Ơn sâu
Sự chí tình và lòng nhân ái mà các nhà văn tên tuổi đã dành cho tôi ngay từ buổi sơ giao không có gì là bất thường cả, những nhà văn ấy cùng chiến trường với tôi. Đó là tình nghĩa anh em sâu xa và bền chặt giữa những người chiến sĩ, mà cụ thể ở đây là những chiến sĩ Mặt trận B3.
Những năm chống Mỹ, chiến trường miền Nam là một thế trận gồm liên hoàn nhiều mặt trận khác nhau.
Ngoài những đặc điểm chung của toàn chiến trường, mỗi mặt trận đều có những nét rất riêng tạo nên sự phong phú và đa dạng, muôn hình vạn trạng của cuộc kháng chiến. Đến tận bây giờ, nét riêng của mỗi mặt trận dường như vẫn còn đọng lại trong phong thái các cựu chiến binh của từng Bê. Chẳng hạn, các bạn học của tôi, cùng trường, cùng lớp, cùng nhập ngũ một ngày, nhưng vào những mặt trận khác nhau, bây giờ gặp lại, cùng là cựu chiến binh Hà Nội cả nhưng không giống nhau. Không nắm bắt được, không cụ thể chỉ ra được, song tôi vẫn cảm giác được một sự khác nhau nào đó giữa những bạn học đã chiến đấu ngoài B5 với những bạn chiến đấu trong B2, hay là với mình, chiến đấu ở B3.
Nét riêng rõ nhất của chiến trường Tây Nguyên là sự gian khổ. Cố nhiên, chiến tranh, lại là chiến tranh chống Mỹ thì có đâu mà không gian khổ, nhưng gian khổ ở B3 là tột cùng gian khổ, là gian khổ vô bờ, dằng dặc triền miên không cùng tận, xẩm tối rừng núi, không trải qua không tưởng tượng nổi, trải qua cũng không lời nào tả xiết. Về thời gian khổ B3 ấy, đã có những tác phẩm văn chương kể lại được một cách sâu sắc và chân thực, mà trong văn xuôi thì theo tôi có tiểu thuyết Lạc rừng và các truyện ngắn của nhà Trung Trung Đỉnh, có hồi ký của tướng quân Hoàng Minh Thảo, tướng quân Đặng Vũ Hiệp, đặc biệt tuyệt hay là hồi ký Tây Nguyên ngày ấy của bác sĩ Lê Cao Đài, Viện trưởng Viện Quân y 211. Dù vậy, những gì đã được viết ra vẫn chưa thể nói lên hết được những gian lao vô hạn và biển trời công lao của anh em đồng chí chúng ta. Bản thân tôi hầu như chưa động được một chút nào vào quá khứ bi hùng của Mặt trận B3. Quá khứ ấy quá đẹp đẽ và lớn lao, mà cũng quá đau thương, không ký ức nào dồn chứa nổi, không bút lực nào kham nổi.
Có thể nói rằng bởi chính những năm trường chịu đựng gian truân, bởi máu xương đổ ra đã nhuộm hồng cả núi non, sông suối, đại ngàn, mà bộ đội B3 rốt cuộc đã được vận nước và mệnh trời giao phó cho trách nhiệm lịch sử là giáng đòn sét đánh Buôn Ma Thuột. Cũng từ sức mạnh dồn nén và tôi luyện trong gian khổ trường kỳ mà quân ta đã có được ý chí gang thép để bật lên tiến hành cuộc truy kích thần tốc và thần kỳ, dữ dội và không khoan nhượng trên dọc đường 7 và đường 21, làm nên vinh quang muôn đời Tháng Ba Tây Nguyên.
Chính nhờ Tây Nguyên tháng Ba mà chúng ta đã sớm đạt tới ngày 30 tháng Tư, giành được Thống Nhất và Hòa Bình, khát vọng cháy bỏng của dân tộc mà hồi đó mấy ai dám tin là đời mình sẽ được chứng kiến khát vọng ấy trở thành hiện thực.
Đời tôi hôm nay mang nặng ơn sâu thời gian khổ B3, ơn sâu anh em đồng đội, ơn sâu đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Khi tôi tự hào nói rằng tôi đã trưởng thành lên từ Mặt trận Tây Nguyên, thì không chỉ có nghĩa trưởng thành về thể chất và ý chí, mà cả về văn hóa. Tôi tin rằng trong xã hội ta bây giờ có rất nhiều người đạt được một thực chất văn hóa không chỉ nhờ sách vở mà chủ yếu nhờ đã trải qua chiến đấu và tiếp thu được nền văn hóa chiến trường. Đây là một thứ tầm văn hóa không đo bởi bằng cấp mà bởi độ sâu sắc trong tình yêu và sự hiểu biết của người chiến sĩ về cuộc sống, con người và đất nước. Văn hóa người chiến sĩ, theo tôi nghĩ, như là một với văn hóa người nghệ sĩ.
Văn Nghệ Trẻ số 11, 2001, ký tên Bảo Ninh