chịu làm theo ý chỉ của ta, thì sao lại không công danh thành đạt kia chứ? Để khen thưởng việc giải mộng đúng và có tài văn chương, Thủy Hoàng đã giao việc đọc văn tế vốn là nhiệm vụ của thừa tướng cho vị tiến sĩ này thực hiện. Trong đại lễ có hàng vạn người dự, vì thế được đọc tác phẩm mình viết ra, tả sao xiết niềm sung sướng và nỗi xúc động. Vị tiến sĩ hai tay nâng bài văn tế, mắt lim dim, đầu lắc lư, giọng kéo dài ra đọc như hát. Mọi người đều rất chăm chú trước sự trình diễn tuyệt vời của ông ta, tất cả đều như nín thở lắng nghe. Khi đọc xong, hóa đốt tấm lụa trên ngọn nến, mọi người reo vang, tung hô: “Hoàng đế yêu dân như con, trừ hại cho dân, ơn như biển rộng, công để muôn đời. Trong triều ngoại nội một lòng, muôn dân ủng hộ, đức vua vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”.

Thủy Hoàng sung sướng tiến ra trước đài, nhìn khắp một lượt, giơ tay chào mọi người, tiếp nhận thần dân hoan hô và chúc mừng rồi nói:

- Trẫm mấy năm nay liên tiếp đi tuần du tìm hiểu dân tình, được chúng dân ủng hộ quý mến. Lần này đến Lang Nha, thấy thủy quái gây họa, liền đích thân thống lĩnh đoàn thuyền ra tay truy đuổi. Qua một trận huyết chiến, đã giết chết được giao long thủy quái. Từ nay hiểm họa đã diệt trừ, chúng dân có thể yên tâm ra biển làm ăn - Nói xong chỉ tay vào xác con giao long nằm trên bãi cát, lớn tiếng nói tiếp - Đây là con thủy quái trẫm đã trừ diệt cho thần dân, nó tuy có sức mạnh vô biên và cực kỳ hung hãn tàn bạo, nhưng vẫn thua dưới bàn tay trẫm, điều đó chứng tỏ trẫm là vô địch. Vì vậy, tất cả thần dân đều phải phục tùng đại Tần, phục tùng quả nhân mới được bình an vô sự bằng không sẽ tự chuốc lấy diệt vong. Đạo trị dân của trẫm là: Theo ta thì sống, chống ta thì chết!

Thủy Hoàng dứt lời, đưa ánh mắt chim ưng sắc nhọn nham hiểm nhìn khắp lượt, uy nghiêm trang trọng quay người rời đài cao, trở về hành cung cùng với Hồ Hợi và đám cận thần. Đang lúc Thủy Hoàng cởi áo long cổn, bỏ mũ bình thiên, chuẩn bị nghỉ ngơi, thì hoàng môn đã vào cấp báo.

- Tâu bệ hạ, có Từ Phúc xin cầu kiến.

Nghe lời tấu, tâm trạng Thủy Hoàng vừa mới thư thái được đôi chút đột nhiên căng thẳng, và chưa kịp bình tĩnh trở lại ông đã khoát tay nói:

- Cho vào!

Thủy Hoàng tới ngồi sau ngư án, đặt thanh gươm lên bàn, nghĩ bụng: Tên tà đạo cả gan nói xằng lừa dối chúa, ngươi lại dám trở về!

Được Triệu Cao dẫn đường, đạo sĩ Từ Phúc tay cầm bó hoa anh đào cung kính đi vào. Không để Thủy Hoàng kịp hỏi, Từ Phúc đã vội quỳ xuống, cúi lạy lia lịa:

- Thần Từ Phúc khấu kiến bệ hạ! Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Thủy Hoàng trừng mắt nhìn, nghiêm giọng hỏi:

- Từ Phúc, tên tà đạo này, lại dám trở về ư?

Từ Phúc cười ranh mãnh, đáp:

- Bệ hạ là thánh chúa của thần, đất này là cố quốc của thần, lòng luôn tưởng nhớ, thần sao lại không trở về?

Thuỷ Hoàng cười lạnh lùng:

- Trẫm thấy ngươi nhớ cố quốc là thật, nhớ quả nhân là giả.

Từ Phúc làm ra vẻ oan ức, nói:

- Thần có nghe, nước không thể một ngày không có vua, cho nên nhớ nước tất phải nhớ vua, huống hồ vi thần được bệ hạ giao trọng trách, ân sủng gấp bội, nên lòng nhớ vua hơn cả nhớ nước. Vậy mà bệ hạ lại cho thần là kẻ dối vua phản nước, khiến vi thần khó bề tâm phục.

Thủy Hoàng cười khẩy, vạch trần lời nói giả dối của Từ Phúc:

- Hay cho câu “nhớ vua còn hơn cả nhớ nước”, chỉ có điều từ ngày ngươi tuân mệnh trẫm dẫn ba nghìn đồng nam đồng nữ ra biển cầu tiên tìm thuốc đến nay, đã chín năm rồi đấy nhỉ? Trong thời gian ấy, ngươi đã nhiều lần trở về, lĩnh bao nhiêu tiền lương bổng ở nội thị và thiếu phủ, vậy mà không lần nào phụng chỉ quả nhân. Hôm nay lại lộng ngôn luôn nhớ quả nhân, há không phải trước mặt trẫm nói toàn những điều dối trá đó sao?

