← Quay lại trang sách

Lễ duyệt binh đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ

Năm 1963 ấy Quốc khánh thật tưng bừng. Tin vui của Cách mạng miền Nam và những thành quả đạt được sau nửa chặng đường thực hiện “Kế hoạch Năm năm lần thứ nhất” khiến lòng người nô nức. Mức sống của nhân dân Hà Nội được nâng lên, không giàu sang dư thừa, nhưng tươm tất, ổn định và công bình, không kẻ quá giàu, người quá nghèo, bước đầu tạo dựng được

một đời sống mới, một nếp sống mới tốt lành. Sau mười năm hòa bình xây dựng, gương mặt thành phố cũng nhiều đổi thay. Nhiều công trình mới đã mọc lên, gồm không ít những công trình văn hóa và giáo dục: hàng loạt trường phổ thông và trường đại học, nhà hát, rạp chiếu bóng, các câu lạc bộ lớn dành cho thanh thiếu niên và người lao động, các vườn hoa, công viên, các tụ điểm vui chơi giải trí. Hà Nội năm 63 nhỏ hơn ngày nay nhiều nhưng là một đô thị văn hóa, một thành phố mơ mộng, rợp bóng cây xanh và thật nhiều hồ nước, phố xá đông vui mà vẫn yên ả, sạch sẽ, ngay ngắn, đời sống trẻ trung, rạo rực sinh lực và căng tràn sức phát triển mà không nhốn nháo xô bồ. Một thành phố xinh đẹp mà không màu mè, hiền hòa mà đầy kiêu hãnh. Một thành phố đáng trọng.

Tôi không biết là có nhiều người đồng một cách nhìn như vậy về Hà Nội năm xưa hay không, tôi không biết tôi có bị ám bởi cái nhìn viễn thị, trông xa về quá khứ thấy gì cũng đẹp hay không, nhưng tôi biết chắc mười năm giữa hai cuộc kháng chiến là quãng thời gian tươi sáng nhất của không chỉ riêng cuộc đời tôi.

Những năm đó lễ lạt chẳng nhiều, nhưng ngày lễ nào cũng thật sự là ngày hội của toàn dân. Mọi người nô nức một niềm vui chung. Vào mùa thu năm 1963 ấy, chế độ Dân chủ Cộng hòa chưa đầy tuổi đôi mươi, trẻ trung, ngời rạng, tự hào với chặng đường đã qua, tự tin và đầy lạc quan nhìn rộng và nhìn xa về chân trời phía trước. Trong hầu hết các gia đình, ngày Mồng Hai Tháng Chín mang ý nghĩa sâu nặng, thấm thía và thân thiết. Ngày Quốc khánh được gọi trong dân gian là ngày Tết Độc lập. Đối với mọi người, nhất là thanh thiếu niên, lớp trẻ sinh ra và lớn lên cùng chế độ mới, niềm vui Tết Độc lập còn dào dạt hơn cả niềm vui Tết Nguyên đán.

Hà Nội đông đúc hẳn lên từ cuối tháng Tám. Người ngoại thành và người các tỉnh khác ở miền Bắc nườm nượp về Thủ đô vui Tết. Thời ấy Hà Nội chẳng nhan nhản khách sạn như bây giờ, nhà trọ cũng rất ít, nhưng bì lại tịnh không một bóng lưu manh côn đồ (có thì cũng bị công an hốt sạch từ cả tháng trước), thành thử bà con ở nông thôn ra vui Tết mà không có người thân ở Hà Nội thì cứ thoải mái trải chiếu mắc võng qua đêm tại mọi nơi mọi chỗ có thể trong nội thành, không sợ bị trộm cắp, bị trấn lột, cũng chẳng lo mưa thu ướt át. Mặc dù là tiết thu, nhưng tuần đầu tháng Chín, trời Hà Nội không bao giờ đổ mưa.

Bà con ta tụ hội về Hà Nội chủ yếu là để được hưởng hai niềm vui cốt yếu của ngày Quốc khánh: xem bắn pháo hoa và xem duyệt binh. Xung quanh Bờ Hồ và dọc các đại lộ Điện Biên Phủ, Nguyễn Thái Học, Tràng Thi, từ rạng sáng ngày mồng Hai vỉa hè đã kín người chờ đón bộ đội sẽ trẩy qua vào trước buổi trưa.

