Thế kỷ của sự đồng lòng
Ngày nay, trước mắt những người còn trẻ, thế giới trải ra hết sức thông thường, sự đời vô sự dửng dưng diễn ra, thản nhiên, nhưng với những người luống tuổi thì ngược lại, mỗi ngày là mỗi mới lại.
Với người, độ cao của tòa Tháp Hà Nội có đáng là bao, nhưng với tôi là chót vót. Trước đã đôi lần leo lên đó rồi, đã thấy ngợp, song đều vào ban ngày nên không quá ngợp như là bữa ở trên đấy vào buổi tối. Đứng bên tôi, cùng nhìn ra xa, những đồng hương Hà thành còn trẻ chẳng thấy có cái gì đáng chú ý ở bên ngoài mặt kính dày của tòa nhà, nhưng mà tôi thì tôi nhìn thấy một Hà Nội chưa từng thấy, một Hà Nội chưa từng có bao giờ, bừng sáng lên, rực rỡ như là một bầu trời sao nữa dưới bầu trời đêm. Nếu không từng như tôi chứng kiến những cảnh tương phản từ quá khứ, sẽ dễ cho rằng cảm nghĩ ấy của tôi là phóng đại, bởi vì, quả vậy, mới mẻ và lạ lùng cái gì đâu biển cả ánh đèn đô thị.
Năm 1986, vào một tối mùa hạ, tôi có dịp lên lầu thượng Khách sạn Thủ đô, hồi bấy giờ là đỉnh cao nhất của Hà Nội. Bốn bề cũng trời đất bao la thế này nhưng tối om. Trừ những điểm trọng yếu, gần như là toàn bộ thành phố bị mất điện, ẩn hết vào bóng tối, rồi đến lượt cả cái tòa khách sạn cao tầng mà tôi đang trên đó đèn đóm cũng tắt ngóm. Từ trên tầm cao vút nhìn xuống miền mất ánh sáng rộng mênh mông, cảm giác nặng hơn rất nhiều so với đứng dưới đường. Giờ đây, mỗi khi nhớ về những năm khắc nghiệt và gian khổ vô bờ của thập niên 80, tôi luôn mường tượng lại cảnh tượng thành phố tối hôm đó nhìn từ trên cao. Không thể tin nổi là ngày ấy với bây giờ chỉ 15 năm trôi qua.
Giờ đây, nghĩ về thế hệ cha anh và thế hệ của mình, ngoài những hồi tưởng bi hùng thời trận mạc, tôi luôn nhớ về đoạn đời sau chiến tranh với bao nhiêu là thương cảm và cảm phục. Đó là một thời kỳ lịch sử hết sức anh dũng của dân tộc, một thời kỳ mà người Việt Nam thể hiện lòng can đảm và nghị lực lớn lao không thua gì trong kháng chiến, cũng là thời kỳ nhiều nỗi khổ tâm. Nhất là vào giai đoạn đầu và đặc biệt với thế hệ cha tôi. Tôi không bao giờ quên được cái buổi tinh mơ tháng hai lạnh giá năm nào cả Thủ đô lặng đi nghe đài loan tin cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, không thể nào tin nổi đã bùng nổ. Tôi cũng không sao quên nỗi đau lòng hằn trên gương mặt các bậc cha chú của mình vào cái ngày mà thế giới này hay tin Liên bang Xô-viết đã tan rã. Với thế hệ cha tôi, sóng gió thời hậu chiến có thể coi là thử thách cuối cùng mà sau vô vàn thử thách và bi kịch đã dấn thân vào trong hầu suốt thế kỷ XX đầy giông tố, lại đã một lần nữa phải chịu đựng và vượt qua, để trực tiếp làm ra Đổi Mới, làm ra ngày hôm nay.
Ngày nay, chúng ta không chỉ đang hưởng những thành quả do công sức nhiều chục năm chiến đấu và xây dựng, mà còn nhận được từ cha anh mình những kinh nghiệm xương máu về lẽ đời và lẽ sống, những bài học xương máu về định hướng đường đi cho cuộc đời. Nhờ những lao tâm khổ tứ, những thương đau tinh thần, sóng gió nội tâm, nhờ tinh thần thủy chung, ý chí kiên định nhưng lại đầy lòng quả cảm tự cải biến của thế hệ trước, thể hiện trực tiếp và đặc biệt rõ trong thời kỳ đổi mới, mà ngày hôm nay chúng ta có được một lý trí tỉnh táo và một cái nhìn sáng suốt hơn bao giờ hết.