Thủy Hoàng nói thế, thực sự làm Từ Phúc không cãi nổi. Vì chín năm trước hiểu rõ và lựa theo tâm lý Thủy Hoàng, ông ta đã nói những ảo ảnh trên mặt biển là đảo tiên trên biển, ba hoa trời đất mô tả đảo tiên ấy cứ như có thật, lừa được Thủy Hoàng tín nhiệm, cho chỉ huy một đoàn thuyền quy mô to lớn chở ba nghìn đồng nam đồng nữ ra biển khơi tìm đảo tiên, tìm thuốc trường sinh bất tử cho Thủy Hoàng. Kỳ thực đi chưa được bao xa, vì gió to sóng lớn, đã lên một đảo hoang trên đường đi và ở lại đấy. Chừng nào lương thực, rau xanh, nước ngọt mang theo đã hết, lại trở về xin nội sử quản lý lương thực và thiếu phủ quản lý tài chính cung đình cấp phát thêm. Sau vài lần như vậy nội sử và thiếu phủ không kham nổi yêu sách của ông ta nữa, đòi Từ Phúc phải gặp Thủy Hoàng, nói rõ nguyên nhân. Nhưng Từ Phúc nghe phong thanh được mọi chuyện của Thủy Hoàng, đâu dám xuất đầu lộ diện, vội vã rời khỏi Hàm Dương, đưa cả gia quyến ra đảo hoang trên biển. Ai muốn “đưa mồi vào miệng cọp” tự mình tìm đến cái chết? Nào ngờ nội sử và thiếu phủ phải báo cáo sổ sách với Thủy Hoàng, một hai lần số lượng không lớn lắm, còn có thể gượng nhẹ lấp liếm cho qua, số lần nhiều lên, không thể giấu giếm Thủy Hoàng được nữa, đành phải tâu rõ sự thật. Thủy Hoàng biết rõ sự dối trá của Từ Phúc nên mới không hài lòng và muốn hỏi cho rõ ngọn ngành. Hơn nữa, việc tìm tiên xin thuốc chẳng có chút kết quả gì, ba nghìn đồng nam đồng nữ chẳng biết số phận ra sao, đều là những chuyện quan trọng Thủy Hoàng muốn Từ Phúc phải nói rõ nên vừa thấy Từ Phúc ông đã không kìm nổi cơn giận, bắt Từ Phúc phải trả lời hàng loạt những câu hỏi.

Từ Phúc vốn dĩ là đạo sĩ, dựa vào ba tấc lưỡi lang thang khắp nơi lừa thiên hạ để sinh sống, đương nhiên rất đỗi giảo hoạt, giỏi ứng biến. Chuyến này đến Hàm Dương là cốt để xin nội sử và thiếu phủ chu cấp lương tiền, nhưng cả hai phủ quan đều nói rất khó khăn, bắt ông ta phải đích thân xin Thủy Hoàng. Từ Phúc dọc đường dò la, bám theo hành trình của Thủy Hoàng, bảy hôm trước đã đến Lang Nha. Qua hỏi thăm thái thú Lang Nha, biết Thủy Hoàng nằm mơ giao chiến với hải thần, đã thống lĩnh một đoàn thuyền khổng lồ tiến lên phía bắc đánh giết hải thần. Từ Phúc dự định sẽ chờ trận đánh này kết thúc, sau đó sẽ căn cứ vào việc thắng bại để quyết định có gặp Thủy Hoàng hay không. Ba hôm trước khi ông ta đến Chi Phù, nghe tin đoàn thuyền của Thủy Hoàng đã diệt được con giao long ngay trên biển nơi đây, thì biết thời cơ cho mình đã đến. Ông ta lập tức hậu tạ chủ thuyền, tới bãi biển quan sát thật kỹ hình dạng con giao long. Khi đã nhớ thật kỹ, tính toán xong đường đi nước bước, Từ Phúc vào trọ ở một quán cơm nhỏ. Hôm nay ông ta cùng dân chúng tụ tập trên bãi biển tham dự buổi lễ chào mừng việc giết giao long. Đứng từ xa ngắm nhìn vẻ mặt vô cùng thỏa mãn của Thủy Hoàng trên đài cao, nhất là nghe mấy câu cuối cùng của nhà vua, biết giờ đây vua đang vui vẻ, chỉ cần giỏi ứng phó, chớ động vào chiếc vẩy ngược dưới cằm, thì sẽ vô cùng vẹn toàn và sẽ được toại nguyện.

Tính kế xong, Từ Phúc đến xin cầu kiến vào lúc Thủy Hoàng vui vẻ nhất sau lễ mừng công. Khi Thủy Hoàng vạch trần việc làm dối trá của mình, Từ Phúc khôn khéo lấp liếm. Ông ta quỳ mọp dưới đất, bò lên mấy bước, vẻ mặt khốn khổ tâu với Thủy Hoàng:

- Những điều bệ hạ xét hỏi vừa rồi đều là sự thực. Nhưng bần đạo mấy lần trở về không bái yết bệ hạ, là có nhiều điều khó giãi bày.

Thủy Hoàng vẫn bực bội quát mắng:

- Ngươi đến chỗ nội sử và thiếu phủ lĩnh lương tiền vàng ngọc, đòi hỏi rõ nhiều, liệu có điều gì khó nói không?

