← Quay lại trang sách

Không có liệt sĩ nào là vô danh

Nhân ngày 27 tháng Bẩy, ở quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, người ta đã mở một phòng tranh gọi là phòng tranh Nhân đạo. Các họa sĩ tham gia phòng tranh để thực thi từ thiện. Họ sẽ dùng số tiền bán tranh góp vào quỹ ủng hộ các gia đình thương binh và liệt sĩ. Mục đích tốt đẹp đã rõ, tranh xấu, tranh đẹp không bàn, vấn đề muốn nói là cái danh nhân đạo và từ thiện.

Đối với những người chiến sĩ đã vì nước quên thân, người ta bày tỏ lòng tôn kính và biết ơn, chứ người ta không dụng công để thể hiện sự nhân đạo, người ta không làm từ thiện. Xưa kia, trong chiến tranh đã chịu đựng muôn ngàn gian khổ, sẵn sàng đổ máu hy sinh mà không vì mưu cầu một lợi ích cá nhân nào, ngày nay người chiến sĩ và thân nhân của mình càng không cầu ở ai một điều gì, kể cả những cử chỉ và lời nói phô bày lòng nhân đạo.

Nghĩ đến anh em thương binh và gia đình các liệt sĩ, làm tất cả những gì có thể được để đỡ phần khó khăn cho những con người cao quý ấy, là nghĩa vụ làm người của bạn. Chứ bạn tưởng sao, bạn tưởng mình không can dự gì tới những đau thương và mất mát trong chiến tranh ư? Dù bạn là ai, thuộc tầng lớp nào, xét cho đến cùng, tất cả những gì bạn có hiện nay, kể cả cuộc đời của bạn cũng đều mọc lên từ đất đai thấm máu những Anh hùng. Cho nên việc giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ là tự lương tâm, tự đáy lòng, hãy làm hết sức mình với lòng biết ơn thầm lặng chứ đừng có kêu to lên. Có nói ra, có xướng lên cũng phải dùng từ ngữ cho đúng đắn.

Lời ăn tiếng nói là sự rất trọng trong đời sống văn hóa. Ngôn từ không cẩn trọng thì dẫu là người tốt, việc tốt cũng lắm khi chẳng có ý nghĩa gì. Cho nên trong những công việc liên quan tới ngày 27 tháng Bẩy thì những từ ngữ kiểu phô trương như là “Nhà tình thương”, hay “Tinh thần Đền ơn đáp nghĩa”, đều có vẻ là những từ ngữ không ổn.

Hai chữ “vô danh” ghi trên bia mộ của vô vàn liệt sĩ cũng vậy. Trong đài báo người ta hay thuận miệng nói “Liệt sĩ vô danh”. Đừng nói các liệt sĩ, mà bất kỳ ai sinh ra rồi mất đi trên đời này cũng đều có tên tuổi. Cho nên không có liệt sĩ nào vô danh.

Ở Mặt trận B3, ngay từ sau Hiệp định Paris, các đơn vị đã tiến hành công việc tìm kiếm hài cốt anh em đồng đội nằm trong rừng rậm, trên núi đồi dọc các ngả đường chiến tranh để tập trung về nghĩa trang Đắc Tô. Khi anh em ngã xuống, được chôn cất, trong lọ Pênêxilin chôn theo có ghi ít nhất là tên, phiên hiệu đơn vị và ngày hy sinh, vị trí mộ được đánh dấu trên sơ đồ. Nhưng do những năm dài chiến tranh ác liệt, địa hình địa vật không ngừng bị xáo trộn, đơn vị thì tan ra hợp lại hoặc hành quân chuyển vùng, sơ đồ mộ chí bị bom đạn thiêu hủy hoặc thất lạc, nên không phải nấm mồ nào cũng còn và cũng được tìm thấy, không phải hài cốt liệt sĩ nào cũng được định danh. Ấy là chưa kể còn biết bao nhiêu đồng chí dã hy sinh đơn độc giữa rừng già, trong hang sâu, trong khe núi. Tìm thấy một chiếc võng mắc chìm giữa ngàn cây rậm rịt, trên đó một bộ hài cốt, nhưng giấy tờ hoặc không có hoặc đã hoàn toàn mục nét, chỉ biết là lính mình chứ chẳng thể biết được là ai, đơn vị nào. Nhưng hồi đó, khi thu nhặt xương thịt những anh em ấy về nghĩa trang sư đoàn chôn cất, chúng tôi không khắc lên bia mộ hai chữ “vô danh” mà khắc “khuyết danh” hoặc “chưa định danh”.

Bây giờ người ta nói vậy: “vô danh”. Sao có thể là vô danh được. Tên tuổi của các anh sống mãi cùng gia đình, họ mạc, trong lòng bà con xóm làng, phường phố. Tại nơi bàn giấy chính quyền thì danh tính các anh chí ít cũng còn trong danh sách tuyển quân của thời đó.

Dù sẽ có người cho là từ này từ nọ thì có gì quan trọng, chúng tôi vẫn đề nghị không dùng cụm từ “Liệt sĩ vô danh” ở bất kỳ đâu. Liệt sĩ khuyết danh, hàm một nghĩa sâu nặng với hương hồn anh em đồng đội. Còn một nấm mồ liệt sĩ chưa định danh là còn một trách nhiệm cho người còn sống. Có thể là trách nhiệm mãi mãi đeo đẳng chúng ta, một nỗi đau không bao giờ nguôi.

Văn Nghệ Trẻ, số 34, 2000, ký tên Bảo Ninh