Đánh giặc và làm lụng, gìn giữ và đổi mới, tôi tự hỏi liệu có thể coi đây như là một trong những công thức thâu tóm thời đại vinh quang hơn nửa thế kỷ qua của Tổ quốc mà cuộc đời tôi đã may mắn được từng trải?
■
Từ giữa những năm 90, nhiều mặt của đời sống xã hội đã được nâng cấp, nhất là ở thành thị và rõ rệt là ở Hà Nội, rời xa cảnh đời chật vật và nghèo túng thuở trước để làm quen với sự phong lưu. Phép màu của các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã thành chuyện thông thường thể hiện qua sự phổ cập vào mọi nhà của các tiện nghi vật chất tuy là đã hiện đại nhất mà vẫn không ngừng được thay mới theo mốt tiêu dùng thời thượng. Từ những gia đình chục người chen nhau chục thước vuông, bây giờ ở Hà Nội chí ít cũng phải vài ngàn gia đình chỉ dăm ba nhân khẩu mà sở hữu cả một "tiểu lâu đài" ba tầng lầu, nội thất sang trọng, của cải ngồn ngộn.
Cơm no áo ấm là chuyện xưa quá rồi, ngay cả ăn ngon mặc đẹp cũng đã là chuyện vặt đối với vô số thanh niên Hà Nội. Chưa bao giờ phố xá Hà Nội nườm nượp nam thanh nữ tú như ngày nay. Sức khỏe tốt, hình thể đẹp, ăn vận sang, dư giả tiền bạc, ngày nay con cái các gia đình trung lưu còn được rộng đường vui chơi thụ hưởng mọi phương tiện và hình thức giải trí ở đời. Cũng chưa bao giờ thanh niên được đối xử một cách trọng thị và dịu nhẹ như ngày nay. Những lề luật chặt chẽ, những đòi hỏi nghiêm khắc của gia đình và xã hội đối với lớp hậu sinh đã được nới ra rất nhiều. Chưa bao giờ giới trẻ được tự do nhiều như bây giờ trong tình yêu và hôn nhân nói riêng, trong giao tiếp và trong sự xác lập những mối quan hệ xã hội nói chung. Và quan trọng hơn cả là chưa bao giờ giới trẻ được chăm bẵm kỹ lưỡng về đường học hành như là bây giờ. Không chỉ là những ưu thế về kiến thức học đường và sức nặng bằng cấp, thanh niên ngày nay còn được hưởng những thuận lợi chưa từng có trong việc tiếp cận với những tầng văn hóa và những đỉnh cao tri thức muôn trùng của nhân loại.
Càng về cuối thế kỷ đà đổi mới và thăng tiến càng trở nên mạnh mẽ đồng thời lại càng thêm ổn định. Những điều kiện tốt đẹp mà xã hội dành cho thanh niên càng ngày càng trở thành là lẽ đương nhiên. Vì vậy, ngày nay, một mặt, dễ có cảm giác rằng thế kỷ XXI là một núi của cải và tiện nghi tuyệt hảo được dọn sẵn ra đó từ bao giờ, chờ chực chúng ta "nối mạng" vào mà tận hưởng. Mặt khác, trước những chỉ số về sự hơn hẳn trong thu nhập và mức sống, người ta dễ có cái nhìn tự phụ đối với thời gian khổ đã qua.
Phải chăng ngày nay ở ta có một bộ phận tầng lớp trung lưu khá giả tuy được học hành tử tế nhưng khá thiển cận về văn hóa, mặc dù giỏi tính toán mà lại kém cỏi trí nhớ, thu nhận được rất nhiều thông tin mà lại cạn hẹp tầm suy nghĩ, hết sức tự phụ mà lại thiếu lòng tự tôn?
■
Mùa hè năm 1998, là thành viên của đoàn nhà văn và đạo diễn điện ảnh Việt Nam, tôi đã sang thăm Mỹ. Chúng tôi đã được đón tiếp rất tốt. Là một người viết văn, cố nhiên tôi cũng muốn tin rằng trước tiên là nhờ giá trị những tác phẩm mang theo trong tay nải mà chúng tôi có được sự trọng thị của chủ nhà. Mà quả có vậy. Tác phẩm và tên tuổi của nhiều nhà văn như Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều đã quen thuộc tại đất nước rộng lớn này. Và tôi đã tận mắt thấy rõ là các buổi chiếu phim, và các tối đọc thơ của nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, tối đọc truyện ngắn của nhà văn Lê Văn Thảo bao giờ cũng đông người dự. Chẳng những rất đông mà còn say mê lạ lùng. Song le, tôi vẫn có cảm giác rằng nếu nhà văn chỉ đơn thuần là một nhà văn thì không chắc gì tác phẩm đã có được sức cuốn hút độc giả đến như vậy. Trên diễn đàn của những cuộc hội thảo, trong những buổi tiếp xúc với độc giả, danh hiệu nhà văn, nhà thơ, nhà điện ảnh của chúng tôi như được chiếu sáng lên bởi vinh quang của cuộc kháng chiến và bởi hào quang của người chiến sĩ Quân giải phóng.