Từ Phúc hơi ngẩng đầu lên, làm ra bộ rất đáng thương, giọng phân bua:

- Có câu, được người ủy thác thì phải hết lòng, huống chi bần đạo được bệ hạ đích thân ban ngự chỉ, mang vàng bạc châu báu cùng ba nghìn đồng nam, đồng nữ ra biển tìm Bồng Lai tiên đảo tìm thuốc trường sinh bất lão cho bệ hạ. Đã mang thánh mệnh, thần đâu dám không hết lòng dốc sức, vượt mọi khó khăn, mong làm được việc, ngờ đâu lại phụ lòng trông đợi của thánh thượng...

- Vì sao ngươi đi đã chín năm ròng, quay về nhiều lần, tới nay vẫn hai bàn tay không? Lại còn dám vác mặt đến gặp quả nhân, vô liêm sỉ đến mức ấy là cùng! Ngươi có biết tội khi quân là phải chém đầu hay không? - Thủy Hoàng tỏ ra vô cùng giận dữ.

- Xin bệ hạ thấu cho, đoàn thuyền của bần đạo khi mới ra khơi thì gió yên sóng lặng, hành trình thuận lợi. Nhưng mười ngày sau thì gió mạnh dần, sóng ngày càng lớn, thuyền bị tung lên nhồi xuống tưởng như đắm đến nơi, bất đắc dĩ phải vào ngay đảo nhỏ gần đấy, tạm thời ở lại. Chúng thần dâng rượu thắp hương, làm văn tế cầu khấn, những mong gió yên sóng lặng để tiếp tục lên đường. - Từ Phúc thao thao bất tuyệt, kể lể chuyện xảy ra cứ y như thật, đôi lúc còn dùng tay để mô tả cảnh nguy hiểm hãi hùng.

- Khi nhà ngươi đi, trẫm đã ban ngự chỉ do chính tay trẫm viết dặn dò ngươi phải lập đàn cúng ngay ở đầu thuyền để trấn áp tà ma trên biển. Lẽ nào nhà ngươi lại quên? - Thủy Hoàng lần nào nói cũng nhấn mạnh uy danh của mình.

Từ Phúc cung kính chắp tay trả lời:

- Thánh chỉ bệ hạ ban cho, là sứ mạng của thần, là ý chỉ phải tuân theo, thần đâu dám quên. Chính nhờ thánh chỉ của bệ hạ mà chúng thần gặp phải tai họa đều hóa giải được nguy hiểm, bình yên vô sự.

Thủy Hoàng nghe nói thánh chỉ của mình có tác dụng như vậy thì bất giác mừng ra mặt, tỏ vẻ bớt giận, giọng quan tâm:

- Quả thật lúc đầu cũng không lường hết được mọi hiểm nguy, đâu có biết trên biển lại có lắm trở ngại gian nan đến thế.

- Bẩm nếu không chính mình trải qua cảnh ấy, làm sao hiểu nổi gian truân? - Từ Phúc thấy Thủy Hoàng có phần tin rồi, liền thừa thế huyễn hoặc thêm. - Bần đạo tắm gội trai giới, thành kính cầu đảo, hết bảy ngày mới thấy gió yên sóng lặng, thuyền nhổ neo tiếp tục đi, khoảng mười ngày đều mọi sự bình yên. Nào ngờ sau đó liên tiếp gặp thuyền của bọn cướp biển, chúng muốn cướp thuyền, vì ngôn ngữ bất đồng, thần giải thích mãi vẫn không có kết quả. Trong lúc nguy cấp, thần nhanh trí đưa thánh chỉ của bệ hạ và lá bùa của bần đạo ra. Bọn chúng tuy không biết chữ nhưng nhìn dấu ngọc tỷ biết là giấy tờ của đấng thế tôn nên không dám xâm phạm nữa, quay thuyền bỏ đi. Chúng thần đã được thoát chết nhờ thánh chỉ của bệ hạ.

- Ngôn ngữ bất đồng lại không biết chữ dứt khoát là bọn di địch nước ngoài rồi. Nhưng chúng làm sao biết dấu ngọc tỷ là giấy tờ của nhà nước được? - Thủy Hoàng tỏ ra không tin.

Từ Phúc vội giải thích:

- Bọn hải tặc đúng là dân man di, cho nên không thông hiểu ngôn ngữ. Duy nhất có một người trong bọn họ đưa ra một tờ giấy có dấu ngọc tỷ. Thần nhìn qua, thì ra là giấy cho phép ra vào cửa quan do bệ hạ ban cho An Kỳ Sinh ở Lang Nha. Thần giơ tay làm hiệu hỏi vì sao có được giấy tờ này, thấy hắn chỉ ra chỗ tiếp giáp giữa trời và biển, đó là nơi ở của các tiên nhân, nên hắn biết là bảo vật của nước đại Tần.

- Ra là vậy, ra là vậy! - Thủy Hoàng bất giác kinh ngạc kêu lên, miệng lẩm bẩm - Tên An Kỳ Sinh là người Lang Nha bán thuốc ở ven biển. Chín năm trước khi xây dựng đài Lang Nha, trẫm đã cho triệu kiến, chuyện trò hỏi han ba ngày, ban cho vàng bạc, lại cả giấy tờ để hắn tiện qua lại, nào ngờ đã ra biển và trở thành tiên rồi, thảo nào không thấy gặp lại! - Than thở xong, liền tự trách mình - Hắn là người phàm tục còn thoát xác thành tiên được, huống hồ trẫm là tiên chân nhân, cớ sao lại không có duyên tiên để đi theo con đường ấy được nhỉ?

