Những phi vụ C47 Chiến sỹ tình báo kỹ thuật kể chuyện
Nhiều chục năm sau ngày 30-4-1975, gần đây lại thấy xuất hiện trở lại trên một số trang báo mạng cuả nước ngoài và người Việt ở nước ngoài những luận điểm đã xưa cũ vô cùng về nguyên nhân đổ vỡ Hiệp định Geneve 1954. Khác nhau câu chữ nhưng về cơ bản các luận điểm này đều gắng thuyết phục người ta rằng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chính là bên khởi sự vi phạm Hiệp định, đưa quân vào Nam mở màn chiến tranh, buộc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, vốn rất tôn trọng Hiệp định phải tiến hành chiến tranh tự vệ.
Nhưng sự thực hoàn toàn không phải thế:
Đối với nhân dân miền Bắc, cuộc tấn công bất ngờ của không quân và hải quân Mỹ ngày 5-8-1964, thực ra không bất ngờ. Đó không phải là ngày khởi đầu một cuộc chiến mà chỉ là ngày quân Mỹ ngang nhiên hóa một cuộc xâm lăng đã bắt đầu từ rất lâu, từ ngay sau ngày Hiệp định Geneve được ký kết.
Từ năm 1959, với hàng loạt chiến dịch tung rải biệt kích ra Bắc bằng đường không và đường thủy, trong thực tế Mỹ đã khởi sự đưa quân vượt Vĩ tuyến 17, tiến đánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cho nên ngay từ năm đầu của thập niên 60, qua “vụ án C47” và sau đó là hàng loạt phiên xử công khai của Tòa án quân sự các quân khu xét xử biệt kích, nhân dân miền Bắc hiểu rằng Mỹ đã bắt đầu chiến tranh. Có thể thấy rõ điều đó khi nhìn vào số lượng biệt kích bị đưa ra xử ngày một tăng, và diện ngày một rộng những địa phương đã tiêu diệt và bắt sống biệt kích. Không chỉ giới hạn ở vùng núi non biên giới Việt - Lào mà cả ở trung du và đồng bằng: Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình... (ven biển), Sơn La, Hòa Bình, Sơn Tây...
(vùng đồi núi). Qua khai báo của những lính biệt kích bị bắt, dân chúng càng thấy rõ ý đồ chiến tranh của Mỹ. Ngoài nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo và tổ chức tập kích, khủng bố, ám sát, phá hoại để hòng gây rối loạn hậu phương miền Bắc.
Nói rằng trong thực tế giặc Mỹ đã “đưa quân tiến đánh” miền Bắc là không hề phóng đại. Mặc dù nói chung quân số của mỗi toán biệt kích chỉ khoảng nửa trung đội, song tổng cộng có hàng trăm toán như vậy cho nên đấy là cả một đạo quân, hơn nữa là một đạo quân tập hợp những sát thủ do CIA trực tiếp tuyển lựa, trực tiếp huấn luyện, nuôi nấng và trả lương, không qua chính quyền Diệm. Đối tượng mà CIA nhằm vào để tuyển lựa là các sĩ quan, hạ sĩ quan và địa chủ cường hào người Bắc di cư. Sau khi sàng lọc kỹ lưỡng, nhặt ra những kẻ thâm thù cách mạng nhất, hung hãn nhất, có sức khỏe và đủ độ liều mạng, không còn thân thích ở quê nhà, CIA bí mật thu nạp chúng, bí mật gửi tới đào luyện ở các căn cứ Mỹ.
Lính biệt kích đường không được huấn luyện tại căn cứ của Liên đoàn 5 lực lượng Đặc biệt Mỹ ở Okinawa trong ít nhất sáu tháng. Sĩ quan trưởng toán thì phải học ít nhất một năm. Còn biệt kích người nhái do Lực lượng Hải Cẩu của Mỹ đóng ở Guam đào luyện. Mỗi người nhái phải qua khóa học 52 tuần lễ.
