← Quay lại trang sách

Chương 14

Đến khoảng giữa ngày hôm sau thì tôi lại bắt gặp một trang trại khác. Lúc còn cách sân trước khoảng vài chục mét thì tôi thấy một bên cửa sổ mở ra và nòng khẩu súng trường thò ra từ bên trong. Tôi quyết định không nên cố thử làm gì.

Sau đó tôi tránh xa tất cả các trang trại khác trên đường và chỉ nhằm đường cái mà đi.

Chiều hôm đó, trời bắt đầu mưa. Trời càng lúc càng lạnh, một hiện tượng khá bất thường của thời tiết đầu tháng 9. Tôi dừng lại và lấy áo mưa ra khỏi balô. Cùng với mưa, mật độ sấm chớp cũng ngày một dày hơn. Tiếng sấm chưa lúc nào ngừng hẳn, vẫn đì đùng nổ phía đằng sau. Và giờ nó quay trở lại với cường độ dữ dội hơn rất nhiều. Có điều sau cái đêm kinh hoàng trốn trong bồn tắm nhà chú Joe và chú Darren, giờ đến tiếng sấm to nhất cũng chỉ như tiếng muỗi đối với tôi.

Điểm cộng duy nhất của cơn bão là nó giúp tôi trượt dễ dàng hơn về phía trước. Di chuyển bằng ván trượt trên tro ướt dễ hơn nhiều trên tro khô. Nhưng điều kinh khủng là nước mưa lạnh ngắt bắn ướt sũng ống quần tôi và ngấm vào bên trong qua đường mũ áo mưa. Mặc dù vận động cật lực như vậy nhưng chẳng bao lâu tôi bắt đầu run rẩy. Cứ dầm mưa kiểu này sớm muộn gì tôi cũng sẽ bị cảm lạnh, viêm phổi, hoặc thậm chí còn tệ hơn.

Sau khoảng một tiếng lang thang tìm chỗ trú, tôi nhìn thấy một chiếc ô tô đang bị vùi sâu dưới lớp tro bụi. Tôi tự hỏi không hiểu điều gì đã khiến cho chiếc xe bị bỏ lại giữa đường thế này, khi mà xung quanh chẳng hề có bóng ngôi nhà nào. Phải chăng tài xế định chạy khỏi thị trấn nhưng chỉ đi được đến đây thì tắc lại? Hay là xe bị hết xăng? Mà quan trọng hơn, có khi nào chủ xe vẫn đang ở bên trong?

Tôi lau lớp tro trên cửa kính bên ghế phụ và cố thử nhìn vào trong. Nhưng trời quá tối nên tôi chẳng thấy được gì. Tôi kéo tay nắm cửa. Cửa xe không khóa nhưng chỉ mở ké được khoảng 5 phân do bị tro chặn bên ngoài. Do vẫn không nhìn được vào bên trong nên tôi quyết định ngửi. Trong xe không có mùi gì đặc biệt ngoài mùi hôi của lưu huỳnh và mùi thiu của khoai tây chiên để lâu ngày.

Phải mất một lúc tôi mới gạt được tro ra để mở cửa xe. Vừa đào tôi vừa cầu nguyện để không gặp phải xác chết nào nữa như lần ở Cedar Falls.

Lời cầu nguyện của tôi đã thành hiện thực. Trong xe trống trơn, không có ai, ngoài bóng tối và một cảm giác khá an toàn. Tôi cởi quần áo ướt ra và phơi lên ghế trước, hy vọng chúng kịp khô trong đêm. Trời quá lạnh để chỉ mặc mỗi cái quần đùi đi ngủ, vì thế tôi đành mở ba-lô lấy bộ quần áo mới giặt đêm hôm qua. Nó vẫn chưa khô hẳn và hơi dinh dính, nhưng so với bộ tôi vừa cởi ra thì đúng là thiên đường.