Từ Phúc thấy Thủy Hoàng lộ rõ ý tha thiết muốn đắc đạo thành tiên, liền bịa ra tâu rằng:

- Bần đạo biết An Kỳ Sinh chưa thể thành tiên, còn tặng giấy cho người khác, tất đi chưa xa lắm. Tiếc rằng thực phẩm lương thực sắp cạn, thần không thể đi xa được, đành phải quay về Hàm Dương trình tâu với bệ hạ những gì đã thấy.

Thủy Hoàng lắc đầu cười nhạt bảo:

- Nhưng nội sử và thiếu phủ đều tâu với trẫm rằng họ đã từng hẹn ngươi cùng đến bệ kiến quả nhân, ngươi giả vờ đồng ý, nhưng đột nhiên bỏ trốn. Hôm nay lại dối trá lừa gạt, cho trẫm là người nhẹ dạ cả tin lắm sao?

- Bẩm sự thể khi đó cực kỳ nghiêm trọng đã khiến bần đạo sợ hãi lùi bước.

Từ Phúc hoảng hốt giãi bày nỗi khổ của mình:

- Đúng lúc ấy Thuần Vu Việt, Hầu Sinh mạo phạm thiên nhan, bệ hạ nổi giận đốt sách chôn học trò, bần đạo đâu có gan tày trời mà dám mạo muội bệ kiến để chuốc lấy cái chết. Đành giữ lấy tấm thân tàn, trốn về biển. Đấy là nỗi uẩn khuất khó bề tâu trình mà thần đã trốn tránh nhiều năm, kính mong bệ hạ minh xét!

Nghe Từ Phúc nói thế, Thủy Hoàng không nói gì nữa. Ông nhớ lại hình phạt nặng nề đốt sách chôn học trò năm nào, thật sự đã gây ra cho đám nho sinh và đạo sĩ tâm trạng nơm nớp hãi hùng, chỉ lo nguy khốn đến tính mạng, hèn nào ông ta không dám xuất đầu lộ diện gặp mình. Nghĩ tới đây, Thủy Hoàng không quở trách Từ Phúc nữa, giọng hòa nhã vui vẻ:

- Nói như thế thì không thể trách được, có điều không biết được hướng đi của An Kỳ Sinh thì thật là đáng tiếc.

- Bần đạo tuy biết chưa được bệ hạ tha thứ, nhưng đang khâm mệnh vua đâu dám quên, liền theo hướng thuyền dân man di đã chỉ tiếp tục đi mãi. Quả nhiên nửa tháng sau thấy xa xa lấp loáng có hình núi non, mờ mờ đèn sáng, chắc đó là bóng dáng đảo tiên, bần đạo nghĩ bụng phía trước chẳng còn bao xa nữa. - Từ Phúc càng miêu tả càng sinh động như thật, khiến Thủy Hoàng vô cùng thích thú.

- May mà nhà ngươi không bỏ lỡ dịp, đã phát hiện ra được điều đó - Thủy Hoàng khen Từ Phúc và vồn vã hỏi - Nhưng không biết có đúng là nơi các tiên An Kỳ Sinh, Tiễu Môn hoặc Cao Thệ đến không?

Những điều Từ Phúc trả lời đã không thỏa mãn được ước ao của Thủy Hoàng, càng khiến ông thấy đáng tiếc. Từ Phúc liền nói:

- Đúng lúc thuyền của bần đạo theo gió rẽ sóng tiến về phía bóng đảo và ánh đèn, bỗng thấy phía đầu thuyền không xa lắm, sóng rẽ đôi ra và xuất hiện một vị thần biển nói với bần đạo rằng: “Ngươi có phải là sứ giả của Tây Hoàng không?”. Bần đạo trả lời: “Đúng”. Thần biển lại hỏi: “Ngươi đến đây để cầu xin gì?” Bần đạo liền trả lời: “Tìm các tiên Tiễn Môn, Cao Thệ và xin thuốc sống lâu muôn tuổi”. Thần biển nghe xong quở mắng bần đạo là phàm phu tục tử, si mê hão huyền. Bần đạo liền đưa cho thần biển xem thánh chỉ của bệ hạ. Thần biển xem xong cười khẩy: “Tần vương chỉ là vua ở đất nước ông ta, còn vùng biển mênh mông của ta, quyền lực của ông ta làm sao tới được, thôi quay về đi!”

Thủy Hoàng nghe nói thần biển vô lễ khinh mạn như vậy, liền vội vã hỏi ngay:

- Hình dáng vị thần ấy ngươi còn nhớ không?

Từ Phúc liền mô tả đúng như hình dáng con giao long:

- Hình dạng của vị thần này giống cá, thân to lớn, dài tới hai ba trượng, to bằng chiếc thuyền chài, lông bờm rậm và cứng, che kín cả mặt trời, trán mũi hếch lên trời như Tam Sơn Ngũ Nhạc, đuôi quẫy nước làm sóng dâng cao mấy trượng, mồm mũi phun nước, tiếng vang như sấm dậy, khiến bần đạo sợ hãi hồn xiêu phách lạc!

