← Quay lại trang sách

Mùa xuân xa nhà

Đoàn tụ gia đình là ước mong hàng đầu của mọi người Việt Nam những khi năm hết tết đến. Ông bà, bố mẹ, vợ chồng con cái, anh em ruột thịt toàn gia được quây quần sum họp đón giao thừa trước bàn thờ tổ tiên. Còn hạnh phúc nào bằng. Nhưng hạnh phúc ấy chẳng phải nhà nào cũng có được trọn vẹn. Ngay các gia đình có nhiều thuận lợi để đoàn tụ thì không phải là Tết nào cũng sum vầy được đông đủ. Để nhịp sống của đất nước không một phút giây chậm lại, để cho muôn nhà được vui vẻ bình an đón Tết, rất nhiều gia đình có người thân không về chung vui, vẫn phải xa nhà, xa quê, tiếp tục gánh vác công việc thường nhật: các chiến sĩ biên phòng và hải đảo, các chiến sĩ công an, các đơn vị trực chiến của quân đội, nhân viên điện lực, hỏa xa, hàng không, bưu điện, nhân viên các cơ quan y tế, truyền thông v.v... Thành ra Tết cũng là thời gian của nỗi ngóng trông, niềm thương nhớ trong các gia đình.

Tết thời bình đã vậy, Tết thời chiến những năm xưa còn làm lòng người xốn xang nhớ nhung nhau da diết bội phần.

Có thể bởi vì lẽ đó mà với những người đã trải qua chiến tranh, giờ đã luống tuổi, đã về nhà, phút giao thừa, đêm trừ tịch, ngày đầu xuân là thời khắc nghiêng hết mình về quá khứ.

Giải ngũ cuối năm 1975, tính tới Tết này là đã hăm bảy cái Tết rồi tôi được hưởng thái bình yên ổn. Song không có một cái Tết nào của những năm dài bình yên ăn sâu được vào tâm trí bằng như cái Tết cái thời trận mạc. Đời bộ đội sáu năm với năm lần Tết, đều Tết nhớ thương, Tết xa nhà.

Tôi nhập ngũ mùa thu 1969. Trải hơn ba tháng tân binh, luyện quân ở Yên Thế, rồi lên đường đi Bê. Khi tiểu đoàn nhận lệnh lên đường đã là tuần cuối tháng Chạp ta. Theo thông lệ thì đi Bê quân lính được nghỉ phép 15 ngày. Và lý ra tiểu đoàn chúng tôi được đợt phép trùng vào dịp Tết. Nhưng suất phép ấy của chúng tôi bị cắt. Thời gian đó, trên nhận định có nhiều khả năng bọn Nixon sẽ tái diễn chiến tranh phá hoại bằng không quân, tổ chức đánh lớn tại miền Bắc. Vì vậy các đơn vị phải tranh thủ thời gian, hành quân cấp tốc vào Nam.

Chúng tôi hành quân bộ về Yên Viên rồi lên tàu hỏa quân sự. Tàu qua cầu Long Biên, vào Hà Nội, phố xá giờ đây đã sáng bừng lên rực rỡ ánh đèn. Buổi tối ngày 28 Tết.

Ngoài những lý do chung, mỗi người Hà Nội có một can cớ riêng để yêu thành phố quê hương. Tôi yêu và tôi tự hào về thành phố của mình trước tiên là bởi những ấn tượng và nỗi niềm không bút nào tả xiết nhưng chẳng thể phai mờ trong chuyến tàu hành quân qua Thủ đô tối hôm ấy.

Thành phố mới thời tạm ngưng chiến thôi nhưng vào ngày giáp Tết nên vẫn đông vui và đèn như sao sa. Phố phường thân yêu lần lượt hiện lên, trôi qua. Ga Đầu Cầu, Bến Nứa, mái chợ Bắc Qua, chợ Đồng Xuân, rạp Bắc Đô, tháp nước đầu Hàng Than... Từ trên tàu tôi không thấy được chợ hoa Hàng Lược, nhưng có thể thấy dòng người và hoa từ đấy đổ ra trẩy cuồn cuộn dọc phố Phùng Hưng, dồn tụ lại trước các barie đường Trần Phú, Điện Biên Phủ, Hàng Đẫy, Cửa Nam, Sinh Từ. Trên toa tất cả lặng như tờ, binh lính như thể nín thở để đón nhận mọi âm thanh, mọi hình ảnh của đường phố. Tiếng cười nói, tiếng chuông xe đạp, chuông xích lô, tiếng pháo tép, pháo đùng. Qua cửa sổ các ngôi nhà chúng tôi thoáng thấy những căn phòng đã được bày biện để đón Tết: chậu đào, chậu quất, câu đối đỏ, mâm ngũ quả... Chúng tôi thấy ở các máy nước công cộng dọc vỉa hè đám đông các bà các chị đang rửa lá dong. Tại sân trước, sân sau của nhiều nhà đã thấy nồi bánh chưng trên bếp lửa với lũ trẻ xúm xít ngồi canh. Hà Nội của thời chinh chiến ấy, vui tươi và hồn hậu, sống động và cởi mở, một thành phố chung sống và chung vui, đường phố, nhà cửa chan chứa tình thân ái, không hề có cảnh kín cổng cao tường.

