Pha tiếng
Nói riêng thì lời thoại là một trong nhiều cái hay của phim Đời Cát, nhưng nói chung thì thoại là một hạn chế thường thấy của điện ảnh. Khán giả đã từng phải chào đón không ít những bộ phim mà trong đó học trò nhại lời anh bộ đội, còn lời lẽ của anh bộ đội thì ngược lại, như thể được chép ra từ sách giáo khoa học trò.
Phim tôi còn kém bởi “kém bát gạo bởi lâu đồng tiền”, vẫn thường nghe như vậy. Song, lời nói chẳng mất tiền mua, đâu có cần quá nhiều kinh phí cho, chẳng hạn, một lời tỏ tình? Nhưng nghe nhiều cặp ngỏ lời với nhau trên phim, trên kịch, nhất là phim và kịch truyền hình, người ta có cảm giác như là chàng nàng đang đọc cho nhau những mẫu câu được lắp đặt. Để thể hiện những trạng thái như là thân yêu, căm ghét, giận dữ, mừng vui có thể là còn khó tìm lời, nhưng để bảo rằng tỷ dụ: tôi đói bụng, tôi đau răng, hay trời đẹp, trời xấu thì không khó gì, vậy mà lắm khi người đóng phim vẫn cứ nói rất “phô” bởi vẫn cứ là nói như đọc. Tuy nhiên sự chán ngắt ấy hầu hết không phải lỗi diễn viên. Một khi nhà biên kịch đã biên ra một thứ đối thoại vô hồn thì dẫu có là diễn viên thượng thặng cũng chẳng tài nào hà hơi cho mẩu tâm tình đỡ sượng.
Cũng trong nhiều loại hình nghệ thuật khác, trong điện ảnh và sân khấu nước ta, quá khứ chiến tranh và cách mạng luôn là đề tài hàng đầu, người chiến sĩ luôn là nhân vật trung tâm. Song, mặc dù số lượng tác phẩm thì rất nhiều, tác phẩm có chất lượng cao về đề tài này không nhiều. Thỉnh thoảng vẫn hiện ra trên ti vi những bộ phim khiến người ta kinh ngạc chẳng hiểu vì sao Nhà nước cứ mãi chịu phí tổn cho những thứ mà cựu chiến binh nếu xem phải thì bực mình, lớp hậu sinh thì lập tức chuyển kênh hoặc tắt máy. Nội dung có thể là tốt, nhưng dở và giả, gây phản cảm, vậy thì tốt mà làm gì.
Trong những bộ phim tốt một cách vô ích ấy, đối thoại thường đặc biệt xoàng xĩnh. Do không mấy am hiểu về đời sống chiến trường, nhà biên kịch tưởng đâu bộ đội ta ai cũng nói năng ồn ào phô trương, hời hợt và khuôn sáo như mình. Nhà biên kịch áp đặt cho các cán bộ chỉ huy trong Quân Giải phóng những cử chỉ và ngôn từ của ông thủ trưởng cơ quan mình hiện nay. Các chiến sĩ trong phim trò chuyện với nhau cứng như gỗ, vai chiến sĩ nói với vai cán bộ mà cứ y như là mấy tay cạo giấy thưa bẩm trước quan trên.
Quân ta đã bị nhại giọng, quân địch trong phim nói năng còn chướng hơn. Nhất là những vai Tây vai Mỹ. Thường vẫn nghe vang lên lơ lớ giọng của một tên Mỹ bàn bạc với một tên Mỹ khác bằng một thứ tiếng Việt thớ lợ do nhà biên kịch nghĩ ra.
Lại thêm cái tật “rất phim” này nữa: ấy là việc một số nhà biên kịch thích để cho các vai ngoại quốc mày tao chí tớ với các vai người Việt. Chẳng hạn bữa rồi trên ti vi, người ta trình chiếu một tiểu phẩm phỏng theo truyện ngắn Người vãi linh hồn. Trong đó có cảnh một tay nhà báo Mỹ yêu cầu một phân đội Quân Giải phóng diễn lại cảnh cắm cờ chiến thắng trên chốt Mỹ để cho y chụp hình. Vai ông Mỹ “bạn tốt” này luôn to mồm với các vai quân ta bằng tiếng Việt như sau: “Tao kính trọng chúng mày”, “Tao muốn chúng mày diễn lại”, “Tao muốn thằng này, mày ấy, đóng vai thằng cắm lá cờ!”. Nếu đây là một sự dịch thuật thì trong ngữ cảnh như vậy mà chuyển I thành ra tao, You thành ra chúng mày, ông biên kịch với ông đạo diễn quả là “giỏi giang” điều chế tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ. Còn nếu đúng đây là tiếng Việt thì trên đời chưa ai vô học và ngạo mạn bằng cái ông Mỹ rởm này, còn mấy anh bộ đội nọ thì đáng phải đưa ra quân pháp.
Cũng như trong đời thường, thói nhại lời pha tiếng trong nghệ thuật chẳng được ai ưa. Vậy mà tật đó không chỉ có trong sân khấu và điện ảnh, có cả trong văn học, trong báo chí nữa. Tật này đặc biệt hay cộm lên khi các tác giả đi vào đề tài liên quan đến đồng bào các dân tộc thiểu số.
Phát ngượng lên được bởi sự ngô nghê thô thiển mà một số cây bút gán từ bản thân mình sang cho các nhân vật. Các nhà sáng tạo chữ nghĩa đó cho rằng nhại lời pha tiếng như thế mới là mộc mạc, mới là dân tộc tính. “Cái miệng mày, cán bộ cô giáo thấy nhiều cái tốt, cái chữ hay lên núi làm ưng cái bụng mình đồng bào”.
Một người Êđê hay một người Dao nếu chưa thạo tiếng phổ thông tất nhiên sẽ gặp khó khăn khi trò chuyện bằng tiếng phổ thông. Một người Mỹ, một người Trung Quốc chưa sõi tiếng Việt cũng vậy thôi. Nào có gì là đặc biệt để hễ cứ đụng tới Tây Nguyên hay Tây Bắc thì ngay cả một số phóng viên đài truyền hình cũng xài lối nói của người chưa thạo tiếng Việt.
Với lại hà cớ gì mà các nhà sáng tác lại bắt buộc hai người Êđê phải nói với nhau bằng một thứ tiếng Kinh không ra là cái thứ tiếng gì trên đời! Người Êđê nói với người Êđê bằng tiếng Êđê chứ. Người Thái, người Chăm cũng sẽ có người thì tài nói người thì vụng nói, như người Kinh nói tiếng Kinh, khác gì đâu. Còn khi cần chuyển cuộc nói chuyện của hai người Êđê ra tiếng phổ thông thì phải chuyển một cách tử tế.
Bắt nhân vật của mình nói năng giả tạo, buộc họ pha tiếng nhại giọng của nhau một cách bất nhã chứng tỏ người cầm bút chẳng những nông vốn sống, cạn vốn từ mà còn thiếu tình yêu và lòng tôn kính đối với tiếng mẹ đẻ, sự trọng thị, lòng ngưỡng mộ đối với ngôn ngữ các dân tộc khác.
Văn Nghệ Trẻ số 24, 2001, ký tên Nhật Giang