Thủy Hoàng nghe tả thấy rất giống con giao long đã bị mình giết, liền phấn khởi nói:

- Thủy quái đó giống như con giao long trẫm đã giết chết, nhà ngươi gặp chắc là thần biển ấy đấy!

Từ Phúc lập tức tỏ vẻ vui mừng:

- Không ngờ bệ hạ cũng đã từng bị nó ngăn cản, nay dã đích thân diệt trừ, thì đốn Bổng Lai xin thuốc rất có hy vọng rồi. Đủ thấy bần đạo tới đây hôm nay là do ý trời sai khiến, phải một phen gắng sức nữa để tìm thuốc cho bệ hạ. Chuyến đi biển sắp tới này chắc chắn là sẽ làm tròn công việc, không phụ lòng trông cậy của bệ hạ.

Tới lúc này thì Thủy Hoàng không còn nghi ngờ gì, liền vui mừng bảo:

- Vậy thì hay lắm, nhưng không biết bóng đảo có ánh đèn mà ngươi trông thấy là đảo nào trên biển?

Từ Phúc hớn hở nói:

- Thần biển xem xong thánh chỉ liền nói với bần đạo: “Vua Tần đã thành tâm tìm tiên xin thuốc, thì phải dâng hậu lễ cho hải quốc ta đây, nay lễ mọn thế này, chỉ được xem thôi, không được lấy thuốc”. Nói xong, dẫn chúng thần đi về phía đông nam, tới núi Bồng Lai, xem cung điện Chi Thành, có sứ giả màu đồng mà thân rồng, tỏa sáng rực rỡ. Thần có hỏi: “Muốn lên đảo quý cầu được tiên phải dâng những gì?” Thần biển nói: “Đồng nam đồng nữ ba nghìn, thêm thợ làm bách nghệ là được rồi”. Thế là bần đạo đem theo lệnh của thần biển, cam liều tội chết, tới đây bệ kiến. Nếu thánh thượng tin thì chuẩn bị hậu lễ, thần nguyện vì bệ hạ, một lần nữa rong ruổi tới hải quốc, tìm đến đảo quý Bồng Lai, xin gặp các đại tiên Tiễu Môn, Cao Thệ, An Kỳ Sinh lấy tiên dược về cho bệ hạ. Việc thánh thượng thoát tục lên tiên, đi vào cõi trường sinh bất tử, e chẳng còn lâu nữa!

Nghe Từ Phúc mô tả thần biển coi giữ trên đảo Bồng Lai hình rồng sắc vàng, khớp với hình dáng Ngao Quảng mà mình đã mơ thấy ở vùng biển Lang Nha, Thủy Hoàng càng tin là thực. Lại nghĩ: Hải quốc có cương vực của họ, mình đến đó theo lý phải có cống phẩm mới đúng. Thảo nào cái đêm khuya khoắt ấy một mình xông vào vùng biển Lang Nha chẳng chú ý gì đến tập tục, không tôn trọng chủ quyền của họ, nên mới xảy ra trận ác chiến. Nay đối phương đã chủ động nêu ra việc dâng quà gặp mặt, đương nhiên là phải làm đúng như thế. Miễn là tìm được tiên, xin được thuốc trường sinh bất tử, thì cái giá phải bỏ ra dẫu lớn hơn nữa cũng không được tiếc. Nghĩ thế, Thủy Hoàng liền mỉm cười đứng lên đỡ Từ Phúc dậy và lệnh cho quan lại Chi Phù đóng thuyền, chuẩn bị đủ vật tư và người theo yêu cầu của Từ Phúc.