Một toán biệt kích, hoặc người nhái, thường gồm 12 tên. Ngoài những kỹ năng chung, mỗi tên được đào tạo thành chuyên gia của một bộ môn khủng bố: chất nổ phá cầu, chất nổ diệt thuyền, chất độc ám sát không lưu dấu vết, chất độc giết người hàng loạt v.v... rồi chuyên gia tổ chức đột kích bắt cóc, chuyên gia truyền tin, chuyên gia tâm lý và “dân vận”. Như vậy, dù ít người nhưng tinh luyện, một toán biệt kích mạnh và nguy hiểm hơn cả một đạo quân hợp thành. Năm 1979, tướng Đoàn Văn Quảng, Tư lệnh lực lượng đặc biệt thời kỳ trước 64 tuyên bố với tờ Sao và Vạch của Mỹ: từ năm 1958 tới 1963, Quân lực Việt Nam cộng hòa đã bị mất trên đất Bắc toàn bộ thành phần ưu tú nhất, mà về sau không bao giờ còn có thể có lại.
Sau khi được dạy dỗ kỹ lưỡng ở các căn cứ Mỹ, các học viên biệt kích tập trung tại Nha Trang. Tại đây mỗi toán huấn luyện tập trung thêm nhiều tháng với tổ lái của chiếc Dakota sẽ đưa họ đột nhập ra Bắc. Lấy khu vực đèo Rù Rì có địa thế tương đối giống vùng rừng núi Thanh Nghệ Tĩnh, các toán biệt kích thực tập bay sát mặt biển, trên ngọn cây trong những đêm trăng sáng, rồi thực tập nhảy dù ở độ cao thấp, thực tập phương án ứng phó khi bị chặn đánh, vây bắt, thực tập thả dù và đón nhận dù tiếp tế.
Ban đầu, phi hành đoàn của lực lượng Cò Trắng, lái những chiếc Dakota C47 “không số, không phù hiệu” là các sĩ quan Đài Loan. Sau hai năm học kỹ thuật bay đêm, bay không có dẫn đường ở độ cao thấp và cực thấp tại căn cứ bay bí mật của CIA ở Mỹ và Philippines, từ năm 1960 những phi công người Việt đảm trách hầu hết các phi vụ rải biệt kích. Khác với số phận lính biệt kích, phi công hầu hết toàn mạng trở về. Trong hàng trăm phi vụ C47 thâm nhập vùng trời miền Bắc chỉ có ba chiếc bị bắn rơi, tổ lái bị tiêu diệt và chỉ có hai sĩ quan không quan là Phan Khắc Thích và Phan Thanh Vân bị ta đưa ra xử trong “vụ án C47” nổi tiếng. Về sau các phi công Cò Trắng sống sót đều được Mỹ trọng dụng, trở thành nòng cốt của không quân Sài Gòn như Lưu Kim Cương, Từ Bội Cam, một số leo lên địa vị đầu lĩnh như Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Đô trưởng Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh Trần Văn Minh.
Các phi vụ tuồn biệt kích ra Bắc được thực hiện vào những đêm trăng sáng, và chỉ bay đơn độc một chiếc C47. Trước hết một kiện hàng lớn được nâng lên đưa vào phi cơ. Kiện hàng này là các loại máy truyền tin, vũ khí cộng đồng như đại liên, cối cỡ nhỏ, các loại mìn và chất nổ, thuốc men và đồ cứu thương đủ cho một trạm phẫu thuật dã chiến. Sau đó toán biệt kích gồm từ 12 đến 15 người, đi theo hàng một, ôm dù lên máy bay. Bọn họ được trang bị vũ khí mạnh nhưng gọn nhẹ, tư trang là của người dân thường miền Bắc, giấy tờ tùy thân giả được CIA chế tác y như thật. Mỗi lính được phát 800 đồng miền Bắc, và được phòng thân bằng hai viên thuốc độc cyanuare để có thể tự sát trong chớp mắt. Các sĩ quan chỉ huy cuộc hành quân và huấn luyện viên nhảy dù cùng bay với toán biệt kích tới địa điểm đổ quân, nhưng không nhảy dù xuống mà sẽ quay về cùng chiếc C47. Tổ lái của chiếc C47 gồm 6 người. Trước phút cất cánh, những nhân viên CIA phụ trách tiến hành cuộc “chiến tranh ngoại vi” cùng Tư lệnh Sở Bắc của lực lượng đặc biệt lên máy bay huấn thị lần cuối, chào tạm biệt và chúc các “Kinh Kha của thế giới tự do” thắng lợi trong cuộc xuất chinh phi thường đi tiên phong trong sứ mệnh Bắc Tiến. Từ Nha Trang tới Đà Nẵng, chiếc C47 sử dụng ám hiệu truyền tin như mọi máy bay quân sự khác đang bay trên vùng trời Nam Việt Nam. Tới Đà Nẵng, chiếc C47 xuống thật thấp làm như đã đáp xuống phi đạo, nhưng nó trườn ra biển, gần như ngay sát mặt sóng.
