Nơi lắng hồn núi sông
Chưa kể hơn ngàn năm trước đó nữa, từ đầu thế kỷ XI tới cuối thế kỷ XVIII, là kinh đô của sáu triều đại Lý - Trần - Hồ - Lê - Mạc - Trịnh, trên đất Thăng Long đã từng mọc lên biết bao đền đài cung điện vương phủ, vậy mà nay hầu hết chỉ còn lại những áng văn và trong sử sách. Có ai mà không tiếc. Song ngẫm ra lại thấy sự mai một các hình bóng của kinh thành xưa không phải là nông nỗi để hậu thế phải than tiếc.
Kinh thành ngói tan gạch nát, đấy là sự mất mát hy sinh mà cha ông ta đã nhiều lần can đảm chấp nhận. Trong lịch sử ngàn năm của mình, Thăng Long thà bị san bằng chứ chưa một lần mở cổng thành hạ giáo đầu hàng quân ngoại xâm.
Ngoài địch họa, sự mai một các công trình của quá khứ còn do thời gian và khí hậu. Và như vậy, có thể nói, đó là do cha ông chúng ta trọng lẽ khiêm nhường, làm gì cũng thuận theo sự vừa phải, hợp với đạo lý và với bản tính dân tộc Việt.
Ngày nay thì có phần khó hình dung, nhưng cách đây chỉ chừng trên dưới hai chục năm, bằng vào vang bóng của những kiến trúc ngày xưa, bằng vào hình thế đất đai, sông hồ, tên phố, tên làng, nhất là bằng vào lối nghĩ và nếp sống của người bình dân Hà Nội, người ta có thể mường tượng ra như là ngay trước mắt vẻ đẹp trang nhã và hiền hòa, sự sầm uất và tươi vui, nét trầm lắng và hồn hậu, thuần phong mỹ tục của kinh thành Thăng Long - Đông Đô. Những năm 60 - 70 ấy, cảm giác về sự thay đổi đến độ “bãi bể nương dâu” giữa Hà Nội và Thăng Long chưa thật nặng như là bây giờ cảm thấy. Điều này là rất lạ, bởi vì thật ra Hà Nội những năm đó đại để đã như là Hà Nội thời nay rồi, trong lòng thành phố cũng đã chẳng còn bao nhiêu dấu tích đích thực là của Thăng Long lưu lại nữa.
Tâm trạng nhớ tiếc Hà Nội thuở những thập niên trước khi phát triển kinh tế thị trường có thể là do nỗi hoài cảm lãng mạn của văn chương thi phú. Các nhà văn nhà thơ và cả những nhà báo nữa thường có xu hướng xem mọi nông nỗi sự đời không vừa mắt có nguyên nhân từ kinh tế thị trường. Và không thể nào tránh được, tâm lý hoài cảm cái cũ cũng thường khiến người ta lên tiếng chê bai, gán những điều không hợp ý mình cho lớp trẻ thời mở cửa. Xét bề ngoài thì cũng có lý. Vào thời mà những người đứng tuổi ngày nay còn trẻ, đời sống Hà Nội khá phẳng lặng, ít cảnh nhốn nháo xô bồ, làm ăn ồ ạt chen vai huých cánh, không khí ít ô nhiễm, từ mặt tiền nhà cửa tới trang phục của thanh niên ít tạp hơn bây giờ. Người ta dễ có định kiến cho rằng do sức cuốn của thương trường mà nam thanh nữ tú ngày nay có chiều hướng ngả theo lối sống kém thanh cao so với cha anh mình.
Song, kinh tế thị trường không là thủ phạm. Ngoài những cái hại mà đã thừa nhận đồng tiền thì loài người cũng phải đồng thời chấp nhận và chịu đựng, kinh tế thị trường mang lại nhiều lợi ích hiển nhiên cho Hà Nội. Cứ nhớ lại quang cảnh thành phố và đời sống nhân dân những năm ngay trước Đổi Mới thì thấy ra thôi. Kinh tế quá yếu kém nên đời sống văn hóa cũng sa sút. Nghèo khổ, buồn chán, rời rạc. Nhà cửa đường phố nhem nhuốc, con người phờ phạc, luộm thuộm. Hà Nội sau mười lăm năm Đổi Mới vui và đẹp lên rất nhiều. Đời sống vật chất và tinh thần cao hơn hẳn xưa. Thanh niên nam nữ đẹp đẽ sáng láng, khỏe khoắn giỏi giang.