Quảng trường Ba Đình hồi đó chưa trải thảm cỏ và chưa rộng lớn như ngày nay, nhưng vào Quốc khánh và ngày Quốc tế Lao động cũng tổ chức được những cuộc mít tinh khổng lồ tập trung hàng vạn quần chúng. Nhà Quốc hội vừa xây xong vào năm 62, nằm ở bờ đông Quảng trường. Lễ đài Ba Đình nhìn hướng về phía mặt trời mọc với kiến trúc mang phần nào dáng dấp lễ đài Lăng Bác bây giờ, nhưng nhỏ và thấp hơn. Khối quần chúng diễu hành tập trung ở mạn nam, còn bộ đội duyệt binh xếp đội hình ở mạn bắc Quảng trường, đường Hoàng Văn Thụ, đường Nguyễn Cảnh Chân, đường Phan Đình Phùng và đoạn bắc đường Hùng Vương.

Trước tám giờ, Bác Hồ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hội đồng Chính phủ bước lên lễ đài trong tiếng reo chào mừng vang dậy của quần chúng. Lễ chào cờ mở đầu ngày đại lễ. Năm xưa ấy, chưa có vô tuyến truyền hình, radio trong các gia đình cũng còn ít lắm, tất cả những nghi lễ trọng đại tại Quảng trường Ba Đình lập tức được vang truyền khắp đất nước bởi hệ thống loa phóng thanh và còn hơn thế, bởi tình cảm của nhân dân, muôn người như một. Tôi nhớ rằng, lúc đó, khi đội quân nhạc cử Quốc thiều, hầu hết mọi hoạt động trong thành phố dừng lại hết. Ngàn vạn người cùng một lúc giữ thái độ nghiêm trang. Tiếng hát Quốc ca bột phát nhưng đồng đều, vang lên trong thành phố. Tôi không nhớ được là về sau này còn có một lúc nào đó được nghe Tiến Quân Ca cất lên đồng thanh và vang dậy trong một tinh thần trang trọng mà đầy cảm xúc đến như vậy của cả triệu con người.

Không được tận mắt thấy, nhưng được Đài phát thanh tường thuật một cách cặn kẽ mà hùng hồn, cả thành phố gần như lặng phắc đi trong những nghi thức uy nghiêm của quân đội. Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra nhật lệnh. Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, chỉ huy cuộc duyệt binh báo cáo và xin chỉ thị Tổng tư lệnh. Trên chiếc xe mui trần chầm chậm lăn bánh, Tướng quân Võ Nguyên Giáp thị duyệt và chào mừng quân sĩ. “Chúc Đại tướng khỏe!” ngàn quân hô vang, như sóng xô, rung chuyển không gian thành phố.

Chín giờ, quân ta bắt đầu hành tiến qua Quảng trường, cao chân, rập bước, lê trần sáng quắc, nhất loạt đánh mặt sang phải, hướng nhìn lên Bác. Đội Quân nhạc cử “Tiến bước dưới quân kỳ, “Chiến thắng Phủ Thông” và “Giải phóng Thủ đô”. Trùng trùng quân đi như sóng, ngang qua lễ đài theo chiều của non sông, Bắc đổ về Nam.

Dẫn đầu là xe danh dự rước Quân kỳ Quyết Chiến Quyết Thắng của toàn quân. Tiếp đến là khối các trường sĩ quan lục quân, công binh, phòng không, hải quân, pháo binh, biên phòng, rồi tới lớp đạo quân các sư đoàn bộ binh. Khối dân quân tự vệ. Các trường thiếu sinh quân. Rồi các đoàn cơ giới kéo đại pháo. Hồi đó bộ đội xe tăng, tên lửa và không quân chưa hiện diện trong lễ duyệt binh.

Lần lượt từng khối quân ngang qua lễ đài, và lịch sử trưởng thành trong chiến đấu của từng đơn vị lần lượt được điểm lại, vang truyền khắp đất nước. Bấy giờ cuộc chiến tổng lực chống Mỹ chưa bắt đầu, nhưng trên quân kỳ các đơn vị cũng đã lấp lánh bao nhiêu là Huân chương của vinh quang chín năm trường kháng Pháp. Những binh đoàn đã ghi danh vào sử sách và trong lòng dân, những tên tuổi của lòng tự hào dân tộc: Sư đoàn Quân Tiên Phong, Sư đoàn Đồng Bằng, Sư đoàn Sao Vàng, Trường sĩ quan Trần Quốc Tuấn, Trung đoàn Thủ Đô v.v...