Mặc dù đã mặc thêm quần áo vào rồi nhưng tôi vẫn thấy lạnh, phải lấy thêm tấm vải dầu trong túi ra đắp. Cũng ấm lên được một chút. Tôi tự hỏi không hiểu mình sẽ ra sao nếu phải ngủ ngoài trời đêm nay, và thầm cảm ơn người đã bỏ lại chiếc xe này. Một lát sau, tôi ngủ thiếp đi.

***

Trời vẫn tiếp tục mưa bão vào ngày hôm sau. Tôi gói ghém tấm vải dầu và bộ quần áo ẩm trên ghế trước cho vào balô rồi mặc áo mưa chui ra khỏi xe. Tro bụi không còn rơi dày đặc như mọi khi nhưng bù lại trận mưa bão vẫn khiến cho bầu trời tối mịt.

Tôi đã có một ngày cực khổ ì ạch trên con đường lầy lội tro bụi. Đất ở đây cũng gập ghềnh hơn các chỗ khác. Trượt xuống thì thích, nhiều khi còn chẳng phải làm gì, cứ để cho ván trượt tự trôi, nhưng lên dốc thì đúng là cực hình. Ở những đoạn sườn thoải tôi chỉ cần bỏ thêm một chút sức để đẩy ván trượt là được. Nhưng có những đoạn tôi phải đi với hai mũi ván xoạc ra thành hình chữ V một cách khổ sở hoặc giữ cho ván song song với sườn đồi và lết từng bước lên chậm chạp.

Tối hôm đó tôi gặp khó khăn trong việc tìm chỗ ngủ. Mặc dù đã đi qua không ít trang trại nhưng sau chuyện xảy ra ngày hôm qua, tôi luôn bị ám ánh có ai đó đằng sau cửa sổ đang chĩa súng về phía mình. Khi tôi bắt đầu lo lắng có thể sẽ phải ngủ ngoài trời gió lạnh thì đột nhiên nhìn thấy một hàng cây thông đổ ven đường to và cao chừng 6-9m, chứ không bé xíu như mấy cây thông Noel vẫn hay dùng để trang trí ở nhà. Các cành cây, dưới sức nặng của tro bụi, nếu không gãy rời thì cũng bị đổ rạp xuống đường. Một số cây vẫn đứng thẳng nhưng trơ trọi cành lá, giống như những chiếc cột cờ cô độc không thuộc về bất kỳ quốc gia nào.

Tôi chọn một cái cây lớn đã bị gãy 1/5 thân trên và bò vào khoảng trống bên dưới đó. Thân cây vẫn dính với gốc cây tại nơi bị gãy, tạo thành một cái hầm trú ẩn tự nhiên, với tán cây và lớp tro bụi dày cộp làm mái. Mùi nhựa thông xộc vào mũi làm át đi cả mùi hôi của lưu huỳnh.

Tôi cố gắng hạn chế cử động để không làm tro bụi bay lung tung. Với balô làm gối, tấm vải dầu làm chăn, chiếc giường đêm nay của tôi còn tuyệt vời hơn cả đêm qua. Tôi tự hỏi không biết mình nên cảm ơn ai về cái hầm trú ẩn này? Tôi thiếp đi trong lúc đang nhẩm tính về độ dài đoạn đường mình đã đi qua và còn bao xa nữa mới đến được Warren và gặp lại gia đình.

***

Ngày hôm sau, ngày thứ năm trên đường của tôi, bắt đầu khá suôn sẻ. Tôi đi được vài tiếng thì cơn bão bắt đầu yếu đi, mưa cũng dần tạnh và sấm chớp gần như biến mất. Thỉnh thoảng có vài tiếng sấm dội lại từ đằng xa nhưng không có gì đặc biệt. Tro bụi cũng thưa thớt hơn. Trời vẫn tối và mù mịt, nhưng theo kiểu chạng vạng hơn là lúc nửa đêm. Nói chung mọi chuyển biến đều theo chiều hướng tốt hơn và tinh thần tôi cũng nhờ vậy mà hứng khởi hẳn lên.