Từ Phúc là người lắm mưu mẹo và suy nghĩ sâu xa. Vốn dĩ chỉ muốn lấy lòng Thủy Hoàng đã hứa hẹn tìm tiên xin thuốc cho ông ta, mong kiếm được nhiều của cải để sống sung sướng. Nào ngờ Thủy Hoàng lại sốt sắng với việc này như vậy, không những lo đủ số người, mà còn lệnh cho các quan lại chuẩn bị lương thảo, vàng bạc đủ chi dùng. Nhưng Từ Phúc đã không thực hiện được lời hứa, đang rơi vào thế cưỡi hổ. Thêm nữa, cả một đoàn người đông như thế ở mãi ngoài đảo vắng, miệng ăn như núi lở, đâu phải là thượng sách. Cho nên lần này quay về, Từ Phúc chỉ muốn dựa vào ba tấc lưỡi, liều làm một chiêu cuối cùng. May thay, Thủy Hoàng vừa đánh thắng một trận hải chiến, giết chết được giao long, tạo cho ông ta một cơ hội tuyệt diệu. Sau một màn trình diễn ngẫu hứng tùy cơ ứng biến, Từ Phúc lại được Thủy Hoàng yêu thích và tin cậy. Từ Phúc mượn lời “thần biển”, đưa ra một kế hoạch quy mô với một chương trình đi biển dài ngày: đóng hơn năm mươi lâu thuyền để chở ông cùng mấy chục nho sinh và đạo sĩ, mấy trăm thợ bách nghệ như canh tác, y dược, gỗ đá, xây dựng, làm vườn, luyện kim, gò rèn..., ba nghìn đồng nam đồng nữ, tất cả vào khoảng bốn nghìn người, cùng với đầy đủ các loại nguyên liệu và công cụ, sách vở... Trong buổi đại lễ, Thủy Hoàng cùng các quần thần ra tận bãi biển tiễn đưa. Cận vệ cung đình và quân hổ bôn hát vang bài “Thơ tiên chân nhân”. Đoàn thuyền nhổ neo tiến ra biển Đông, từ đó không thấy trở về nữa. Sách “Hậu Hán Thư - Đông di liệt truyện” ghi lại rằng: “Tương truyền Tần Thủy Hoàng cử đạo sĩ Từ Phúc đưa đồng nam đồng nữ mấy nghìn người ra biển tìm thần tiên ở Bồng Lai không được. Từ Phúc sợ tội chết, không dám trở về, liền ở lại đó, đời đời kế tiếp, có tới mấy vạn gia đình. Thời đó, dân đã đến ở Cối Kê, người huyện Đông Trị Cối Kê nói đã có người ra biển gặp bão phiêu bạt tới Thiền Châu, nơi ấy xa lắm, không quay về được. “Thiền Châu” nơi đây chính là Nhật Bản. Trung Quốc từ triều nhà Hán bắt đầu thông thương với Nhật Bản, tới nhà Đường thì rất thịnh vượng. Kể từ đó đã bắt đầu nghiên cứu và khảo chứng tung tích đoàn thuyền do Từ Phúc dẫn đầu tại Nhật Bản. Các học giả Trung Quốc, Nhật Bản nhất trí cho rằng: Từ Phúc là người đầu tiên triển khai việc buôn bán trên biển và cũng là người đầu tiên xây đắp tình hữu nghị Trung Nhật, ông đưa văn hóa Trung Quốc tới Nhật Bản, cuối cùng định cư tại Nhật Bản. Hiện nay trong nhân dân Nhật Bản có rất nhiều người là con cháu của Từ Phúc và của ba nghìn đồng nam đồng nữ theo ông tới đây. Vùng Terai Sura ở huyện Saga và núi Bồng Lai ở huyện Utama (Nhật Bản) được coi là nơi Từ Phúc đổ bộ lên Nhật Bản. Bia mộ của Từ Phúc được dựng ở thành phố Sinôgu Nhật Bản. Do đó có thể thấy đích thực là Từ Phúc đã lập nghiệp ở Nhật Bản, và hậu duệ đã có nhiều đời ở đây. Vào tháng tám hàng năm tại Nhật Bản đều tổ chức “Lễ tế Từ Phúc” linh đình để tưởng nhớ con người đã có những đóng góp quan trọng vào việc truyền bá văn hóa Trung Quốc, xây đắp tình hữu nghị Trung Nhật, thúc đẩy sự phát triển phồn vinh của Nhật Bản”.

Lại nói, Thủy Hoàng tiễn Từ Phúc xong thì trở về hành cung, cùng con trai Hồ Hợi và mấy vị trọng thần bàn luận về kết quả chuyến tuần thú này. Ông cảm thấy đắc ý nhất là đã xét xử mười mấy vụ án ở Tiền Đường, qua đó biết được thói dâm dật, tục cho thuê vợ tại các quận Ngô Việt và Mân Trung để chế định các pháp quy có liên quan, cho soạn văn khắc bia để phổ cập pháp chế và tăng cường giáo hóa. Nhưng sai lầm là việc đào kiếm ở Hổ Khâu, phí công vô ích, lại sa vào vết xe đổ mò đỉnh ở Tứ Thủy năm nào. Xem ra, cả tin vào lời đồn đại và hành động thiếu suy nghĩ vẫn là điểm yếu của mình, lãng phí bao tâm cơ lại mất hết uy tín. Sau này phải hết sức sửa đổi, tránh tái phạm. Điều khiến ông hài lòng nhất là việc yểm vàng ở Kim Lăng đã trấn áp được khí thiên tử, xua tan được lời sấm truyền “Tổ long năm nay chết”, việc nằm mơ đánh nhau với thần biển ở Lang Nha, việc giết chết cá kình ở Chi Phù, đã thể hiện rõ uy lực của mình. Lại cả Từ Phúc chuyến này lại ra biển khơi. chắc chắn sẽ tới được Bồng Lai tiên đảo, gặp được các thượng tiên Tiễu Môn, Cao Thệ và An Kỳ Sinh, tìm được thuốc trường sinh bất tử. Tới lúc đó, ông sẽ thật sự từ biệt những người thân và cận thần đã ngày đêm bên nhau mấy chục năm, để tới cõi siêu phàm thoát tục, vĩnh cửu yên vui. Đêm ấy vua tôi Thủy Hoàng tham dự bữa tiệc linh đình do huyện lệnh Chi Phù tổ chức, thưởng thức các tiết mục ca múa tưng bừng rộn rã ca ngợi công đức của nhà vua, rồi vui vẻ ra về.