Những ngày chúng tôi ở Mỹ là những ngày có nhiều sự kiện đáng chú ý với người Mỹ hiện liên tục trên tivi. Nhưng mặc kệ sự nóng bỏng, sự om sòm và giật gân, cả sự kinh hoàng nữa, đa số dân Mỹ chẳng quan tâm. Người ta bật tivi lên nhưng chẳng nhìn. Báo chí thì thật là nhiều để đọc, có điều người Mỹ đọc báo với sự quá chừng hờ hững. Buổi sáng ngồi ở tiệm cà phê mà quan sát thì thấy rằng người nào người nấy mua cả núi báo nhưng mà ai ai cũng như thể vừa đọc vừa ngáp. Không có cái chuyện gì là đáng chú ý. Không có sự kiện nào, không có nhân vật nào của thời hiện đại là đáng ghi nhớ quá một phút đối với đại chúng ở đây.
Ấy vậy mà Việt Nam, chỉ riêng Việt Nam thì vẫn không mai một, vẫn hiện hữu sâu sắc trong nội tâm nước Mỹ sau từng bấy năm trời. Sự ghi nhớ bền bỉ và xúc cảm sâu đậm khác thường ấy của người dân Mỹ và nói chung của nhân loại là một thuận lợi rõ ràng của Việt Nam ở mọi lĩnh vực trên chặng ban đầu của quá trình hội nhập. Nhưng do đâu mà dân tộc Việt lại được thế giới kính trọng và cảm phục như vậy, có lẽ phải rất hiểu hoặc chí ít là phải luôn suy nghĩ về điều này thì thế hệ Việt Nam mới giữ bền được tình cảm chung ấy.
Tất nhiên con người ta sống ở đời không nên dựa dẫm vào quá khứ, song cũng không nên cho rằng quá khứ là sự vướng bận. Nhà báo Ku Se Jeong kể với tôi rằng, trong quá trình viết loạt bài điều tra về những tội ác dã man mà lính Đại Hàn đã gây ra ở Việt Nam, thì ngoài những phản ứng gay gắt dễ hiểu từ các ngài cựu sĩ quan thời độc tài Pak Chung Hy, chị còn gặp phải trở ngại từ thái độ lãnh đạm rất khó hiểu của một số cán bộ trẻ tuổi ở tại chính những thôn xóm xưa kia đã xảy ra thảm sát. "Đối với chúng tôi quá khứ là quá khứ, đề nghị bà đừng có khuấy lên nữa". Đấy là điều người ta thường khuyên Ku Se Jeong. Tuy lời khuyên ấy có hàm một sự khôn ngoan nhất định, nhưng là một sự khôn ngoan phũ phàng và thực dụng chủ nghĩa tuyệt đối xa lạ đối với người Việt Nam. Với lại theo tôi, những người ra lời khuyên lẽ ra đừng nên dùng chữ "chúng tôi", đừng nên nhân danh bà con làng xóm, càng không nên nhân danh những người đồng hương đã bị quân thù sát hại.
■
Kể từ sau chiến tranh, mỗi năm một lần chúng tôi tổ chức hội lớp 10. Có người gọi đùa là họp "hội phụ nữ". Ngày xưa ba phần tư sĩ số là học tròn con trai, bây giờ họp mặt chỉ thấy toàn trò nữ. Trò nam còn một nhúm mười người. Vậy những người kia đâu cả rồi?
Sau khi tốt nghiệp cấp ba, gần như toàn bộ con trai lớp tôi tòng quân. Đi vào cùng một ngày. Khi ấy đa phần mới 17 tuổi. Ở tuổi ấy con người ta nom ra sao, có thể nhìn đám trai trẻ lớp 12 bây giờ mà suy ra, có điều là hồi ấy thanh niên trông còn nhỏ con, gầy guộc và hầu hết xanh xao. Có lẽ cũng non nớt hơn. Không ai ra lệnh, chẳng ai bắt buộc, vậy vì sao những thanh niên mới lớn ấy lại nhất loạt quyết lòng dấn thân vào chiến trận sống mái chống Mỹ? Mà bấy giờ là năm 1969, thời sau Mậu Thân, nghĩa là đã qua đi từ lâu giai đoạn đầu chiến tranh còn đầy bồng bột phấn khích, đầy lãng mạn, và thậm chí cả những ảo tưởng.
