← Quay lại trang sách

Mục đích đúng đắn, động cơ lành mạnh

Người bạn của tôi dạy học ở Bắc Kinh đã nhiều năm, đưa gia đình về nước nghỉ hè. Anh nói với tôi là hai đứa con anh, đứa tiểu học đứa trung học, chỉ vui được mấy bữa đầu, sau thì cứ dài dài buồn bã. Bạn bè và anh chị em họ hàng cùng tuổi với chúng ở Hà Nội dẫu cũng đang nghỉ hè nhưng chẳng hề được ngơi cái đầu. Vẫn phải gạo, thậm chí còn gớm hơn cả lúc chưa bế giảng. Trong cái nóng bức kinh hồn, thầy bà chạy xô mô mồ hôi mồ kê mặt mày đờ đẫn, học trò phờ phạc. Liên miên như vậy từ mẫu giáo đến hết đợt thi cuối cùng vào đại học, ốm o cằn cỗi của con người ta mất cả một đoạn mười mấy năm đầu đời tươi đẹp nhất. “Ở mình có những chuyện thật kỳ nhưng lâu dần đã hóa bùn, thành sự đương nhiên”, bạn tôi bảo.

Ở mình đúng là có những sự đời tuy rằng dễ hiểu mà kỳ tình rất khó hiểu. Ngoài những sự lạ thường đã nhàm nhan nhản trong giáo dục còn có vô khối thí dụ từ thường nhật. Chẳng hạn, không nói đâu xa, tôi và bạn, dân thành thị, làm công ăn lương, không buôn to bán lớn, không ông nọ bà kia, thì tiền để tậu một cái bình bịch không thôi cũng đào đâu ra, chứ đừng nói một căn hộ hay thậm chí một ngôi nhà. Vậy mà coi, ở Hà Nội những năm qua, nhà riêng mọc lên như nấm sau mưa, như sóng xô bờ, hết dần vỉa hè, hết dần ao hồ, hết dần đất trồng rau, trồng hoa. Và khi dòm vào tiện nghi với nội thất nhà bạn, người ta phải ngạc nhiên tự hỏi: Sao bảo nước mình còn nghèo? Huỵch toẹt ra thì tôi và bạn, chúng ta, những viên chức lặt vặt nơi thị thành, đa phần cạo giấy với chạy dịch vụ hoặc nỉ non viết lách này nọ, so với người nông dân thử hỏi chúng ta đã góp được bao nhiêu công sức cho sự đổi thay đất nước những năm qua? Cố nhiên, chẳng ai lại bận tâm tự thắc mắc như vậy, có chăng chỉ những năm đầu mới bước vào kinh tế thị trường, bây giờ quen rồi.

Nhìn trên tivi thấy cảnh đường phố Bắc Kinh, ở Hà Nội không ít người bảo, đông đảo người đạp xe và chen xe buýt như vậy chứng tỏ đời sống của họ không bằng chúng ta, những người một bước là phi xe máy. Có lẽ, cứ lăn theo cái cung cách so sánh tự hợm ấy, chúng ta sẽ thấy chúng ta nhất, nhất là dân Hà Nội, đang đứng nhất về học vấn. Đứng nhất, không phải chỉ về khối lượng tiến sĩ mà chủ yếu là về khối lượng kiến thức khổng lồ và dày đặc mà thanh thiếu niên Hà Nội được hưởng trong giờ học chính cộng với hàng vạn giờ thêm nếm.

Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ. Học để mai rày cống hiến cho đất nước. Học để ấm vào thân. Những lẽ đó xưa giờ ai cũng hiểu. Song tự hiểu không đủ để giải đáp nổi những thắc mắc giản đơn về sự học hành của trẻ em nước ta. Chẳng hạn, tại sao nhiều nước trên thế giới lại không cho con em họ sớm được hưởng núi non chữ nghĩa đồ sộ ngang bằng với trẻ em các cấp phổ thông ở ta? Quốc gia của họ có vì thế mà kém phát triển so với nước ta không? Không cần qua Lào, qua Trung Quốc, Mỹ với Nga gì, coi lũ trẻ ở trường Quốc tế Hà Nội học hành thì thấy thôi. Ra là Bộ Giáo dục các nước đó không muốn trẻ em nước mình giỏi giang vinh hiển? Phụ huynh của bọn trẻ không thích chúng được ấm vào thân?