Mục đích chuyến tuần du đã hoàn thành, vì phải liên tục hành trình trên biển để tìm diệt kình ngư khiến Thủy Hoàng đã ở tuổi tri thiên mệnh thấy rất mệt mỏi. Theo lời can gián của quần thần, ông từ bỏ ý định tiếp tục du chơi trên biển, lên đường bộ để về. Nhưng vì vẫn lưu luyến với thắng lợi của trận hải chiến nên vào trước ngày từ giã Chi Phù về Hàm Dương, Thủy Hoàng đã tới bãi biển, phóng tầm mắt nhìn ra xa mường tượng lại khung cảnh hoành tráng đoàn thuyền đua nhau tiến lên quây đánh thần biển, tư thế dũng mãnh của mình đứng giữa đoàn quân chỉ huy tác chiến. Sau đó ông tới đứng trước bộ xương của con giao long. Ngư dân cho biết theo quy tắc đã thành thông lệ gần một vạn cân thịt cá đã được chia cho những người tham gia trận đánh này rồi. Mỡ cá rán được hàng nghìn cân, huyện lệnh Chi Phù đem dâng tất cả cho Thủy Hoàng và tâu rằng mỡ cá tinh khiết, nhiều chất sáp là thứ dầu thắp sáng tốt nhất. Thủy Hoàng vui vẻ nhận, dặn Triệu Cao đem về Hàm Dương chỉ sử dụng cho tẩm cung của mình, vì đây là chiến lợi phẩm giành được trong trận chiến ông đã đích thân chỉ huy. Ông nhìn bộ xương cá khổng lồ cao năm sáu thước, dài hai ba trượng, trong tay xoay xoay hai chiếc mắt cá to bằng nắm đấm, cười gằn nói: “Anh hùng một thời, mà nay chịu nằm đây?”. Đoạn đi thẳng tới lâu thuyền trong vịnh xem xét, kiểm tra tình hình sửa chữa những thuyền bị hư hỏng.

Rời khỏi lâu thuyền, Thủy Hoàng dọc theo bờ biển chậm rãi trở về, nhìn ánh chiều tà trên mặt biển, sóng lăn tăn ánh vàng rực rỡ. Xa xa khói sóng mịt mùng, chẳng khác gì cảnh tiên mờ ảo, bóng núi thấp thoáng lúc mờ lúc ảo, lơ thơ điểm chút ánh sao, giống hệt ánh đèn trên đảo. Thủy Hoàng bất giác mơ tưởng, chắc hẳn các đại tiên Tiễu Môn, Cao Thệ, An Kỳ Sinh trên đảo Bồng Lai lại đến vẫy gọi mình chăng? Ông rất muốn lại một mình ra biển như cái đêm ở Lang Nha. Nhưng lại nghĩ, đoàn thuyền Từ Phúc chắc chưa tới dược đảo, vị thần rồng sắc vàng chắc chưa nhận được lễ vật và đồng nam đồng nữ, còn mình thì lại giết chết kình ngư, nếu một mình mạo hiểm ra biển, nhỡ gặp phải hải thần, mà nơi đây đã là vùng biển phía bắc thuộc lãnh địa của Long Vương biển bắc Ngao Tín, và bị trả thù thì khó bề chống đỡ. Cho nên hy vọng duy nhất là Từ Phúc sớm đến được Bồng Lai tiên đảo bái yết các đại tiên, xin được thuốc trường sinh bất tử, thì mình được giải thoát khỏi những đe dọa luôn rình rập chung quanh, giải thoát khỏi công việc chính sự phiền hà phức tạp và tâm trạng căng thẳng nặng nề, giao mọi quyền lực cho con để sống nhẹ nhàng thanh thản, chẳng còn thắng bại được mất, chẳng còn vương vấn bận bịu gì nữa.

Thủy Hoàng đang mơ màng với những ảo tưởng xa xôi thì trời bỗng nổi gió, mây ùn ùn kéo tới, thời tiết đột ngột thay đổi, một trận mưa dông sầm sập đổ xuống. Bãi biển trống trơn, chẳng có chỗ tránh, cận vệ theo hầu vội cởi khôi giáp mặc cho Thủy Hoàng, cho xa giá phi như bay về hành cung. Nhưng vì mưa gió ập tới quá nhanh, ông vẫn bị ướt sũng. Thái y Hạ Vô Thả vội sắc thang thuốc liễu sài bồ để ông tăng nhiệt khu hàn. Thủy Hoàng uống thuốc xong trùm chăn kín nằm ngủ, tới nửa đêm tỉnh dậy vẫn cảm thấy lạnh, toàn thân run bần bật. Sợ bị ốm to lỡ ngày trở về Hàm Dương, Thủy Hoàng đưa tay cầm lấy nửa bình rượu còn lại để trên nóc giá sách đầu giường uống liền một hơi, hy vọng dùng rượu đẩy được cái lạnh ra ngoài. Rượu mạnh vào bụng quả nhiên cảm thấy người nóng hẳn lên, lát sau thì ngủ say sưa. Nào ngờ sáng sớm hôm sau, bệnh vẫn không lui, sốt rét tái phát, toàn thân run lên, răng nghiến chặt, mặt tái mét. Triệu Cao cấp tốc cho mời thái y đến. Hạ Vô Thả nhìn Thủy Hoàng, hỏi ngay nội thị hầu hạ đêm hôm ấy rằng bệ hạ uống thuốc rồi có ăn gì không? Nội thị trả lời sau khi thánh thượng ngủ, anh ta ngồi dựa vào kỷ án bên cạnh và cũng ngủ thiếp đi, mãi tới sáng mới tỉnh dậy, trong thời gian ấy không thấy có động tĩnh gì, cũng không cho thánh thượng ăn gì cả. Hạ Vô Thả kiểm tra các nơi đầu giường, thấy bình rượu đã hết, thì biết thánh thượng đã uống rượu mạnh, khiến bệnh có thể không phát ra nhưng lại nặng hơn. Đã hai tháng nay Thủy Hoàng liên tục tuần du trên sông biển, phong hàn xâm nhập vào gân cốt và tạng phủ, tích uất đã lâu, lại thêm trận săn đuổi hải thần phải đi ngược chiều gió tới khi bắt giết giao long, nước biển trào vào trong thuyền khiến toàn thân ướt đẫm, mầm bệnh trong người càng tăng. Cũng may thắng lợi của trận hải chiến khiến Thủy Hoàng luôn ở trong trạng thái hưng phấn, thân nhiệt tăng lên, khí lạnh trong người lắng xuống, không bột phát được. Đêm qua bị thấm nước mưa, lạnh ngoài lạnh trong kết hợp khiến toàn thân lạnh giá, cho uống thang liễu sài hồ cốt để tăng nhiệt khu hàn, giải bệnh không để đột phát. Nào ngờ thánh thượng muốn chóng lành bệnh đã uống rượu mạnh. Tuy nhất thời người có nóng lên, rượu có thể làm ấm dạ dày, thúc đẩy lưu thông khí huyết làm tăng thân nhiệt. Song khi hết hơi rượu, nhiệt lại giảm, không thể nào xua tan phong hàn tích uất đã lâu, và xuất hiện chứng hàn tích ở trong, xâm hại thể xác tinh thần, mạch hư khí đoản, muốn nhanh chẳng được mà kết quả lại trái ngược.