Đối với hiện tượng ấy thì mọi sự cắt nghĩa của người thời nay đều là không đầy đủ và không thể nào trọn vẹn. Ngay cả đơn giản miêu tả lại hiện tượng đó cũng là rất khó. Bởi vì thật ra nó hoàn toàn không có gì là đặc biệt cả đối với thời ấy. Một tinh thần yêu nước, một chủ nghĩa anh hùng quá đỗi bình thường và phổ biến trong toàn dân.
Nếu chỉ được phép nói thật ngắn gọn về những năm tháng đó, tôi muốn nói ấy là những năm tháng có một không hai của sự Đồng Lòng.
Bản thân tôi và các bạn học của tôi ngày ấy lên đường chiến đấu cũng chung một chữ đồng. Chúng tôi sẵn sàng dấn thân vào cuộc chiến bởi vì ngay từ thuở thiếu thời đã đồng lòng với cả nước mà trước tiên là với gia đình, Có thể nói rằng thế hệ chúng tôi sinh ra, lớn lên, được nuôi dưỡng, được học hành, được cha mẹ, thầy cô bảo ban chỉ để nhằm tới một mục tiêu duy nhất là đánh đuổi quân xâm lược, thống nhất đất nước. Học cho thật giỏi, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện sức khỏe cho tốt không phải để sau này vinh thân phì gia mà là để sau này lớn lên có đủ năng lực đánh thắng được Mỹ.
Tôi nghĩ như bà nội tôi, bấy giờ đã ngoài bảy mươi, quá già yếu đã gần như nằm liệt, mà ngày tôi lên đường còn gọi tôi tới bên giường răn rằng đã là lính Cụ Hồ rồi thì không được nhát gan, không được thối chí, phải gắng gỏi cho bằng anh bằng em mà dự phần vào đuổi giặc nước cứu lấy thành Huế. Hay như mẹ tôi và bao nhiêu bà mẹ khác, thương con, lo sợ cho con, nhưng không hề một lời ngăn cản. Đó là vì sao?
Sự đồng lòng ấy không chỉ là đồng lòng yêu nước mà còn là chung lòng một lý tưởng xã hội đã thấm sâu vào toàn dân từ Cách mạng Tháng Tám. Ngày nay có người cho rằng tinh thần chủ yếu trong kháng chiến là tinh thần dân tộc. Tôi cho rằng nói vậy là không đúng, ít nhất là không đúng với thực tiễn thời chúng tôi. Hồi đó người ta đồng lòng chiến đấu vì Tổ quốc và vì Chủ nghĩa xã hội. Giải phóng đất nước đồng thời Giải phóng người lao động. Chủ nghĩa yêu nước và Chủ nghĩa quốc tế. Không lẽ tâm niệm và động lực tinh thần ấy của hàng triệu thanh niên đã chiến đấu và đã hy sinh trong suốt nửa thế kỷ lại không phải là một sự thật, hoặc là một sự thật có thể phủ nhận?
Chúng ta là những người của ngày hôm nay, là những người có điều kiện so sánh, đối chiếu, kiểm chứng những thăng trầm, thành bại của thế hệ cha anh. Chúng ta có thể thấy rằng chúng ta nhiều phần giỏi giang và giàu có hơn. Tuy nhiên lại cũng phải thừa nhận rằng chính thế hệ trước đã tạo ra thời đại này, chẳng những bởi xương máu của nửa thế kỷ chiến đấu chống ngoại xâm mà còn bằng bao công lao khó nhọc xây dựng và khai phá. Chẳng phải chính những người chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thực hiện thành công cuộc cách mạng lương thực, đã điện khí hóa phần lớn nông thôn, đã xuất khẩu dầu mỏ, đã chuẩn bị nền móng cho thời đại tin học?
Hàng triệu người của thế hệ trước đã ngã xuống trong chiến tranh, bản thân họ không được thấy ngày hôm nay, song lý tưởng mà họ đã theo đuổi và dâng hiến trọn đời thì vẫn tỏa sáng trong thời đương đại. Các thế hệ sẽ mãi mãi tiếp nối nhau. Quá khứ, tương lai và hiện tại của đất nước này luôn luôn là cùng trên một con đường.
Văn Nghệ Trẻ, số 1 & 2, 2001, ký tên Nhật Giang