Nhớ lại trước đây, có thể nhớ lại thật xa, những năm kháng chiến, chồng chất khó khăn gian khổ, người ta thấy rằng, một trong những vinh quang và thành công nổi bật của đất nước chính là nền giáo dục phổ thông. Tại sao như vậy nhỉ? Như hồi kháng Pháp, phổ thông của ta có chín năm thôi, vậy mà lớp học sinh thời ấy lại hết sức có tài, về sau làm rạng danh đất nước trên nhiều lĩnh vực. Ngày nay ở ta giới khoa học đông đảo, bằng cấp cao ngất, du học bốn phương, thông thái, hiện đại hết sức, song tầm cỡ chắc chắn chưa ai ngang được với những tên tuổi như Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Vũ Tuyên Hoàng v.v... Đấy là nói ở đỉnh cao của học vấn, còn ở mức phổ thông thì những năm gian nan ấy đất nước đã có được một lớp thanh niên thật sự giỏi giang, được đào tạo rất tốt để đảm đương những trách nhiệm lớn lao trong sản xuất và chiến đấu.

Nếu chỉ bằng vào lòng can đảm không thôi thì chắc là chúng ta phải mất nhiều thập niên nữa mới có thể toàn thắng được siêu cường Mỹ. Bộ đội ta, càng về sau, như tôi thấy, càng đông học trò cấp ba. Họ rất thông minh và quá giỏi. Không phải là những học sinh lớp 10 hạng nhất sao có thể tài trí linh hoạt, một chọi hai mươi, tốc chiến tốc thắng như bộ binh Quân Giải phóng, sao có thể là những kế toán và trinh sát pháo binh đáng sợ đến như vậy đối với quân thù, sao có thể là các trắc thủ tên lửa sử dụng Sam 2 vốn không thể hạ được B52 mà làm nên Điện Biên Phủ trên không?

Mà điều kiện sống và học tập của họ khi còn ngồi trên ghế nhà trường thì nếu không trải qua không thể hình dung nổi là khó khăn và đơn sơ đến nhường nào. Tuy nhiên học trò thời ấy không có gì là thông tuệ hay chăm chỉ hơn trò thời nay. Các thầy cô nước Việt thì thời nào cũng thế, dù hoàn cảnh có thế nào, cũng là những người mà về cơ bản là tốt nhất, giỏi nhất, có lương tâm và trung hậu nhất.

Khác nhau chỉ là ở quan niệm về sự đào tạo con người. Chữ nghĩa là để khai sáng con người. Một thanh niên cần phải học để trở thành người có văn hóa, và hơn thế, thành một người tốt và có ích cho mọi người. Vì vậy học không phải là để làm giàu, ấm thân phì gia, chăm chỉ gắng gỏi trau dồi kiến thức không phải là để mài sắc vũ khí cạnh tranh với đời để hy vọng mai sau hơn người, ăn trên ngồi trốc người ta. Và ngoài kiến thức sách vở, quan trọng hơn kiến thức sách vở, người học trò còn có xung quanh mình đời sống rộng lớn và muôn màu của đất nước và quê nhà, đầy khó khăn song cũng chứa chan niềm vui tuổi trẻ, cần phải hòa hết mình vào để thật sự thành người. Thời chúng tôi, lẽ học tập và lẽ sống đó được gọi là “mục đích và động cơ học tập đúng đắn”.

Thiết tưởng, các quan chức và các nhà chiến lược, các nhà soạn thảo của ngành giáo dục hiện giờ hầu hết cũng từ lớp học trò thuở đó, vì thế họ chưa thể quên thời đó dạy và học thế nào, chưa thể quên “mục đích và động cơ học tập đúng đắn lành mạnh”.

Văn Nghệ Trẻ, số 51, 2000, ký tên Nhật Giang