Trên tàu đa phần là tân binh Hà Nội. Nhiều người, phố của họ, đường tàu chạy cắt qua. Có tay là dân phố Phùng Hưng, tàu chạy chầm chậm dọc qua phố ấy, qua trước cửa nhà. Và tôi cũng gần như vậy. Nhà tôi hồi ấy ở kề ngã tư Nguyễn Thái Học - Nam Bộ. Chồm hẳn nửa người khỏi cửa sổ toa, tôi mong có ai đứng sau barie Hàng Đẫy, barie Cửa Nam nhận ra tôi. Cha mẹ tôi, anh trai, em gái tôi hẳn là nghe thấy tiếng bánh sắt lăn trên đường ray, tiếng còi tàu vào ga, mà không biết tôi đang trên tàu. Vẫn cứ mong ngóng vẫn cứ chờ đợi.

Tàu qua ga Hàng Cỏ không dừng bánh. Tôi nhường cửa sổ cho các anh em nhà ở Kim Liên, ở Vọng, ở Bạch Mai, Đuôi Cá...

Qua Đuôi Cá mà hồi đó coi như là khúc chót của phố xá, chúng tôi đốt pháo từ biệt Hà Nội. Các băng pháo nối nhau dọc các toa, phải tới chừng hơn mười phút mới dứt. Trận “đấu pháo” ầm ĩ ấy, các cán bộ chỉ huy không ra lệnh ngăn lại bởi thấu hiểu nỗi lòng chiến sĩ. Toàn tân binh Hà Nội, mười bảy, mười tám tuổi, nhìn quầng sáng Hà Nội lùi xa, buồn lắm. Bấy giờ vừa trải qua hai năm 68, 69 nhiều đau thương mà những tháng ngày đón đợi phía chân trời thì đang hiện ra cùng với vô vàn gian nguy báo trước, vì vậy chúng tôi ai cũng thầm hiểu rằng không phải tất cả anh em mình đây đều sẽ còn có dịp nhìn thấy lại vầng sáng đang khuất dần kia của thành phố quê hương.

Chúng tôi xuống tàu ở ga Si. Hành quân tiếp bằng ô tô, rồi hành quân bộ. Phút giao thừa, bước sang mùa xuân 1970, chúng tôi nghỉ chân bên con đường đồi ở miền tây Hà Tĩnh. Chúng tôi hút thuốc Điện Biên, nhấm mứt gừng và uống trà Ba Đình pha sẵn trong bi đông. Qua đài bán dẫn của chỉ huy đại đội, chúng tôi được nghe vang vọng lời chúc Tết cuối cùng của Bác Hồ năm ngoái, năm Kỷ Dậu. Chúng tôi nghe những âm thanh tưng bừng của lễ mừng giao thừa Canh Tuất ở Hà Nội.

Ngày hôm sau chúng tôi bắt đầu cuộc hành quân ngàn dặm đường Trường Sơn để tiến vào chiến cuộc mùa khô 1970.

Tết nào trong đời bộ đội cũng đáng nhớ. Những cái Tết cực kỳ gian khổ của thời sau Mậu Thân, bị địch bao vây, bị địch đẩy lùi ra Ba biên giới, phải đón giao thừa bằng sắn khô muối riềng, ba ngày Tết lính tráng bị thương và sốt rét nằm la liệt ở bìa rừng. Hay là cái Tết Quý Sửu, ngay sau Hiệp định Paris, chan chứa hy vọng hòa bình. Nhưng với tôi, cái Tết Canh Tuất, Tết đầu tiên xa nhà ấy, và Tết sáu năm sau, Tết Ất Mão, Tết ở cửa ngõ mùa xuân đại thắng 1975 là hai cái Tết của cả cuộc đời. Mãi mãi không thể nào quên.

Văn Nghệ Trẻ, số 5, 2002, ký tên Nhật Giang