Đã được đào tạo kỹ lưỡng, phi công vẫn duy trì độ cao rất thấp (trên dưới 100 thước) cả sau khi đã đột nhập vào đất liền của miền Bắc, điều khiển máy bay bám theo các triền sông và các bờ núi để tiếp cận mục tiêu. Năm 1961, một chiếc C47 bay thấp như vậy đã đâm đầu vào núi Ba Vì.
Đến gần tọa độ mục tiêu, máy bay tăng tốc độ và vọt lên độ cao từ 300 đến 500 thước. Kiện hàng mang dù lớn được thả ra trước. Tiếp đó, sĩ quan chỉ huy hành quân và huấn luyện viên nhảy dù trực tiếp đưa tay đẩy lưng từng biệt kích ra khỏi cửa máy bay. Trưởng toán nhảy sau cùng. Tên này vừa vọt khỏi cửa khoang, máy bay lập tức hạ độ cao, nhanh chóng biến khỏi tọa độ.
Biệt kích người nhái thì áp sát bờ biển miền Bắc bằng những chiếc thuyền được đóng theo đúng kiểu của thuyền đánh cá vùng Đồng Hới, nhưng có gắn động cơ. Áp sát bờ biển vào lúc nửa đêm, rồi dùng thuyền cao su đột nhập vào bờ.
Trước năm 1960, các phi vụ rải biệt kích và tung người nhái còn thưa (chỉ khoảng 30 toán), được tiến hành cực kỳ bí mật. Từng chiếc C47 đơn độc bay trong đêm tối, tuyệt đối không có yểm trợ. Nhưng từ sau năm 1960, cuộc chiến tranh biệt kích (Mỹ gọi là cuộc chiến tranh ngoại vi) gia tăng cường độ. Trung bình mỗi tháng có 5 toán biệt kích xâm nhập ra Bắc. Không còn có thể giữ được hoàn toàn bí mật nữa, nên mỗi lần C47 chở biệt kích cất cánh, bọn Mỹ phải tiến hành những hoạt động hỗ trợ và nghi binh. Chẳng hạn nếu đêm đó rải biệt kích xuống Lạng Sơn thì để dương đông kích tây, Mỹ cho C47 bay vòng lộ liễu ở một tọa độ xa trong miền tây Nghệ An. Nhiều ngày sau lại tổ chức thả đồ tiếp tế xuống khu vực nghi binh này cố để ta phát hiện thấy. Chúng còn tiến hành tung những toán biệt kích ma. Chẳng hạn thay cho 12 biệt kích thì cho thả dù 12 cây nước đá. CIA cho rằng công an và bộ đội ta sẽ tập trung lực lượng vào khu vực phát hiện được 12 chiếc dù để lùng bắt một cách vô hiệu những biệt kích vô hình. Chúng hy vọng là khi tập trung vào khu vực đó, ta sẽ để lỏng khu vực khác và chúng sẽ nhân cơ hội ấy mà tung biệt kích. Mặt khác, chúng cho rằng khi tìm được dù mà không truy được vết tích của bọn nhảy dù, quân dân trong vùng sẽ lâm vào tình trạng hoang mang lo sợ.
Tuy nhiên, mọi nỗ lực, mọi mưu kế và tiền bạc dành cho “cuộc chiến tranh ngoại vi” chỉ dẫn tới thảm bại. Tất cả những toán biệt kích và những toán người nhái đều bị diệt, bị bắt sống không sót một tên. Chưa hề có một toàn nào, một tên biệt kích nào trước khi sa lưới kịp thực hiện bất kỳ một hành động phá hoại và khủng bố nào do Mỹ sắp đặt.
Có thể nói, từ năm 1959 đến 1964, cùng với thắng lợi của nhân dân miền Nam đánh thắng Chiến tranh Đặc biệt, nhân dân miền Bắc đã đánh thắng Cuộc chiến tranh Biệt kích của Mỹ. Tuy ít được nhắc tới nhưng chiến công của quân dân miền Bắc trong những năm trước khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Phá hoại vẫn là rất to lớn và quan trọng.
Văn Nghệ Trẻ, số 18, 2001, ký tên Nhật Giang