Nhưng mà người Hà Nội, nhất là đã luống tuổi và đặc biệt là văn nghệ sĩ, một mặt có tiếng là phóng khoáng và cởi mở, lại cũng đồng thời là hiện thân cho sự kỹ tính, hay ne nét, hay phán bảo, rất khó chiều. Kiểu sống thời bao cấp thì bảo là bình quân chủ nghĩa, chia đếu nhau cái khổ, lối sống hiện thời lại bảo phân biệt giàu nghèo, đồng tiền đổi trắng thay đen. Nhà cửa chật chội chung đụng không chịu nổi, được phân căn hộ khép kín lại than kín cổng cao tường mất hết tình làng nghĩa xóm. Ngày xưa hết lời yêu cầu dẹp bỏ tàu điện, nay thì kêu rằng một phần của Hà Nội thế kỷ XX đã bị phũ phàng thủ tiêu đi cùng với cái đường ray và tiếng leng keng yêu dấu. Xưa ca cẩm đời sống văn hóa của thanh niên quá khô khan bởi các tài năng ca nhạc bị khuôn trong tập thể các đoàn, không có cách gì cất lên nếu không qua phòng bá âm của đài phát thanh, nay thì giận dữ vì quá nhiều tụ điểm ca nhạc, ca sĩ hạng nào cũng được quyền biểu diễn. Họ lớn tiếng đòi hỏi Nhà nước phải quy chế quy chuẩn, lập hội đồng thẩm đinh, để ca sĩ này xét quyền ca hát của ca sĩ kia. Đại khái cũng giống giới văn sĩ. Ngày trước rất bực vì phải xếp hàng rồng rắn bản thảo ở nhà xuất bản, vậy mà bây giờ cũng rất bực vì nỗi in ấn dễ dàng.
Mải mê chỉ trích thiên hạ lắm khi người ta sa vào khối lùng nhùng của sự mâu thuẫn mà không kịp giật mình. Lên lớp người khác những nỗi mà chính mình cũng đầy rẫy. Các cụ gọi là trách người không nghĩ đến thân. Anh nào cũng xe máy phóng tít mù mà khiển trách thành phố quá ô nhiễm, giao thông quá ách tắc. Biệt thự nhà mình ở thân đê hẳn hoi vẫn lớn lối chê trách thành phố làm đê bê tông xóa mất vẻ xanh mướt chân quê của đôi bờ sông Hồng...
Tuy nhiên mối lo âu về sự không cân đối giữa quá trình phát triển kinh tế và xây dựng đô thị với việc gìn giữ bản sắc truyền thống của Hà Nội, là mối lo âu khá phổ biến trong tâm trạng nhân dân Thủ đô. Có vẻ như là một sự cả lo. Bởi vì cho đến nay, sau 15 năm Đổi Mới, mặc dù đã có nhiều đổi thay, về cơ bản thì Hà Nội vẫn giữ được dung mạo của mình. Đã khá phát triển và đã nhiều nét hiện đại hóa, nhưng Hà Nội vẫn còn là Hà Nội. Hà Nội nhiều vẻ thơ mộng, vẫn còn tương đối sạch sẽ, ít ô nhiễm. Nhưng thực ra còn giữ được như thế là nhờ Hà Nội có Trung ương Đảng và Chính phủ, mà như bà con ta nói là gần mặt trời, với lại do dân trí cao công luận mạnh, nên không dễ ai muốn làm gì thì làm, muốn đập phá muốn xây thế nào tùy hứng. Những mối họa, những lỗi văn hóa trong sự phát triển thành phố ít nhất là cũng không thể bộc lộ ngang nhiên. Tuy vậy vẫn tồn tại và vẫn bộc lộ, khiến lòng người không thể không lo âu.
Mối lo ấy không chỉ do phải chứng kiến những vụ phá phách văn hóa truyền thống (trong thực tế những vụ việc như thế chưa nhiều), mà chủ yếu là do tính chất của những vụ việc ấy.
Vụ phá đền Cẩu Nhi để xây Restaurant Trúc Bạch chẳng hạn, xảy ra đã từ lâu lắm rồi, nhưng không nghĩ đến thì thôi, nghĩ đến lại thấy ghê gai cả người. Sự dốt nát và tham lam đến thế cũng là kinh dị rồi, nhưng đáng sợ hơn hết là cái ngông nghênh cái tự phụ của kẻ đập đền. Vạch ra một kế hoạch thế là ký xoạt một cái và lập tức ra tay, không thèm mảy may đắn đo nghĩ ngợi tới lịch sử, tới ông bà tổ tiên, tới trời cao đất dày, cảnh quan thành phố, dư luận nhân dân.