Nhưng rồi tôi rơi tõm trở lại hiện thực khi nghĩ đến tình trạng lương thực của mình. Khẩu phần ăn cuối cùng đã dành cho trưa nay, với một hộp thịt lợn hầm đậu lạnh ngắt hiệu Van Camp. Nhờ mấy chai nước ông Elroy tặng thêm mà tôi vẫn còn đủ nước cho thêm một ngày nữa, thậm chí là hai nếu tôi biết tiết kiệm.

Cuối chiều hôm đó, tôi đã đến được ngã tư giao cắt giữa quốc lộ 20 và quốc lộ 13. Gần đó là một trạm xăng, tôi vẫn nhận ra tấm biển quen thuộc ấy. Hồi em gái tôi còn bé, cả nhà tôi vẫn thường dừng lại ở đây mỗi lần đến Warren. Lần nào đi chơi, cứ lên xe được khoảng 30 phút là con bé lại đòi dừng xe để đi tiểu, chính xác như một cái máy. Ngay lập tức, tinh thần tôi xẹp xuống như quả bóng bị xì hơi: Tôi mài mặt trên đường suốt 6 ngày trời nay và mới chỉ đi được ¼ quãng đường đến Warren. Điều an ủi duy nhất là tôi đã đi đúng đường và ra được tới quốc lộ 20.

Cái mái che bằng kim loại bị xoắn vặn và hất tung xuống đất, nằm chỏng chơ như cánh của một chiếc máy bay rơi. Tôi ngửi thấy mùi ga lúc tôi trượt qua hai cái vòi bơm bị thổi rơi ra khỏi máy.

Bản thân trạm xăng cũng không còn hình dạng ban đầu. Ngoài bức tường gạch không nung ở phía sau vẫn còn nguyên, toàn bộ trạm xăng giờ chỉ còn là một mớ hổ lốn sắt thép, kính và nhựa xanh. Tôi định tìm đồ ăn trong tiệm tạp hóa phía trước trạm xăng, nhưng bị quá nhiều tro và gạch vữa chắn ngang.

Tôi đi vòng ra đằng sau. Nơi bức tường gạch đang đứng sừng sững, tạo thành một không gian hình tam giác với đầu còn lại của xà nhà. Tôi bò vào bên trong, nhưng không có đủ ánh sáng để nhìn, vì thế lại bò ra ngoài lấy diêm và nến trong balô.

Tôi đã tiêu tốn mất một nửa cây nến và ít nhất một tiếng để bò qua đống đổ nát. Kết quả thu hoạch được bốn cái kẹo trái cây Starburst và một nắm kẹo Skittles. Trông chúng nổi bật trên nền tro xám. Chỗ kẹo ít ỏi này thậm chí chẳng đủ cho một bữa ăn. Tiệm tạp hóa ở các trạm xăng lúc nào cũng đầy ắp đồ ăn, vậy mà ở đây tôi chỉ tìm được vài viên kẹo. Tôi đoán người ta đã lấy đi hết những gì có thể lấy trước khi nơi này bị sập.

Tôi chùi mấy viên Skittle vào áo cho sạch bụi rồi cho tọt hết vào miệng, cùng với chiếc Starburst. Trước giờ mẹ luôn cấm anh em tôi không được ăn kẹo trước bữa ăn vì sợ chúng tôi sẽ bỏ bữa. Giờ tôi cũng chỉ mong có một bữa ăn để bỏ. Hay một người mẹ để cấm đoán.

Sau bữa tối ít ỏi của mình, tôi kéo balô vào cạnh bức tường gạch và nằm co ro trong đống đổ nát.

Sáng hôm sau, tôi bị âm thanh của tiếng cửa kính vỡ làm cho tỉnh giấc.