Thấy vậy, Hồ Hợi và các cận thần cuống quýt cả lên, xin thái y mau chóng cho uống thuốc để thánh thượng sớm khỏe lại. Hạ Vô Thả bảo nơi ở hiện giờ là bãi biển, khí hậu thay đổi thất thường, nhà vua lại bị cảm phong hàn, thì khó bề chữa nổi. Vì vậy bèn một mặt cho Thủy Hoàng uống thuốc ôn thể khu hàn, một mặt dùng sâm để nâng cao nguyên khí, sinh tân đề thần. Khi bệnh tình đã thuyên giảm lập tức động xe khởi giá rời Chi Phù, lên đường theo hướng Tây về Hàm Dương.

Thủy Hoàng vốn tính tình hiếu thắng, xưa nay làm gì cũng tập trung tinh thần, quên ăn quên ngủ. Vì sức lực tập trung cao độ, thường ngày có một số bệnh tật cũng cảm thấy không đau đớn lắm, hoặc gượng vượt qua, ốm tới mức nào đó mới để thái y Hạ Vô Thả bốc thuốc. Bệnh thông thường thì chẳng có gì đáng ngại, nhưng với những bệnh mãn tính nguy hiểm nếu kéo dài, một khi đã nặng lên thì không thể chữa nổi. Thủy Hoàng do nhiều năm làm việc hăng say thiếu điều độ, lâu dần sinh bệnh tật, cộng thêm tính nóng nảy hay cáu giận làm tổn thương gan, lại chẳng thèm để ý lời khuyên can của thái y, vẫn cứ nổi giận điên khùng để vùng gan thường đau đớn. Và mỗi khi như vậy nhà vua lại không chịu an tâm tĩnh dưỡng, uống thuốc theo lời thái y, mà lại có thái độ dối mình, dối người, trái lời thầy thuốc, không chịu chừa bệnh. ông thường uống rượu ngà ngà say để quên đau đớn. Thậm chí bắt thái y Hạ Vô Thả cho uống thuốc kích dục hồi xuân để đến cung A Phòng hành lạc, xua tan cảm giác đau ốm. Làm như vậy tuy tạm thời quên được bệnh tật nhưng hiểm họa ngày càng lớn hơn, trầm trọng hơn và một khi vượt quá giới hạn, bột phát ra thì không thể cứu vãn được nữa.

Cảm phong hàn đột ngột lần này, chỉ cần làm theo lời dặn dò của thái y, dùng thang thuốc lý trung bổ khí tăng nhiệt khu hàn, chữa trị từ từ bệnh sẽ lui dần. Nhưng ông lại muốn dùng độ mạnh của rượu để mau chóng khỏi bệnh, kết quả ngược hẳn lại, không những không trị được phong hàn, lại làm bột phát bệnh gan đã ấp ủ từ lâu, khiến ông không tài nào chống đỡ nổi. Mấy hôm đầu, do cảm mạo nên sốt rét sốt nóng cứ luôn thay nhau hành hạ, các chứng khác bị át đi, lại thêm ý chí kiên cường nên ông không cảm thấy có gì khó chịu. Thấy sốt đã thuyên giảm, ông yên tâm hơn chỉ nằm nhắm mắt dưỡng thần, những tưởng chờ cho nguyên khí hồi phục sẽ nhanh chóng khỏi bệnh. Nào ngờ lần này khác hẳn với những lần trước. Những năm gần đây ông bị kích thích quá nhiều, quá nặng nề, tâm trạng căng thẳng kéo dài khiến các nội tạng trong cơ thể mất cân bằng, sức đề kháng với bệnh tật giảm sút nhanh, thế là từ cảm nặng chuyển sang bột phát bệnh gan. Mấy hôm đầu, ông cố gắng nghiến răng nén đau, nhưng về sau đau càng dữ dội hơn, mấy lần ngất xỉu. Thái y Hạ Vô Thả vẫn tận tâm cứu chữa, nhưng biết là bệnh tình đã nguy kịch, điềm báo trước “Năm nay Tổ long sẽ chết” đã bắt đầu linh nghiệm rồi.