Cũng do cái lối tự phụ dương dương tự đắc coi mình là nhất ấy mà có ông kiến trúc sư xây Nhà Cá mập, có những ông ký duyệt dự án Thủy cung Thăng Long. Ghê nhất là đã từng có ông còn vạch dự án phá bỏ Tháp Rùa để xây cao lâu. May mà công luận đã kịp can ngăn. Nhưng thói tự phụ không mất, những ý tưởng của lòng háo danh vẫn sẵn lắm, nhỡ có cái thứ nào đó kiểu ấy mà lọt lưới công luận, mà Nhà nước không kịp ngăn thì sao?
Mà những ý tưởng đáng sợ như thế thường rất khó can ngăn. Không phải chỉ vì ông nảy ý tưởng là nhà này nhà nọ, bằng cấp ngất ngưởng, mà còn vì những
ý tưởng ấy luôn luôn có vẻ là tân tiến, là khai sáng, là vì mục đích làm tốt đẹp cho thành phố. Mà dân tình thì mấy ai đủ cỡ để có thể mong góp ý với những con người tài ba ấy.
Chính dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long nên được các ban ngành Hà Nội coi là dịp để đánh giá những gì tốt và chưa tốt trong công tác gìn giữ truyền thống văn hiến của miền đất thiêng liêng này.
Chẳng hạn khi Bộ Quốc phòng quyết định mở lại đường Nguyễn Tri Phương và bàn giao Cửa Bắc cho Ủy ban, tuy cũng mừng song bà con nhiều người họ bảo rằng, để Thành cho các chú bộ đội giữ thì dân sự không được ngó vào nhưng mà còn Thành, sang tay các ông gì ông gì xi vin kia thì sẽ thành gì chả biết.
Giờ đây cắt băng khánh thành rồi, ai dám bảo gì nữa. Có điều Cửa Bắc thời bộ đội quản tuy cũ kỹ rêu phong nhưng mới là thành Cửa Bắc. Còn cái Cửa Bắc mới này có vẻ không phải là Cửa Bắc... Nói như bà cụ hàng nước bên dãy số chẵn phố Phan Đình Phùng thì “cái mới này y tựa một ông cao niên răng giả trắng lóa tóc nhuộm đen nhức”. Thiết tưởng bà cụ chẳng chút quá lời.
Rời Cửa Bắc, ngang sang Văn Miếu, người dễ tính cảm thấy hài lòng hơn. Khu Thái Học bao năm điêu tàn hoang phế nay được cất mới, to đẹp đàng hoàng thế, thật đáng mừng. Có lẽ Thành phố đã rất ưu tiên cho công trình này. Bây giờ ở Hà Nội không có nhiều di tích trực tiếp với buổi đầu nhà Lý như là khu Văn Miếu này. Tiền của rất nhiều, công quỹ của Thành phố, quỹ quyên góp của nhân dân các miền trong nước, sự bảo trợ của Tổng Công ty Dầu khí. Kiến trúc sư hạng nhất, thợ hạng nhất trong nước. Có điều, xin nhắc lại, người Hà Nội vừa dễ dãi vừa rất kỹ tính. Cho nên có thể vừa tấm tắc khen kiến trúc sư nhưng vẫn vì lẽ này lẽ khác mà thắc mắc. Các cụ ta xưa dù nghèo nhưng với nơi thiêng liêng gốc rễ về tư tưởng về đạo lý nước nhà, nơi mà dù oai quyền tới đâu gần ngang qua cũng phải “hạ mã”, không lẽ không thể chắt chiu tiền của để xây cất một Văn Miếu to tát như là bây giờ các ông kiến trúc xây dựng. Nhưng Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ ban đầu xây dựng và qua nhiều lần trùng tu về cơ bản vẫn giản dị, vẫn cốt cách thanh tao, vẫn thuần Việt là vì sao. Vì sao các bậc tài năng nhà Trần không tìm cách thể hiện sự trên tài so với nhà Lý, vì sao thời Lê không xây trùm lên nhà Trần?
Câu trả lời thì người Hà Nội ai mà không biết. Bởi nơi đây “lắng hồn núi sông ngàn năm”. Dù bạn giỏi giang, tài trí, giàu sang tới cỡ nào, cũng xin hãy cư xử khiêm tốn và nương nhẹ với tổ tiên, với non nước quê nhà, thành phố quê hương.
Văn Nghệ Trẻ số 42, 2000, ký tên Nhật Giang