Qua hết Quảng trường Ba Đình, bộ đội duyệt binh dọc theo hai trục lộ Điện Biên Phủ và Nguyễn Thái Học, nhập lại ở Tràng Thi, tiến ra Hồ Gươm. Dọc những ngả phố ấy, giao thông trên lòng đường được dẹp quang từ sáng sớm, nhưng toàn thành phố đã dồn hết về, ken kín hai bên vỉa hè và trên ban công, cửa sổ của gác hai gác ba tất cả những ngôi nhà. Bọn trẻ bám đầy trên các vòm cổng và bờ tường, có đứa tót cả lên cột đèn và lên cả các cây long não dọc phố Nguyễn Thái Học. Bộ đội rầm rầm trẩy qua, bước đều trong tiếng reo mừng và hoan hô vang dậy. Cả phố, cả thành phố rợp cờ hoa, bừng bừng trong khúc quân hành đặc biệt hùng tráng và tươi sáng của bộ đội ta: Vừng đông đã hửng sáng, núi non xanh trùng xa, Tổ quốc bao la hiền hòa...

Cuộc duyệt binh năm 1963 không chỉ biểu dương sức mạnh vũ trang, còn hơn thế nhiều, đó là sự thể hiện ý chí chiến đấu của toàn quân toàn dân, muôn người như một. Cuộc duyệt binh ấy gần như là cuộc duyệt binh bước vào chiến tranh, thẳng ra mặt trận. Hầu hết các chiến sĩ trong đội duyệt binh ngày hôm ấy rồi sẽ chuyển từ quân phục đại lễ sang bộ đồ Tô Châu Quân Giải phóng, một bộ tăng võng, một chiếc ba lô, đôi dép đúc, khẩu AK, vượt ngàn dặm Trường Sơn, vào trận. Những khẩu 85 ly nòng dài, 122 ly nòng ngắn với vành bánh sơn trắng kia sẽ ngày một ngày hai phủ rợp ngụy trang và sẽ thật sự cất tiếng gầm mở màn cho liên tiếp những mùa khô tấn công. Những khẩu 37 ly mảnh khảnh kia, ngay từ mồng 5 tháng Tám năm sau sẽ đối đầu sống mái với không lực Mỹ. Bầu trời Hà Nội chan hòa nắng thu ngày Quốc khánh tưng bừng rồi sẽ vang dậy tiếng còi báo động chiến đấu, sẽ cuồn cuộn khói bom, sẽ rực sáng những luồng lửa đạn cao xạ và hỏa tiễn.

Và chúng tôi, đám trẻ con đang lố nhố trên bờ tường, trên cột điện hoan hỉ hò reo đến khản cổ sẽ đứa thì năm sau đứa thì vài ba năm nữa rời bỏ bút nghiên dấn thân vào cuộc thử lửa lớn lao đang kề tới ở chân trời. Năm 63 ấy, cha mẹ chúng tôi chắc cũng ít ai ngờ rằng chúng tôi sẽ là hậu đội của đoàn quân đang rầm rập tiến bước kia. Lớp đàn anh sẽ tiến lên và sẽ ngã xuống, mở đường cho thế hệ chúng tôi ào ạt xung phong vào mở cửa Sài Gòn.

Sẽ chẳng bao giờ chúng tôi quên hình ảnh Anh hùng Liệt sĩ Vương Văn Chài, người đại đội trưởng chủ công tuyệt vời quả cảm của trận cường tập Ngọc Rinh Rua, người chiến sĩ dân tộc Tày từng có mặt trong đội hình duyệt binh năm 63 của Sư đoàn 305. Giữa lưới đạn đại liên chống trả dày đặc của kẻ thù, Vương Văn Chài nhảy lên miệng chiến hào, giương cao Quân kỳ của trung đoàn, mãnh liệt thét vang:

- Anh em! Vì Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội! Xung phong...

Người người lớp lớp tiến bước dưới Quân kỳ, chúng ta không chỉ là một đạo quân bách chiến bách thắng, chúng ta còn là một sự nghiệp lớn lao, một sự đồng lòng vĩ đại.

Văn Nghệ Trẻ số 36, 2000, ký tên Bảo Ninh